Tải bản đầy đủ (.doc) (276 trang)

TỔNG HỢP CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN ÔN THI LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 276 trang )

1
TỔNG HỢP CÂU HỎI ÔN THI LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề thi các năm và đáp án
1. Phân tích phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ
mô của chính phủ. Liên hệ với tình hình thực tiễn của Việt Nam trong thời gian qua?
2. Phân tích hiện tượng ‘chèn lấn’ các khoản vay của chính phủ đối với đầu tư và xuất khẩu của
khu vực tư. Nêu các giải pháp khắc phục hiện tượng này.
3. Trình bày nội dung cải cách hệ thống ngân hàng theo hướng tự do hóa tài chính.
4. Những yếu tố tác động trực tiếp đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI)? Phân tích các
giải pháp mở rộng thu hút nhanh vốn FDI tại Việt Nam.
5. Nêu cơ sở khoa học của việc chính phủ tham gia vào quản lý hệ thống tài chính bằng các “qui
định” (Regulations)?
Cuộc khủng hoảng tài chính của nước Mỹ là do các qui định quản lý của hệ thống tài chính
quá lỗi thời. Nhận định này đúng hay sai? Giải thích?
6. Theo S.Mishkin (2004): … “Cổ phiếu không phải là hình thức tài trợ vốn quan trọng hơn các
trung gian tài chính đối với các doanh nghiêp”…
Hãy dùng lý thuyết thông tin bất cân xứng để bình luận nhận định trên và nêu ra các giải
pháp để giúp hệ thống các ngân hàng thương mại phát triển bền vững và lành mạnh?
7. Phân tích sự phối hợp giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ trong kiểm soát lạm phát.
Liên hệ thực tiển của Việt Nam trong thời gian qua.
8. Trình bày các quan điểm lựa chọn cấu trúc tài chính trong điều kiện thông tin bất cân xứng và
khuynh hướng tài trợ vốn của hệ thống tài chính Việt Nam trong thời gian tới.
9. Trình bày nội dung cải cách hệ thống ngân hàng theo hướng tự do hóa tài chính.
10. - Phân tích những lợi ích chi phí khi tham gia khu vực đồng tiền chung.
- Nhưng điều kiện cơ bản khi xây dựng khu vực đồng tiền chung.
- Nhận định về điều kiện xây dựng đồng tiền chung khu vực Asean.
2
11. - Phân tích lợi ích và chi phí đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Đánh giá khái quát về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta.
- Các giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Câu hỏi sưu tầm của các lớp và gợi ý của cô:


12. Mối quan hệ giữa nguồn tài chính vô hình và nguồn tài chính hữu hình là gì? (phần quan
điểm của các nhà kinh tế VN về nguồn tài chính)
13.Hiện nay Nhà nước sử dụng mô hình cân đối ngân sách nào ?
14.Cải cách thuế ở VN ?
15.Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính 2008 của thế giới, đặc biệt ở Mỹ, VN đã rút ra
được bài học gì? (đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và tài chính như thế nào)
16.Xu hướng cải cách tài chính của VN là đi theo xu hướng cải cách tài chính của thế giới, tuy
nhiên bước đi, lộ trình, thời gian khác nhau như thế nào?
17.Cần cân nhắc khi vay nợ: hiệu quả của việc sử dụng tiền vay và trả nợ như thế nào? (gợi ý:
vấn đề cần cân nhắc: khi vay nợ sẽ xảy ra vấn đề chèn lấn đầu tư và chèn lấn xuất khẩu 
giải pháp khắc phục)
18.VN bằng các biện pháp nào để có thể phát triển thị trường tài chính
19.Các yếu tố cơ bản của một môi trường đầu tư là gì? (trong câu hỏi này có một yếu tố (còn
nhiều yếu tố khác nữa) là: môi trường kinh tế vĩ mô phải ổn định và phát triển vd như: tốc độ
tăng trưởng GDP, chính sách lãi suất, tỷ giá kìm chế lạm phát v.v , từng chính sách đó đưa ra
các biện pháp cụ thể và phải liên hệ thực tiễn VN)
20.Vay nợ nước ngoài chính phủ sẽ tăng tiết kiệm, và có làm giảm tiết kiệm trong nước hay
không? Việc này có ảnh hưởng đến chính sách tỷ giá và điều hành tỷ giá như thế nào? Ngoài
ra việc vay nợ nước ngoài sẽ làm tăng nợ nước ngoài đối với trong nước, vấn đề này được xử
lý như thế nào?
3
21.Phân biệt giữa nợ quốc gia và nợ chính phủ? (Nợ quốc gia gồm nợ chính phủ và nợ doanh
nghiệp vay bên ngoài)
22.Bên cạnh những mặt tích cực trong việc thu hút nguồn vốn ODA, còn có những ảnh hưởng gì
đến quốc gia đó? (kinh tế, chính trị chẳng hạn)
23.Khi phát hành trái phiếu, thì nhà nước cần phải chuẩn bị những yếu tố nào? (kỹ thuật phát
hành trái phiếu)
24.Những mặt thuận lợi và hạn chế trong việc thu hút vốn FDI tại TP.HCM?
25.Ở VN, quá trình tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước có phải là quá trình tư nhân hoá hay
không? Nếu không phải thì cổ phần hóa ở Việt Nam và tư nhân hóa ở nuớc ngoài có khác

nhau ở chỗ nào?
26.Nghiên cứu quá trình CPH DN ở VN, khi NN chuyển nhượng DNNN từ một sở hữu thành đa
sở hữu, VN có xảy ra trường hợp các DN đó thu được tiền chuyển nhượng thấp hơn giá trị
thực tế của DN hoặc ngược lại hay không?
27.Tại sao nói CPH DNNN là việc thực hiện phân phối lại thu nhập của xã hội, tạo điều kiện cho
người thu nhập thấp và nghèo nâng cao thu nhập?
28.Thị trường CK nên hình thành trước hoặc sau quá trình CPH thì việc CPH sẽ có hiệu quả?
29.Đấu giá công khai và bán qua đấu thầu khác nhau những điểm nào?
30.TC công và TCNN giống và khác nhau điểm nào?
31.TC công bao gồm những bộ phận nào?
32.Đánh giá sự phát triển của HTTC và liên hệ thực tiễn VN?
33.Các nhân tố kinh tế nào mà lãi suất chịu ảnh hưởng và chính những nhân tố này ảnh hưởng
đến sự phát triển của kinh tế?
34.Lãi suất biến động có tác động đến cung cầu tín dụng không?
35.Liên hệ việc điều hành lãi suất VN năm 2010. Việc áp dụng lãi suất thoả thuận có phải là một
bước tiến bộ hay không?
4
36.Các biện pháp nào NHTW sử dụng để can thiệp vào TGHĐ?
37.Liên hệ việc điều hành tỷ giá năm 2010 ở VN?
38.Việc điều chỉnh TGHĐ có những mặt tích cực và tiêu cực như thế nào?
39.Với môi trường kinh tế vĩ mô ở VN không ổn định: lãi suất tăng cao, giá cả hàng hoá tăng
cao…thì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của NH ở những khía cạnh và nghiệp vụ nào? Có gây
ra căng thẳng TC cho NH không?
40.Nợ chính phủ của Hy Lạp (diễn biến, nguyên nhân, những hậu quả cho nền kinh tế, tầng lớp
dân cư, và các nước cho vay, từng bước khắc phục như thế nào?) (cô yêu cầu nghiên cứu
thêm)
41.Ở VN có xảy ra khủng hoảng TCTT hay không (nêu rõ biểu hiện ở những mặt nào)? Để ngăn
ngừa hay giải quyết khủng hoảng TCTT, nhà nước ta cần phải dùng những biện pháp gì?
42.Ở VN có xảy ra khủng hoảng TTCK hay không (nêu rõ biểu hiện ở những mặt nào)? Nêu
những biện pháp để ngăn ngừa hoặc giải quyết?

43.Ở VN dòng vốn đầu tư ngắn hạn vào TTCK có tháo lui chưa trong trường hợp chính sách
chưa ổn định?
44.Ở VN tình hình thâm hụt NSNN triền miên, khá lớn, hàng năm từ 5%/GDP, nhưng những
năm gần đây đã vượt quá 5%/GDP, với tình hình đó sẽ có nguy cơ xảy ra khủng hoảng NS
hay không?
45.Nêu các biện pháp để công khai hoá TC và lành mạnh hoá nền TC quốc gia?
46.Nghiên cứu cuộc khủng hoảng TC thế giới năm 2008?
47.Theo quan điểm các nhà kinh tế VN, tại sao tự do hoá TC lại phải kiểm soát chính sách tài
khoá?
48.Dưới tác động của tự do hoá TC thì cơ cấu thu chi NS sẽ có thay đổi, điều này nó thể hiện
như thế nào?
49.Những cam kết của VN đối với WTO về lĩnh vực TC?
5
50.Tự do hoá lãi suất ở VN được thực hiện thời gian nào hoặc khoảng thời gian nào?
51.Các nội dung liên quan đến cải cách NHVN? Và thời điểm nào bắt đầu thực hiện việc cải
cách đó?
52.Trình bày diễn biến lạm phát ở VN? Trong điều kiện chống lạm phát hiện nay, NHTW sử
dụng công cụ và biện pháp nào để chống lạm phát?
53.TGHĐ khi sử dụng nó để chống lạm phát thì biểu hiện như thế nào?
54.Khi một quốc gia tiếp cận tốt đối với thị trường TC quốc tế, nó sẽ có những biểu hiện nào?
55.Thị trường TC thế giới tác động tích cực và tiêu cực đối với TC của một quốc gia như thế
nào?
56.Các hình thức thu hút vốn ODA, FDI?
57.Trước tình hình nền TC có nhiều điều kiện chưa hoàn thiện, VN trong quá trình tự do hoá TC
cần những giải pháp nào để thực hiện tự do hoá TC?
58.Liên hệ thực tiễn VN về chu chuyển vốn quốc tế đặc biệt là trên tài khoản vãng lai?
59.Xu hướng cải cách thuế ở VN trong những năm tới? Cần hoàn thiện các loại thuế nào?
60.Trong quản lý nợ công có những rủi ro, những rủi ro nào có thể xảy ra trong quản lý nợ công
ở VN? (tiềm lực TC và tiềm lực kinh tế rất quan trọng)
61.Cách tính toán thâm hụt NSNN ở VN và thế giới có tương đồng hay không? Trong trường

hợp không tương đồng thì khác nhau ở điểm nào?
62.Tái cấu trúc khu vực kinh tế NN được biểu hiện trên những nội dung nào?
63.Cơ chế TC và quản lý TC trong tập đoàn kinh tế VN?
64.Nếu quá trình CPH và hình thành TTCK được thực hiện song song với nhau thì có tạo thuận
lợi cho việc CPH hay không?
65.Trong điều kiện VN lạm phát cao, mục tiêu chống lạm phát hàng đầu, kế đến là tăng trưởng
kinh tế, để thực hiện việc chống lạm phát, NN sử dụng chính sách thắt chặt TC và tiện tệ,
việc làm này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến TTCK? Việc thực hiện các chính sách nêu trên sẽ
6
có độ trễ của nó, độ trễ của việc thực hiện các chính sách trên sẽ ảnh hưởng như tế nào đến
TTCK?
66.TGHĐ và lãi suất ảnh hưởng như thế nào đến lạm phát?
67.Những biện pháp can thiệp vào TGHĐ? Trong đó biện pháp cuối cùng là gì (phá giá tiền tệ)?
68.Các biện pháp can thiệp của NN vào TT ngoại hối (NHTW can thiệp như thế nào)?
69.Cải cách khu vực kinh tế nhà nước: thị trường chưng khoán có cần đi trước một bước 1
bước?
70.Nguyên nhân cổ phần DNNN ở các nước rất nhanh nhưng VN chậm?
71.Nếu NN bán giá thấp hơn giá trị thực của doanh nghiệp. Tiêu cực là gì?
72.Nếu NN bán giá cao hơn giá trị thực của doanh nghiệp. Có lợi là gì?
Câu 1: Phân tích phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ
mô của chính phủ. Liên hệ với tình hình thực tiễn của Việt Nam trong thời gian qua?
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hợp thành hệ thống chính sách quan trọng trong
việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các công cụ của hai chính sách này vừa có tính độc lập, nhưng vừa
có tính tương tác, hỗ trợ nhau trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Sự phối hợp tốt, nhịp nhàng
hoạt động của hai chính sách này sẽ giúp chính phủ điều hành đạt được hai mục tiêu quan trọng của
kinh tế vĩ mô là tăng trưởng và kiểm soát lạm phát; nhưng ngược lại, sự phối hợp không nhịp nhàng,
không gắn kết sẽ làm giảm hiệu quả điều hành chính sách và thậm chí có thể làm trầm trọng, làm
cho kinh tế vĩ mô bất ổn. Vì vậy, tìm ra cơ chế phối hợp giữa hai chính sách này luôn được chính
phủ, các nhà hoạch định chính sách quan tâm. Bài viết này đề cập tới một số vấn đề phối hợp giữa
hai chính sách trong kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua và đưa ra một số đề xuất

nhằm tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong thời gian tới.
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát
7
Chính sách tài khóa là các chính sách của chính phủ nhằm tác động lên định hướng phát triển
của nền kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu chính phủ và thuế khóa. Chính sách tài khóa
khác với những chính sách kinh tế cơ bản khác như chính sách tiền tệ, đó là chính sách nhằm ổn
định nền kinh tế bằng cách kiểm soát tỉ lệ lãi suất và nguồn cung tiền. Hai công cụ chính của chính
sách tài khóa là chi tiêu của chính phủ và hệ thống thuế. Những thay đổi về mức độ và thành phần
của thuế và chi tiêu của chính phủ có thể ảnh hưởng đến các biến số của nền kinh tế như: tổng cầu
và mức độ hoạt động kinh tế; kiểu phân bổ nguồn lực; phân phối thu nhập, hay nói cách khác chính
sách tài khóa liên quan đến tác động tổng thể của ngân sách đối với hoạt động kinh tế.
Trong khi đó, chính sách tiền tệ chủ yếu tập trung vào ổn định tiền tệ (kiểm soát lạm phát);
tăng trưởng kinh tế; tạo việc làm và cân bằng cán cân thanh toán. Tùy theo từng giai đoạn và diễn
biến của kinh tế vĩ mô mà chính sách tiền tệ hướng tới mục tiêu ưu tiên nào là chủ yếu, chẳng hạn
trong giai đoạn lạm phát cao, tăng với tốc độ vừa phải, chính sách tiền tệ thường tập trung ưu tiên
vào mục tiêu kiểm soát lạm phát và khi ổn định được lạm phát, mục tiêu của chính sách này lại
thường kết hợp với mục tiêu tăng trưởng. Các công cụ của chính sách tiền tệ như chính sách lãi suất
tái chiết khấu, chính sách dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và hạn mức tín dụng có tác
động nhanh chóng trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng, từ đó tác động đến lạm phát, và vì vậy,
chính phủ các nước thường sử dụng tối đa các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm
phát về ngắn hạn; nhưng nếu chỉ có chính sách tiền tệ, lạm phát khó có thể được kiểm soát về dài
hạn, đặc biệt đối với các nước lạm phát cơ cấu như Việt Nam. Vì vậy, các nhà hoạch định chính
sách vĩ mô phải kết hợp nhịp nhàng hoạt động hai chính sách này để vừa giải quyết được các mục
tiêu trước mắt, vừa kiểm soát được lạm phát về lâu dài. Thế nhưng trên thực tế, sự phối hợp hai
chính sách không phải lúc nào cũng ăn khớp như mong muốn.
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong
thời gian qua
Mặc dù bối cảnh kinh tế quốc tế không mấy sáng sủa, nhưng trong năm 2010, Việt Nam vẫn
đạt được mục tiêu tăng trưởng (6,78%) và là một trong số quốc gia có tốc độ tăng trưởng tốt nhất
trong khu vực. Hệ thống ngân hàng - tài chính giữ được ổn định, các công cụ điều hành mang tính

hành chính trong giai đoạn chống suy giảm kinh tế dần dần được dỡ bỏ, các công cụ thị trường đang
dần tái sử dụng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hồi phục và phát triển sau tác động của khủng
hoảng kinh tế và tài chính trên thế giới. Có được kết quả trên, nhờ vào việc chỉ đạo quyết liệt, cùng
với phương pháp điều hành chính sách vĩ mô nhanh nhạy, linh hoạt và thận trọng của Chính phủ,
8
trong đó chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa - tài chính đóng vai trò quan trọng có quyết định
tới ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng.
Thế nhưng, trong năm 2010, mặc dù đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP, song lạm phát đã
vượt mục tiêu gần 2 điểm phần trăm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả không mong muốn
này, trong đó sự phối hợp chưa thực sự nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
cũng đã ảnh hưởng tới kết quả kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Sự phối hợp
chưa nhịp nhàng giữa hai chính sách vĩ mô quan trọng và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến kiểm
soát lạm phát trong ngắn hạn là do:
Thứ nhất: Chủ trương duy trì tăng trưởng cao trong thời gian dài, đặc biệt ngay cả trong thời
kỳ khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới đã đè nặng lên chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ở
Việt Nam. Với mô hình tăng trưởng chủ yếu nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà
nước hiện tại hoạt động kém hiệu quả làm chủ đạo và nhờ vào việc bán tài nguyên, gia công trình độ
thấp dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Điều này được minh chứng qua số đơn vị cần thiết để tạo ra
một điểm phần trăm tăng trưởng GDP (hệ số ICOR) vào khoảng 6 trong những năm gần đây, dẫn
đến quyết định logic về chính sách là để tăng trưởng cao cần gia tăng đầu tư.
Thứ hai: Kết cục của mô hình tăng trưởng này dẫn đến Chính phủ phải thực thi chính sách tài
khóa mở rộng, chấp nhận thâm hụt ngân sách (5,8%) và phát hành trái phiếu để bù đắp cho nhu cầu
đầu tư, đặc biệt là đầu tư công. Tổng mức đầu tư ban đầu của các dự án, công trình thuộc danh mục
đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003 - 2010 là 246.447 tỷ đồng. Hầu hết các dự
án đều có điều chỉnh tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu. Có dự án điều chỉnh tổng mức đầu
tư lên 3 - 4 lần, riêng phần vốn trái phiếu Chính phủ một số dự án điều chỉnh tới trên chục lần, qua
tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng mức đầu tư điều chỉnh từ các bộ, ngành, địa phương đã
lên tới 558.654 tỷ đồng (tăng 226%). Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, tổng mức đầu tư các
công trình, dự án sử dụng nguồn vốn này đã “tăng quá cao so với khả năng cân đối của ngân sách,
ảnh hưởng đến khả năng vay và trả nợ”

i
. Trong khi cơ chế điều hành, quản lý nguồn vốn chưa hợp
lý số lượng dự án hoàn thành còn quá ít, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ ba: Chinh sách tài khóa với chi tiêu công quá mạnh trong khu vực đầu tư, làm tăng tỷ lệ
đầu tư/GDP ở mức 44,2% năm 2010 - cao nhất châu Á, sau Trung Quốc. Do nền kinh tế kém hiệu
quả nên các khoản đầu tư công cũng không mấy hiệu quả đã tạo ra sự mất cân đối giữa lượng hàng
hóa với số lượng tiền trong nền kinh tế và kết quả tất yếu phải xảy ra là lạm phát. Chi tiêu công và
nợ công tăng cao trong những năm gần đây đã tạo ra sức ép nặng nề lên giá cả hàng hóa. Điều này
cũng giải thích tại sao chính sách tiền tệ đã kiểm soát tăng trưởng tín dụng (28%) và gia tăng tổng
phương tiện thanh toán (25%) khá tốt năm 2010 nhưng lạm phát vẫn ở mức 2 chữ số. Đây cũng
chính là nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam trong nhiều năm qua.
9
Thứ tư: Một minh chứng khác cho việc thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ là trong nhiều thời điểm, trong khi chính sách tiền tệ đang vận hành theo
hướng thắt chặt tiền tệ để ổn định giá cả, Chính phủ lại điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng như
xăng dầu, giá điện. Sự không nhất quán này đã phần nào làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ
trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Ngay trong tháng 12 năm 2010,
chính sách tiền tệ đã bắt đầu có dấu hiệu thắt chặt thông qua việc tăng lãi suất cơ bản nhưng chính
sách tài khóa dù có dấu hiệu thắt chặt hơn nhưng nhìn chung, vẫn theo hướng nới lỏng.
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 ước
tính
ICOR 5 4,75 6,95 8,23 6,18
Nợ công (5 trên GDP) 42,9 45,6 43,9 52,6 56,7
Nợ nước ngoài (tỉ USD, tính đến
cuối năm)
19,1 23,2 29,4 36,6 41,7
Đầu tư (%, so với GDP) 40,96 40,4 43,1 42,8 44,2
Tính toán dựa trên nguồn từ Tổng cục Thống kê
ii
Thứ năm: Trong khi chính sách tiền tệ đang điều hành theo hướng giảm lãi suất thị trường để

tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn với chi phí thấp thì để huy động vốn cho gia tăng đầu tư
công, Chính phủ phải tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất ở một số thời điểm lên
tới 11 - 12%/năm, cao hơn lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng, sau một thời gian, mức
lãi suất huy động trái phiếu đã giảm xuống 9,6% năm, nhưng vẫn cao hơn so với mức rủi ro của
công cụ tài chính này. Các ngân hàng thương mại với động cơ tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi
ro, họ đã sử dụng vốn huy động được trên thị trường mua trái phiếu chính phủ hấp dẫn hơn là cho
các doanh nghiệp vay và mức lãi suất này vô hình trung đã đẩy mức lãi suất huy động trên thị
trường lên cao. Đây là một biểu hiện của sự chưa ăn khớp giữa vận hành của chính sách tài khóa với
chính sách tiền tệ trong thời gian qua.
Thứ sáu: Sự thiếu phối hợp, trao đổi thông tin trong điều hành chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa cũng đã ảnh hưởng tới việc điều hành của chính sách sách tiền tệ về ngắn hạn. Điều
hành chính sách tiền tệ đòi hỏi có hệ thống thông tin tài chính đầy đủ, cập nhật và chính xác, thế
nhưng trong một số trường hợp các thông tin, báo cáo về các vấn đề tài chính công, đặc biệt chi tiêu
và đầu tư công lệch pha về thời gian với yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ.
10
Gần đây nhất, ngày 24/2/2011 Chính phủ đã ban hành Nghị định 11 đề ra chính sách tài khóa
và tiền tệ để đối phó với tình hình lạm phát đang gia tăng hiện nay:
(xem file đính kèm)
Câu 2
Phân tích hiện tượng “chèn lấn” các khoản vay của CP đối với đầu tư tư nhân:
Trong kinh tế học, hiện tượng chèn lấn (đầu tư) xảy ra khi chính phủ mở rộng việc vay mượn
để tài trợ chi tiêu hoặc để bù đắp việc cắt giảm thuế vượt doanh thu (tức là có hiện tượng thâm hụt
chi tiêu), dẫn tới mức lãi suất cao hơn, và kết quả là làm đầu tư ở khu vực tư nhân bị sụt giảm.
Về nguyên tắc, tháo lui đầu tư, có thể tránh được nếu thâm hụt ngân sách được tài trợ bằng
phát hành tiền, nhưng biện pháp này lại nhanh chóng dẫn tới lạm phát tăng cao như đã xảy ra ở Đức
trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, hoặc ở Brazil trước khi đồng
Real ra đời.
- Thoái lui cũng có thể xảy ra do chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi. Vay mượn chính phủ dẫn tới lãi
suất cao làm các dòng vốn nước ngoài chảy vào trong nước (tức là tiền nước ngoài tập trung vào
những tài sản phát hành bằng nội tệ). Dưới chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, việc lưu chuyển dòng vốn

này dẫn tới giá đồng nội tệ tăng cao (hay tỷ giá hối đoái giảm) và vì vậy sẽ gây ra ‘thoái lui’ xuất
khẩu (hàng nội địa trở nên đắt đỏ hơn đối với người sử dụng đồng tiền nước ngoài). Tác động này
ngược chiều với tác động kích cầu của thâm hụt ngân sách, nhưng không có tác động ngược chiều rõ
ràng nào tới sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
- Thoái lui trầm trọng nhất khi một nền kinh tế đã gần đạt tới mức toàn dụng (full
employment). Lúc đó, chính sách mở rộng bằng thâm hụt ngân sách của chính phủ chỉ dẫn tới giá cả
tăng, và cầu tiền tăng. Tác động này lại làm lãi suất tăng cao hơn và làm giảm mong muốn đầu tư. Ở
mức toàn dụng, các doanh nghiệp không còn thị trường vì vậy tác động tăng tốc là không có. Trực
tiếp hơn, nếu nền kinh tế toàn dụng, bất cứ sự gia tăng nào của chi tiêu chính phủ chỉ làm các nguồn
lực rời khỏi khu vực tư nhân mà thôi. Hiện tượng này đôi khi còn được gọi là thoái lui thực tế.
Theo như thông báo gần đây của CP, việc thực hiện gói giải pháp kích cầu sẽ được tài trợ qua
ba nguồn chính: phát hành trái phiếu CP, miễn giảm thuế, sử dụng quỹ dự trữ NN.
Việc tài trợ chi tiêu có thể được thực hiện thông qua phát hành TP (vay nợ) trong nước. Biện
pháp tài trợ này có thể chia thành vay nợ từ công chúng hoặc từ hệ thống các NHTM.
11
Vay nợ từ công chúng huy động với lãi xuất cao còn làm tăng các khoản trả lãi thêm hàng chục
ngàn tỷ đồng/ năm trong tương lai và làm trầm trọng thêm vấn đề thâm hụt ngân sách.
Nếu chính phủ vay nợ hệ thống ngân hàng thương mại thì tác động này đối với cung tiền và
lạm phát có thể sẽ rất khác. Việc vay nợ từ NHTM sẽ gây sức ép đối với dự trữ của các NHTM và
các NHTM sẽ đòi hỏi trợ giúp về khả năng thanh khoản từ NHNN. Nếu những đòi hỏi này được
NHNN đáp ứng, cơ sở tiền sẽ tăng làm lạm phát sẽ quay trở lại. Tuy nhiên, nếu NHNN không đáp
ứng những đòi hỏi về tính thanh khoản này, các NHTM buộc phải giảm các nguồn tính dụng cho
khu vực DNTN và lao vào một cuộc cạnh tranh lãi suất huy động. Trong kinh tế học, hiện tượng này
được biết đến với cái tên lấn át đầu tư (crowding out) – tức là chi tiêu CP cuối cùng sẽ lấn át đầu tư
của khu vự tư nhân.
Do vậy, việc thực hiện gói kích cầu có thể không đạt được mục tiêu như mong đợi khi biện
pháp tài trợ thông qua vay nợ trong nước được lựa chọn. Việc vay nợ sẽ đẩy lãi suất lên cao và gây
khó khăn thêm cho các DNTN và không thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế.
Vấn đề của Việt Nam khi tác nhân chính đóng góp làm tăng tổng cầu chính là chi tiêu ngân
sách của Chính phủ. Để tăng trưởng kinh tế thì cách dễ dàng nhất là tăng chi tiêu chính phủ. Tình

trạng thâm hụt ngân sách vẫn cứ tiếp diễn năm này qua tháng khác là một minh chứng cho vấn đề
này. Khi chi tiêu chính phủ tăng lên sẽ đóng góp chủ động làm tăng tổng cầu, từ đó cũng làm tăng
cầu tiền tệ. Cầu tiền tệ tăng lên, tất yếu tạo áp lực tăng lãi suất, trừ khi cung tiền cũng tăng theo. Khi
đó, khu vực tư nhân buộc phải cắt giảm bớt đầu tư và nhập siêu cũng phải tăng lên để phản ứng bị
động trước sự gia tăng của tổng cầu do chi tiêu ngân sách chèn lấn.
Như vậy khu vực tư nhân phải chịu hy sinh cho sự bành trướng của chính sách tài khoá và nền
kinh tế phải gánh chịu những hậu quả của tình trạng thâm hụt kép từ cán cân ngân sách và cán cân
thương mại. Không những chỉ có áp lực về lạm phát và lãi suất mà hệ quả của nó còn là các căng
thẳng ngoại tệ, áp lực tỷ giá và sự suy giảm dự trữ ngoại hối quốc gia.
Sử dụng vốn nhà nước không hiệu quả
Nhìn ở khía cạnh năng suất, vấn đề không chỉ là thâm hụt ngân sách và sự chèn lấn đầu tư khu
vực tư nhân. Nguồn lực cho chi tiêu và đầu tư của xã hội luôn có giới hạn nên cần phải chuyển giao
cho chủ thể nào có khả năng sử dụng nguồn lực đó một cách tốt nhất. Các giới chức lãnh đạo cũng
hiểu như vậy nhưng những gì đang diễn ra thì khác. Một nguồn lực lớn được tập trung vào ngân
sách nhà nước nhưng lại được sử dụng quá lãng phí và không hiệu quả. Một phần nguồn lực đó
được dùng để chi cho một bộ máy quản lý hành chính quá cồng kềnh, lại đang ngày càng phình to
hơn nhưng vận hành thiếu hiệu quả, không đáp ứng được đòi hỏi của tiến trình cải cách hiện nay.
12
Trong khi phần còn lại được phân bổ cho các dự án đầu tư công cũng không có hiệu quả hoặc
nếu có thì tỷ suất sinh lợi quá thấp, thấp hơn nhiều so với khu vực tư nhân và bình quân nền kinh tế;
lại còn phân bổ dàn trải, không có cơ chế giám sát đi kèm, gây thất thoát và lãng phí quá mức. Điều
này được minh chứng qua hệ số ICOR của khu vực kinh tế nhà nước trong hơn 10 năm qua luôn cao
hơn khoảng hai lần so với khu vực tư nhân. Chẳng hạn, nếu tính theo vốn đầu tư thực hiện, hệ số
ICOR bình quân 10 năm qua của khu vực kinh tế nhà nước lên đến gần 7,8, trong khi khu vực tư
nhân chỉ khoảng 3,5.
Như vậy, khu vực kinh tế nhà nước phải bỏ thêm khoảng 4,3 đồng vốn so với khu vực tư nhân
cũng chỉ để làm gia tăng thêm một đồng tăng trưởng. Nếu chuyển 7,8 đồng vốn tăng thêm cho đầu
tư của khu vực nhà nước sang cho khu vực tư nhân sử dụng thì có thể nền kinh tế đã làm gia tăng
thêm 2 đồng cho tăng trưởng.
Nhìn ở một góc độ khác, 4,3 đồng vốn tăng hơn so với khu vực tư nhân đã được khu vực kinh

tế nhà nước sử dụng không hiệu quả. Điều này phần nào thể hiện năng lực quản trị nói chung, năng
lực đầu tư vốn và kinh doanh nói riêng của khu vực này là quá kém; hoặc nếu không thì cũng là sự
lãng phí, thất thoát có chủ đích, hoặc là do tệ tham nhũng, tham ô mà ra.
Giải pháp:
Để khắc phục chèn lấn, yêu cầu các dự án đầu tư của Chính phủ phải có hiệu quả để thu hút lại
sự đầu tư của khu vực tư.
Chính phủ và nhất là các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả phải cắt giảm mạnh đầu tư của
mình. Theo hướng này thì tổng cầu nhanh chóng giảm (vì phía tổng cung đang có xu hướng giảm)
và kết quả mong đợi là lạm phát sẽ giảm và lãi suất cũng giảm theo. Khi đó khu vực tư nhân tiếp tục
đầu tư các dự án có năng suất của họ và khởi đầu lại một chu kỳ kinh tế mới. Chỉ có như vậy thì sự
đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng mới có thể giảm thiểu.
Tuy nhiên, hiện tượng chèn lấn đầu tư có thể giảm bớt tính nghiêm trọng nếu chính phủ chi
tiêu mở rộng thị trường cho các sản phẩm ở khu vực tư nhân, và vì thế kích thích đầu tư trở lại (tác
động gia tốc kinh tế). Tác động này quan trọng nhất khi các doanh nghiệp đang trong tình trạng dư
thừa năng lực, tức là nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái kinh tế.
13
Câu 3: Trình bày nội dung cải cách hệ thống ngân hàng theo hướng tự do hóa tài chính.
Trong môi trường quốc tế hóa một cách mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, VN cũng không thể
đứng ngoài tiến trình toàn cầu hóa, để hội nhập vào xu hướng chung này VN cần từng bước thực
hiện tự do hóa trên nhiều phương diện trong đó tự do hóa tài chính có ảnh hưởng rất quan trọng đến
sự phát triển của kinh tế đất nước.
Hệ thống ngân hàng VN là trung tâm tài chính cốt lõi của nền kinh tế quốc gia, nó là trọng tâm của
việc thực thi các chính sách tài chính tiền tệ của nhà nước, nhìn vào thực trạng hoạt động của hệ
thống ngân hàng, ta có thể đánh giá được hiệu quả của hệ thống tài chính và sự phát triển của nền
kinh tế đất nước.
1. Những tồn tại trong tiến trình thực hiện tự do hóa tài chính
1.1 Vấn đề lãi suất
Việc áp dụng cơ chế tự do hóa lãi suất đã tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng
và là bước tiến quan trọng của quá trình tự do hóa tài chính ở VN. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận
lợi tích cực thì việc thực hiện tự do hóa lãi suất trong thời gian qua cũng nảy sinh một số vấn đề bất

cập trong quản lý lãi suất và khó khăn cho hệ thống ngân hàng VN như việc NHNN công bố lãi
suất cơ bản nhằm định hướng lãi suất thị trường trong thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, các
NHTM cổ phần tiềm lực về tài chính còn hạn chế phải đối mặt khi tiến hành tự do hóa lãi suất.
1.2 Hệ thống pháp lý và kế toán - kiểm toán
- Hệ thống pháp lý: Tuy đã có những sửa đổi nhất định để hoàn thiện hành lang pháp lý, nhưng thực
tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, hiệu quả kinh doanh của toàn hệ thống còn thấp, sức
cạnh tranh còn khoảng cách xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới
14
- Kế toán - kiểm toán: Chúng ta đã có Luật kế toán và Luật kiểm toán nhưng hoạt động kế toán,
kiểm toán ở VN vẫn chưa đạt đến qui mô mà tiến trình phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi.
1.3 Điều hành tỷ giá hối đoái
Xung quanh vấn đề tỷ giá ở VN hiện nay, các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng: Giá trị đồng VN đã
bị đánh giá quá cao so với ngoại tệ , như vậy, trước hết nó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa
VN trên thị trường quốc tế, ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu, sau đó làm NHNN khó
điều hành chính sách tiền tệ.
1.4 Hệ thống ngân hàng
Trong thời gian qua, Nhà nước đã có những thay đổi về chính sách giúp cho hệ thống ngân hàng
VN tiến gần hơn đến điều kiện đủ cho thành công của tự do hóa tài chính. Tuy nhiên, hệ thống ngân
hàng VN còn nhiều yếu kém trên các mặt
a. Quản lý yếu kém
Vấn đề điều hành, quản lý hoạt động ngân hàng từ NHNN đến các NHTM chiếm vị trí quan trọng
trong việc quyết định hoạt động hiệu quả và tính lành mạnh của hệ thống, nhất là đối với NHTM
trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường và chấp nhận cơ chế kinh doanh bình đẳng.
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa được chú ý đúng mức ở các NHTM, trong một số ngân
hàng, bộ phận kiểm soát nội bộ tồn tại mang tính hình thức, không phát hiện được những sai sót của
bộ phận điều hành hoặc nếu có phát hiện ra thì cũng không xử lý được. Đây là vấn đề mà hệ thống
ngân hàng VN cần có biện pháp khắc phục vì nó liên quan mật thiết đến hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng, nhất là trong vấn đề quản lý lãi suất của hoạt động tín dụng.
b. Tính cạnh tranh thấp
Hiện nay, NHTMQD vẫn chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống ngân hàng mà khách hàng của khu

vực này chủ yếu vẫn là các DNNN, điều này khiến cho việc cải cách hoạt động của các NHTMQD
sang kinh doanh trên cơ sở thương mại thực sự và tạo môi trường kinh doanh bình đẳng trong lĩnh
vực ngân hàng gặp khó khăn. Sự bảo trợ công khai hay ngấm ngầm của Nhà nước đối với các
DNNN trong việc vay vốn ngân hàng vẫn còn tồn tại đồng nghĩa với việc phát huy tác dụng của các
qui luật kinh tế thị trường trong lĩnh vực này bị cản trở, dẫn đến tính cạnh tranh trong khu vực
NHTMQD còn thấp.
2. Giải pháp cho vấn đề tự do hóa tài chính và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng ở VN
15
2.1 Sử dụng công cụ lãi suất trong quản lý vĩ mô
2.1.1 Công cụ điều tiết lãi suất
Lãi suất là một trong những công cụ được các chính phủ sử dụng trong quản lý vĩ mô nền kinh tế
nhất là trong cơ chế thị trường, nó kích thích tập trung nguồn lực tài chính và phân bổ nguồn lực đó
một cách có hiệu quả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ổn định mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc
gia.
2.1.2 Sử dụng hiệu quả công cụ lãi suất
Trên sơ sở kinh nghiệm thực tế của một số nước trên thế giới về việc sử dụng công cụ lãi suất trong
điều hành chính sách tài chính, tiền tệ thì việc lựa chọn lãi suất nào là cơ bản, có tính chất tác động
đến lãi suất thị trường phụ thuộc vào điều kiện phát triển của thị trường tài chính tiền tệ của quốc
gia. Hiện tại, việc sử dụng các loại lãi suất trên thị trường liên ngân hàng của NHNN VN mang tính
chất hình thức do độ nhạy cảm của các lãi suất này đối với thị trường thấp; vấn đề được đặt ra là
làm thế nào để lựa chọn lãi suất chủ đạo với điều kiện lãi suất này phản ánh đúng quan hệ cung cầu
vốn trên thị trường, đồng thời có tác dụng điều chỉnh lãi suất thị trường theo mục tiêu của chính
sách tiền tệ.
a. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng
Mặc dù thị trường liên ngân hàng đã được thiết lập và hoạt động được một thời gian, nhưng đối với
các NHTM thì thị trường liên ngân hàng chưa phải là nơi có thể sẵn sàng cung cấp nguồn vốn thiếu
hụt, các nghiệp vụ được thực hiện trên thị trường này còn ít nên chưa hình thành được lãi suất
IBOR. Đối với một thị trường liên ngân hàng phát triển, các NHTM phải tính toán kỹ lượng vốn
thừa hay thiếu trong ngắn hạn để có thể xác định mức vay hoặc cho vay của mình trên thị trường
liên ngân hàng một cách chính xác, và khi giao dịch trên thị trường này, bắt buộc phải theo thực

hiện lãi suất mình đã công bố. Vì vậy, muốn hình thành lãi suất IBOR và nó có tác dụng trong việc
điều tiết lãi suất thị trường theo đúng mục tiêu thì việc thúc đẩy hoạt động của thị trường này của
NHNN là vấn đề quan trọng.
b. Lãi suất trên thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở được nhiều nước trên thế giới sử dụng rất hiệu quả trong việc điều tiết thị
trường tiền tệ cũng như định hướng lãi suất trên thị trường do lãi suất trên thị trường này khá sát và
nhạy với với lãi suất thị trường, bên cạnh đó các nghiệp vụ trên thị trường mở dễ dàng được sửa
16
chữa hơn nếu NHNN phát hiện sai sót so với nghiệp vụ trên thị trường liên ngân hàng, quan trọng
nhất là khả năng thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường này có thê đáp ứng yêu cầu về cung ứng
vốn, đủ sức điều chỉnh lãi suất trên thị trường một cách hữu hiệu, nhưng kèm theo đó là điều kiện
phát triển của thị trường mở cũng như yêu cầu hoạt động thường xuyên để NHNN có thể thu thập,
xử lý thông tin và thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sao cho hoạt động trên thị trường tiền tệ
không vượt quá tầm kiểm soát của NHNN và đi đúng mục đích của chính sách tài chính tiền tệ.
2.2 Cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái
Hiện nay, trên thế giới còn tồn tại nhiều chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau, nhưng trong điều kiện hội
nhập và quốc tế hóa ngày nay, xu hướng tiến tới tự do hóa tỷ giá hối đoái đang được Chính phủ các
quốc gia theo đuổi. Xét trên bình diện quản lý vĩ mô thì NHNN VN đang thực hiện chế độ tỷ giá
linh hoạt, có sự kiểm soát của Nhà nước, đây có thể nói là một lựa chọn đúng đắn của Nhà nước
trong điều kiện quá trình hội nhập của VN với thế giới còn nhiều cách biệt. Nếu lựa chọn chế độ tỷ
giá thả nổi tự do thì điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của chúng ta chưa cho phép, còn
nếu lựa chọn chính sách điều hành tỷ giá theo kiểu “an toàn” thì không thể tránh khỏi những áp đặt
mang tính hành chính vào quản lý tỷ giá - điều mà chúng ta đang cố gắng thay đổi để thích ứng dần
với việc điều hành nền kinh tế theo các qui luật phát triển. Điều kiện nêu trên đặt ra những yêu cầu
đối với Nhà nước trong việc lựa chọn và điều hành tỷ giá phải hết sức linh hoạt, thích ứng dần với
hội nhập và tạo động lực phát triển kinh tế.
2.2.1 Xác định đúng giá trị của đồng VN
Từ lâu đồng tiền VN (VND) đã có quan hệ tỷ giá chính thức với đồng đôla Mỹ (USD), để ấn định
tỷ giá này, NHNN căn cứ vào tỷ giá của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để công bố tỷ giá hàng
ngày, đây cũng là cơ sở pháp lý để các TCTD đưa ra mức tỷ giá cụ thể trong giao dịch với khách

hàng. Như vậy, tỷ giá VND chủ yếu được đánh giá thông qua sự biến động của VND so với USD,
điều này phản ánh đúng thực trạng giao dịch ngoại hối của VN, các hoạt động thanh toán bằng USD
chiếm tỷ trọng cao, tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào một ngoại tệ duy nhất là USD để xác định giá trị bản
tệ thì quá mạo hiểm đối với việc hoạch định chính sách vĩ mô. Vì vậy, chúng ta nên xem xét lại khả
năng xác định linh hoạt tỷ giá VND tương ứng với một rổ tiền tệ là các ngoại tệ mạnh có tham gia
thương mại với VN, có như vậy, đồng tiền VN mới được xác định đúng giá trị và giảm thiểu tâm lý
sùng bái USD, dẫn đến tình trạng đôla hóa nền kinh tế của đại bộ phận dân cư hiện nay.
17
2.2.2 Nới lỏng biên độ tỷ giá và tiến tới lọai bỏ các công cụ kiểm soát tỷ giá mang tính hành chính
Năm 2005, NHNN vẫn qui định biên độ tỷ giá đối với các TCTD kinh doanh ngoại tệ theo hướng
nới lỏng biên độ hơn, hướng đi này giống như một bước thực tập cho các NHTM làm quen dần với
việc kinh doanh tiền tệ theo cơ chế cạnh tranh bình đẳng và sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro
tỷ giá, giảm thiểu tình trạng bị sốc do các biến động. Sau đó, Nhà nước sẽ tiến hành loại bỏ qui định
mang tính hành chính áp đặt và đẩy mạnh việc sử dụng các công cụ quản lý gián tiếp trong điều
hành tỷ giá hối đoái, các TCTD được tự do quyết định giá mua bán ngoại tệ trên cơ sở qui luật cung
- cầu trên thị trường ngoại hối, các bước tiến hành như trên sẽ giúp cho các NHTM phát huy tính tự
chủ và khả năng hội nhập thị trường tài chính quốc tế theo đúng tiến trình.
2.2.3 Sử dụng công cụ gián tiếp để điều chỉnh tỷ giá trên thị trường
Muốn cho công cụ điều chỉnh gián tiếp của NHNN thông qua nghiệp vụ trên TTNTLNH có tác
dụng, điều kiện cần là TTNTLNH phải thực sự tạo niềm tin cho các NHTM bằng cách biến đây
thành chỗ dựa của họ và nhu cầu được tham gia giao dịch ngọai tệ trên thị trường trở nên không thể
thiếu. Hệ thống thanh tóan liên ngân hàng cần được đầu tư đúng mức để đạt được hiệu quả nhất, tiết
kiệm thời gian cũng như nhân lực, đồng thời giúp cho cả NHNN và các NHTM có thể cập nhật
những thông tin thị trường và ra quyết định nhanh nhất trong giao dịch trên thị trường này. Có như
vậy, các nghiệp vụ ngoại hối mới có thể được thực hiện và phát triển trên thị trường, tránh sự đơn
điệu về nghiệp vụ ngọai hối hiện nay của TTNTLNH và công cụ điều chỉnh của Nhà nước thông
qua thị trường này mới có tác dụng.
2.3 Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng
3.3.1 Đối với ngân hàng Nhà nước
- Cấu trúc lại tổ chức của NHNN từ Trung ương xuống chi nhánh theo hướng tinh gọn, hiện đại,

tránh sự can thiệp của chính quyền các cấp.
- Xây dựng và từng bước hoàn thiện các khung pháp lý đảm bảo sự bình đẳng cho hoạt động của
các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ VN.
- Xóa bỏ cơ chế bao cấp đối với các NHTM, đặc biệt là đối với các NHTM quốc doanh, buộc các
ngân hàng này phải thực sự hoạt động theo nguyên tắc thị trường, xóa bỏ dần cơ chế tín dụng chỉ
định, giao nghiệp vụ tín dụng ưu đãi theo chính sách của nhà nước cho các ngân hàng chính sách.
18
- Lãi suất và tỷ giá hối đoái được thỏa thuận theo quan hệ cung cầu trên thị trường, thực hiện kiểm
soát gián tiếp thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Tiêu chuẩn hóa cán bộ, công chức ngân hàng.
- Xây dựng hệ thống thông tin tài chính hiện đại, đảm bảo cho hệ thống tài chính hoạt động an toàn
và hiệu quả, dễ giám sát theo thông lệ quốc tế.
- Rà soát lại toàn bộ những qui định về việc thành lập, hoạt động của các tổ chức tín dụng trong
nước cũng như nước ngoài . . .áp dụng linh hoạt các công cụ dự trữ bắt buộc, cho vay tái chiết khấu
và nghiệp vụ thị trường mở.
3.3.2 Đối với các ngân hàng thương mại
Yêu cầu đối với các NHTM là :
- Các ngân hàng phải có qui mô đủ lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả và có sức cạnh tranh cao.
- Phân bổ và huy động vốn một cách có hiệu quả.
- Nâng cao năng lực quản lý và tiềm lực tài chính của các NHTM trên cơ sở cơ cấu lại tài chính bao
gồm : xử lý nợ quá hạn, đẩy mạnh tái đầu tư và cơ cấu lại sở hữu nhằm tăng vốn điều lệ.
- Hiện đại hóa hoạt động ngân hàng, xây dựng và áp dụng cơ chế kiểm tra kiểm soát nội bộ theo
thông lệ quốc tế.
- Tạo sức cạnh tranh, mở rộng thị phần trong nước và tranh thủ thời cơ mở thị trường kinh doanh ra
nước ngoài.
2.4 Tiến hành cổ phần hóa NHTMQD
Tiến trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và lành mạnh hóa tài chính quốc gia đòi hỏi phải thực hiện
nhiều giải pháp đồng bộ, các giải pháp lớn cần tiến hành như : xử lý nợ đọng, tăng vốn điều lệ của
hệ thống ngân hàng rất cần sự trợ giúp của Chính phủ và các cơ quan chức năng, tuy nhiên, để hệ
thống ngân hàng có thể giữ được sự phát triển ổn định, đủ sức cạnh tranh trong môi trường mở cửa,

ngăn ngừa sự phát sinh nợ xấu thì bản thân hệ thống ngân hàng cần có những nỗ lực hơn, nhất là
các NHTMQD - những ngân hàng vốn chiếm ưu thế về thị phần và lượng vốn trong hệ thống ngân
hàng VN.
Để thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước có thể cho phép các nhà đầu tư nước
ngoài mua cổ phần của NHTMQD với lượng cổ phần tối đa không được vượt quá một tỷ lệ qui
định, nhằm tránh tình trạng bị thâu tóm bởi các tập đoàn tư bản nước ngòai do chúng ta chưa có
19
nhiều kinh nghiệm trong việc điều hành cũng như tổ chức hoạt động của một NHTM hiện đại. Bán
cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngòai, phát triển về vốn hoạt động ngân hàng, chúng ta có thể thuê
các tổ chức tài chính quốc tế thực hiện việc cấu trúc lại hoạt động NHTM theo tiêu chuẩn của
NHTM quốc tế hiện đại. Có như vậy, NHTM của VN mới trở thành một NHTM hiện đại đích thực,
có khả năng cạnh tranh và vươn ra thị trường quốc tế.
Câu 4: Những yếu tố tác động trực tiếp đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI)? Phân tích các
giải pháp mở rộng thu hút nhanh vốn FDI tại Việt Nam.
4.1. Những yếu tố tác động trực tiếp đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
Có thể chia thành 5 nhóm yếu tố:
a/ Động cơ của nhà đầu tư
Mục tiêu của các chủ đầu tư khi tiến hành đầu tư là nhằm thu lợi nhuận càng nhiều càng tốt.
Muốn vậy, ngoài việc khai thác tối đa thị trường trong nước, họ còn tìm cách vươn ra thị trường
nước ngoài để mở rộng thị phần. Để xâm nhập thị trường nước ngoài, các chủ đầu tư có thể sử dụng
nhiều cách khác nhau (xuất khẩu, tiến hành FDI, nhượng quyền, ). Thông thường chủ đầu tư sẽ
quyết định đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức FDI khi bản thân họ có các lợi thế độc quyền riêng
và FDI sẽ giúp họ tận dụng được nhiều lợi thế cũng như cắt giảm chi phí (chi phí nhân công, nguyên
liệu tại chỗ, chi phí vận chuyển ) nhằm tối đa hóa lợi nhuận, nâng cao năng lực cạnh tranh.
b/ Nguồn lực:
- Tiềm năng thị trường: Qui mô và tiềm năng phát triển của thị trường là những nhân tố quan
trọng hàng đầu khi nhà đầu tư quyết định lựa chọn địa điểm để đầu tư. Thông thường họ sẽ nhắm
đến những vùng tập trung đông dân cư , có nhiều kỳ vọng tăng trưởng nhanh trong tương lai và có
các cơ hội mở rộng ra các thị trường lân cận.
- Vị trí địa lý: Lợi thế về vị trí địa lý giúp tiết kiệm đáng kể chi phí vận chuyển, dễ dàng mở

rộng ra các thị trường xung quanh, khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực và thúc đẩy các doanh
nghiệp tập trung hóa.
- Tài nguyên: Sự dồi dào về nguyên vật liệu với giá rẻ cũng là nhân tố tích cực thúc đẩy thu hút
đầu tư nước ngoài.
- Nguồn nhân lực:
Khi quyết định đầu tư một cơ sở sản xuất mới ở một nước đang phát triển, các chủ đầu tư sẽ
nhắm đến việc khai thác nguồn nhân lực trẻ và tương đối thừa thãi ở các nước này. Thông thường
nguồn lao động phổ thông luôn được đáp ứng đầy đủ và có thể thỏa mãn yêu cầu của các công ty.
20
Bên cạnh đó, đội ngũ nhân lực có trình độ kỹ thuật cao, nhiều kinh nghiệm, những cán bộ quản lý
giỏi cũng là nguồn lực hấp dẫn các nhà đầu tư.
Văn hóa, thái độ, tác phong làm việc của người lao động là những yếu tố quan trọng trong
việc xem xét, lựa chọn địa điểm để đầu tư.
c/ Cơ sở hạ tầng:
Chất lượng của cơ sở hạ tầng kỹ thuật và trình độ công nghiệp hóa có ảnh hưởng rất quan
trọng đến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào một nước hoặc một địa phương. Một hệ thống cơ sở hạ
tầng kỹ thuật hoàn chỉnh (bao gồm cả hệ thống đường bộ, đường sắt, đường hàng không, mạng lưới
cung cấp điện, nước, bưu chính viễn thông và các dịch vụ tiện ích khác), là điều mong muốn đối với
mọi nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó còn phải kể đến các
dịch vụ hỗ trợ khác như hệ thống y tế, giáo dục, giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, thương mại,
quảng cáo, kỹ thuật, v.v )Thiếu sự hỗ trợ cần thiết của các hoạt động này, môi trường đầu tư cũng
sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra, hiệu quả hoạt động của các cơ sở công nghiệp địa phương,
sự có mặt của các ngành công nghiệp hỗ trợ, sự tồn tại các đối tác tin cậy để các công ty nước ngoài
có thể liên doanh liên kết cũng là những yêu cầu rấtquan trọng cần phải được xem xét đến.
d/ Sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội và luật pháp đầu tư.
Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro kinh tế chính trị của vốn FDI vượt
khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư nước ngoài. Những bất ổn định kinh tế chính trị sẽ ảnh hưởng tiêu
cực đến tâm lý nhà đầu tư, nó không chỉ làm cho dòng vốn này bị chững lại, thu hẹp, mà còn làm
cho dòng vốn từ trong nước chảy ngược ra ngoài, tìm đến những nơi mới an toàn và hấp dẫn hơn.
Hệ thống pháp luật đầu tư của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn cho nhà đầu tư.

Nội dung của hệ thống pháp luật càng đồng bộ, chặt chẽ, tiên tiến, nhưng cởi mở, phù hợp với luật
pháp và thông lệ quốc tế thì khả năng hấp dẫn của FDI càng cao.
e/ Hệ thống chính sách đầu tư hấp dẫn, khuyến khích nhà đầu tư
Ví dụ như: Chính sách thương mại thông thoáng; chính sách tiền tệ, lãi suất linh hoạt; chính sách hỗ
trợ tín dụng; hệ thống thuế rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng, mức thuế không quá cao, có ưu đãi…
4.2. Phân tích các giải pháp mở rộng thu hút nhanh vốn FDI tại Việt Nam.
Định hướng:
Để có những định hướng cụ thể về việc thu hút FDI, cần xem xét một số thuận lợi và khó
khăn mà Việt Nam phải đối mặt trong thời gian sắp đến.
21
- Về thuận lợi: Dòng FDI toàn cầu đã dần vượt qua khỏi đáy của sự suy giảm năm 2009, có thể
bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng trong năm 2011 và được dự báo đạt 1,2-1,5 nghìn tỉ USD. Các nước
đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi tiếp tục là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu
tư nước ngoài. Điều tra triển vọng đầu tư thế giới (WIPS) 2009-2011 của Cơ quan Thương mại và
Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD) cho thấy, Việt Nam vẫn được các công ty xuyên quốc gia
(TNCs) đánh giá là 1 trong 15 nền kinh tế hấp dẫn cho đầu tư. Tình hình chính trị ổn định, vị thế
quốc tế của Việt Nam đang được nâng cao cùng với các hoạt động kinh tế đối ngoại tích cực trong
năm 2010 của lãnh đạo cấp cao Đảng và nhà nước ta sẽ tiếp tục củng cố lòng tin và làm gia tăng mối
quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đối với nước ta trong năm 2011 và thời gian tới.
- Về thách thức: Bên cạnh những thuận lợi thì Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế ảnh hưởng
đến thu hút FDI như: hệ thống kết cấu hạ tầng còn yếu kém, thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, công
tác quy hoạch thiếu đồng bộ, thủ tục hành chính rườm rà, …
Từ những yếu tố thuận lợi và khó khăn đã phân tích, chúng ta có thể dự báo trong ngắn hạn
năm 2011, Việt Nam sẽ thu hút được khoảng 20 tỉ USD vốn FDI (bao gồm cả tăng vốn, mở rộng sản
xuất), tăng 7,6% so với ước thực hiện năm 2010 và vốn thực hiện đạt khoảng 11-11,5 tỉ USD.
Theo thứ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Phạm Huy Đông, trong thời gian sắp tới, thu hút FDI sẽ
thực hiện theo hướng chọn lọc hơn và trọng tâm là thu hút các dự án cơ sở hạ tầng; sử dụng công
nghệ cao; công nghệ sạch và có khả năng tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh; các dự án sản xuất
hàng xuất khẩu; phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; có khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu Đối với những dự án đầu tư quy mô lớn, đặc biệt là các dự án có sử dụng đất lớn, có khả năng

gây ô nhiễm môi trường, sử dụng nhiều tài nguyên khoáng sản nếu không có chế biến sâu, các dự án
tiêu tốn nhiều năng lượng sẽ được xem xét kỹ càng hơn. Bên cạnh đó, những dự án đầu tư chậm
triển khai sẽ được phân loại để có những biện pháp xử lý phù hợp, trong đó có việc xem xét rút Giấy
chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật để tạo cơ hội cho các nhà đầu tư khác thực sự có
tiềm năng và năng lực triển khai tham gia đầu tư.
Một số giải pháp đổi mới nhằm thu hút, sử dụng vốn FDI hiệu quả:
Để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế đất nước giai đoạn 2010-2015 và tầm nhìn năm
2020, Việt Nam cần có những chiến lược mang tính đột phá, từ đó mới thực sự thu hút, hấp dẫn
được các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt nam, nâng cao khả năng cạnh tranh với các nước đang có
ưu thế hơn, từ đấy thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế – xã hội
đã đề ra.
a/ Về chính sách, quản lý nhà nước:
22
- Tiếp tục duy trì được ổn định chính trị như hiện nay là một trong những yếu tố hấp dẫn nhất
đối với nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam so với các nước trong khu vực.
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đầu tư nước ngoài theo hướng đầy đủ,
rõ ràng, thông thoáng, thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế. Xây dựng Luật Đầu tư nước
ngoài và Luật doanh nghiệp áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước, tạo sự bình
đẳng giữa các doanh nghiệp. Thủ tục hành chính cần giảm bớt tối đa, tăng cường hỗ trợ các nhà đầu
tư giải quyết các thủ tục.
- Phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án
đầu tư nước ngoài.
- Thực hiện các cam kết quốc tế sau khi gia nhập WTO để tạo ra một sân chơi lành mạnh nhằm
thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
b/ Về các giải pháp quy hoạch:
- Rà soát, quy hoạch ngành, vùng chiến lược, từng bước mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ
theo lộ trình cam kết quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế.
- Làm rõ các lĩnh vực không cấp phép đầu tư và đầu tư có điều kiện, trong đó chú trọng lĩnh vực
văn hoá thông tin theo hướng minh bạch, cụ thể và phù hợp với các cam kết quốc tế; đẩy nhanh tiến
độ thực hiện các nội dung triển khai chậm hoặc chưa triển khai đã cam kết trong Sáng kiến chung

Việt Nam – Nhật Bản, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ,…
c/ Về xúc tiến đầu tư:
- Ðể thu hút dòng vốn FDI đúng mục tiêu và định hướng, công tác xúc tiến đầu tư cần tiếp tục
được đổi mới theo hướng bố trí các nguồn lực để xúc tiến đầu tư theo chuyên đề, theo ngành, lĩnh
vực và theo vùng, miền. Không xúc tiến đầu tư theo địa giới hành chính để bảo đảm tính liên kết
vùng, miền, tận dụng tối đa các tiềm năng thế mạnh của vùng, miền và giảm đầu tư theo phong trào,
theo thành tích.
- Cần phải có chiến lược kêu gọi đầu tư, tăng cường các hoạt động đối ngoại, tích cực xúc tiến
đầu tư qua mọi phương tiện, mọi kênh thông tin với các nước trên thế giới thông qua các chuyến
thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ; tổ chức các cuộc hội nghị, hội
thảo tổ chức trong và ngoài nước
d/ Về cải thiện cơ sở hạ tầng:
- Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến
năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực
cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc,
trước hết là tuyến Bắc-Nam; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt; sản xuất và sử dụng điện từ các
loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính
viễn thông, công nghệ thông tin.
23
- Ngoài ra cần phải quy hoạch, nâng cấp hệ thống điện, nước sạch và đường truyền Internet
băng thông rộng. Giá cước, phí các loại hàng hoá, dịch vụ công cộng cần phải có sự điều chỉnh
tương đương với các nước trong khối Asean nhằm đáp ứng tối đa các nhu cầu mà nhà đầu tư nước
ngoài đã đặt ra.
e/ Về nguồn nhân lực:
Cần nâng cao số lượng cũng như chất lượng nguồn lao động Việt Nam đáp ứng được nhu cầu
về nguồn lao động do các nhà đầu tư nước ngoài đặt ra như: trình độ tay nghề - kỹ thuật, trình độ
ngoại ngữ, sức khoẻ và tác phong làm việc công nghiệp.
f/ Một số giải pháp khác:
- Xây dựng chính phủ điện tử và phổ biến thương mại điện tử. Thúc đẩy thiết kế và xây dựng

các website của Chính phủ, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp để các nhà đầu tư dễ dàng
tiếp cận các nguồn thông tin FDI ban đầu có chất lượng và trung thực thông qua mạng Internet.
- Thu hút nguồn vốn đầu tư của Việt kiều về nước. Chính phủ cần có những chính sách, cơ chế
nhằm kêu gọi, thu hút các Việt kiều về nước đầu tư do họ có những trình độ quản lý, nắm bắt công
nghệ phương Tây, thêm nữa giúp quảng bá tốt hơn các chính sách đầu tư của Việt nam với các đối
tác kinh doanh quốc tế của mình.
Câu 5: Nêu cơ sở khoa học của việc chính phủ Việt Nam quản lý hệ thống tài chính bằng “ quy
định”.
Kể từ khi thống nhất đất nước, ban đầu hệ thống tài chính của Việt Nam được tự do hoá hoàn toàn,
nhưng dần dần tất cả các loại trong hệ thống tài chính dần dần được chính phủ Việt Nam kiểm soát
chặt chẽ bằng các quy định cụ thể cho từng lĩnh vực trong hệ thống tài chính: Ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm. Cấu trúc hệ thống tài chính: thị trường tài chính, tổ chức tài chính, các công cụ tài
chính và cơ sở hạ tầng tài chính.
Để kiểm soát được sự vận hành của từng lĩnh vực trong hệ thống tài chính, chính phủ đã ban hành
rất nhiều quy định nhằm kiểm tra, giám sát của các hoạt động tài chính, đồng thời hạn chế rủi ro cho
quốc gia. Thứ nhất, trong hệ thống ngân hàng, với hàng loạt các quy định để kiểm soát được sự mất
thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại, ngân hàng TW đã quy định tỷ lệ dữ trữ bắt buộc
của mỗi ngân hàng thương mại, để hạn chế được sự lạm phát, chính phủ đã ban hành các quy định
về lãi suất trần, lãi suất sàn và lãi suất tái cấp vốn…Ngoài ra để bảo đảm an toàn trong hoạt động
của các ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung, chính phủ đã có một số quy định “ Tổ
24
chức tín dụng không được huy động vốn quá 20 lần tổng số vốn tự có và quỹ dự trữ”, thủ tướng
chính phủ đã ban hành danh mục về vốn pháp định của các tổ chức tín dụng đến hết năm 2010 phải
có vốn điều lệ tối thiểu là 3000 tỷ đồng và thực hiện các chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá để
quản lý nền kinh tế. Một số chính sách có tính chất chữa cháy như chỉ thị 03vào tháng 05/2007
khống chế dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán không được vướt quá 3% tổng dư nợ cho vay.
Thứ hai, trong thị trường chứng khoán, chính phủ cũng cực kỳ khắt khe để kiểm soát được thị
trường chứng khoán để thực sự hoạt động hiệu quả. Một số quy định về việc chào bán chứng khoán
riêng lẻ và chào mua công khai, hay các công ty đại chúng phải công bố thông tin định kỳ về một số
nội dung cơ bản: báo cáo tài chính kiểm toán, nghị quyết đại hội đồng cổ đông thường niên. Việc

chào mua chứng khoán công khai nhằm kiểm soát các nhà đầu tư lách luật mà các cơ quan chức
năng không xử lý được. Việc chào bán chứng khoán riêng lẻ phải có các điều kiện sau: có nghị
quyết của đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị thông qua phương án chào bán và sử dụng số
tiền thu được từ đợt chào bán. Thứ ba, trong thị trường bảo hiểm, Uỷ ban kinh tế đã dần dần xây
dựng nên các quy định nhằm kiểm soát chặt chẽ các dịch vụ bảo hiểm qua biên giới ( các dịch vụ
bảo hiểm trực tiếp ) để tránh thất thoát ngoại tệ và thất thu thuế… từ thế đã ra đời luật kinh doanh
bảo hiểm, nội dung đưa ra các quy định, cách thức để các tổ chức kinh doanh bảo hiểm thực thi
nhằm tạo ra các chuẩn mực chung nhất.
Cuộc khủng hoảng tài chính của nước Mỹ là do các qui định quản lý của hệ thống tài chính quá
lỗi thời. Nhận định này đúng hay sai? Giải thích?
Đầu tiên, chúng ta xét tới những nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính của nước Mỹ.
Như chúng ta đã biết, ngay sau khi cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu nổ ra, trong rất
nhiều công trình nghiên cứu và các cuộc đại tranh luận, các học giả kinh tế hàng đầu thế giới đã đưa
ra những nguyên nhân chính dẫn tới khủng hoảng, đó là:
- Sự hình thành và đổ vỡ của bong bóng thị trường bất động sản, của các khoản cho vay khổng lồ để
thế chấp nhà đất ở Mỹ.
- Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng và sai lệch lớn trong điều tiết tài chính, khi có tình thế xấu
xảy ra, hệ thống ngân hàng Mỹ bị hoảng loạn, lan ra toàn thế giới, gây nên sự co hẹp cung tiền tệ,
dẫn tới sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tư.
25
- Các chính sách kinh tế vĩ mô của Mỹ và nhiều nước đã có những khiếm khuyết lại được thực hiện
thiếu nhất quán, đầy đủ và thiếu cải cách cơ cấu dẫn tới kinh tế vĩ mô mất cân bằng và thiếu bền
vững.
- Sự suy giảm giá trị của đồng đô la và khủng hoảng chế độ tiền tệ không bản vị. Từ tháng 8/1971,
Mỹ tuyên bố đóng cửa thị trường vàng và đồng đô la từ đó không còn dùng vàng làm thước đo giá
trị nữa. Từ đó, đồng đô la được phát hành vô tội vạ và giá trị của nó ngày càng giảm đi.
- Kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn giữa việc xã hội hoá vô cùng mạnh mẽ, rộng lớn của sức
sản xuất xã hội được cộng hưởng trong quá trình toàn cầu hoá với quan hệ chiếm hữu tư nhân chật
hẹp, ích kỷ, vô trách nhiệm tại các nền kinh tế lớn có ảnh hưởng toàn cầu, đặc biệt là ở Mỹ và các
nước phát triển. Để bảo đảm mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận, giới chủ tư bản và các tập đoàn tư bản

bằng mọi giá thúc đẩy tư nhân hoá, tự do hoá thị trường, cổ vũ chủ nghĩa thực dụng, khuyếch đại
chính sách tư bản giả, chi phối các chính sách kinh tế - xã hội của các quốc gia. Chính vì thế, gần
như toàn bộ quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm đều trong tay giới tư bản tài phiệt, bất khả xâm
phạm, không thể kiểm soát.
Những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp nêu trên, bắt nguồn từ một điều cốt lõi nhất, quan trọng
nhất dẫn tới cuộc khủng hoảng này. Đó chính là việc nhận thức và thực hiện sai lệch vai trò của nhà
nước trong nền kinh tế thị trường. Cuộc khủng hoảng lần này rõ ràng bắt nguồn trực tiếp từ việc
Chính phủ Mỹ và các chính phủ khác ở các nước phát triển đã xử lý sai lầm quan hệ giữa nhà nước
và thị trường, trao quá nhiều quyền cho cơ chế thị trường tự do, buông lỏng sự quản lý và giám sát
điều hành của nhà nước. Cụ thể hơn ở Mỹ là Cục dự trữ Liên bang đã thả lỏng tín dụng trong một
thời gian dài cho sự bùng nổ thị trường bất động sản; thị trường ảo và kinh tế “bong bóng” đã tự do
phi mã đến lúc vỡ tung ra. Lỗi quan trọng ở đây là “quá ít nhà nước, quá nhiều thị trường tự do”.
Cắt nghĩa từ cội nguồn vấn đề này cần khái lược lại cơ chế vận hành của nền kinh tế Mỹ và các
nước phát triển. Đã có một thời gian dài, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa được vận hành theo
cơ chế hoàn toàn tự do dựa trên học thuyết kinh tế của nhà kinh tế học cổ điển Adam Smith. Trong
tác phẩm “Của cải của các dân tộc (1776)”, Adam Smith đã đưa ra quan điểm có tính triết lý là: Hãy
để cho thị trường vận hành dưới sự dẫn dắt của “bàn tay vô hình”, cơ chế thị trường tự do sẽ đưa tới
kết quả cuối cùng là “sự hài hoà xã hội”. Tuy nhiên, cuộc Tổng khủng hoảng 1929 - 1933 đã làm
cho tất cả các nước Tư bản chủ nghĩa phát triển buộc phải từ bỏ lý luận về bàn tay vô hình của cơ
chế thị trường để chuyển sang thực hiện thuyết kinh tế của Keynes với lý lẽ ngược lại rằng: Để thoát
khỏi khủng hoảng, thất nghiệp và nguy cơ bùng nổ xã hội, nhà nước phải điều tiết kinh tế. Lý thuyết
kinh tế của Keynes đã chiếm địa vị chi phối ở các nước Phương Tây từ năm 1945 - 1973.

×