Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Chuyên đề đặc điểm thực vật cũng như hóa học, công dụng của cây Đương quy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.39 KB, 15 trang )

LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC
VÀ KĨ THUẬT VIỆT NAM
VIỆN KINH TẾ SINH THÁI
ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
DỰ ÁN
“Đánh giá tiềm năng và tổ chức áp dụng mô hình trồng cây dược liệu
trên địa bàn huyện Sóc Sơn”
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
Quy trình kĩ thuật trồng cây dược liệu tại địa bàn huyện Sóc
Sơn
Cây Đương Quy Angelica acutiloba Kitagawa
Người viết: KS. Tạ Văn Vạn
MỤC LỤC
1. Đặc điểm sinh học 4
1.1. Cây đương quy 4
1.2. Đặc điểm thực vật 4
1.3. Điều kiện sinh thái 4
2. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển 5
2.1. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển 5
2.1.1. Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng 5
2.1.2. Giai đoạn sinh trưởng sinh sản 5
2.2. Kết quả nghiên cứu sinh trưởng phát triển 5
3. Giá trị làm thuốc 6
3.1. Thành phần hóa học 6
3.2. Bộ phận dùng làm thuốc và công dụng 6
3.2.1. Bộ phận dùng làm thuốc 6
3.2.2. Công dụng 6
4. Kỹ thuật gieo trồng 7
4.1. kỹ thuật gieo giống: 7


4.2. Thời vụ gieo trồng 9
5. Chuẩn bị đất trồng 9
5.1. Đất trồng và kỹ thuật làm đất 9
5.2. phân bón và kỹ thuật bón phân 9
5.3. Mật độ và khoảng cách trồng 10
6. Chăm sóc và bảo vệ 11
6.1. Chăm sóc và quản lý đồng ruộng 11
6.2. Phòng trừ sâu bệnh 12
6.3. Chế độ luân canh hoặc xen canh 12
7. Thu hoạch, chế biến và bảo quản 12
7.1.Thu hoạch 12
7.2. chế biến 13
7.3. Bảo quản, vận chuyển 14
8. Một số bài thuốc thường sử dụng 14
1. Đặc điểm sinh học
1.1. Cây đương quy
Tên khoa học: Angelica acutiloba Kitagawa
Họ hoa tán: Apiaceae
Tên vị thuốc: Đương quy
1.2. Đặc điểm thực vật
Đương Quy là cây thân thảo, chiều cao từ 75-100cm khi ra hoa. Lá có
cuống dài, có bẹ lá phía gốc, cuống lá màu tím nhạt, lá xẻ lông chim ba lần, mép
lá có răng cưa, không có lông. Hoa tự hình tán kép, cánh hoa màu trắng. Hoa
của bông trung tâm nở trước, sau đó đến các hoa ở cành cấp 1, cấp 2, cấp 3. Thứ
tự các hoa ở các cấp cành nở cách nhau từ 4-6 ngày.
Quả bế đôi, thuôn dài từ 4-5mm, hẹp dần về phía gốc, Tâm bì có gân, có 4-
5 ống dẫn ở phần lưng, bốn chiếc ở phần bụng. Rễ cọc, có rễ phụ, toàn thân có
mùi thơm đặc biệt.
Mùa hoa tháng 3-4, mùa quả tháng 6-7.
1.3. Điều kiện sinh thái

Cây Đương quy trồng trong sản xuất hiện nay được nhập từ Nhật Bản vào
Việt Nam năm 1990. Cho đến nay chưa tìm thấy Đương quy mọc tự nhiên trong
hệ thống thực vật Việt Nam. Ở Nhật Bản , Đương quy mọc hoang ở các vùng
Mt.Ibuki và vùng ven sông Hida.
Đương quy được trồng và sử dụng nhiều ở Trung Quốc với loài Angelica
siensis, ở Nhật Bản trồng và sử dụng loài Angelica acutiloba.
2. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển
2.1. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển
2.1.1. Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng
Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng của Đương quy kéo dài từ khi cây mọc
mầm, phát triển thành cây, tăng lên về số lượng và thành phàn tế bào. Bộ lá
quanh cổ rễ phát triển tối đa, sự sinh trưởng sinh dưỡng càng mạnh thì sự tích
lũy chất khô vào củ càng nhiều, vì vậy việc kéo dài thời gian sinh trưởng sinh
dưỡng có ý nghĩa lớn trong việc tăng năng suất dược liệu cây Đương quy.
2.1.2. Giai đoạn sinh trưởng sinh sản
Giai đoạn sinh trưởng sinh sản là quá trình tiếp theo của sinh trưởng sinh
dưỡng, biểu hiện từ khi cây ra ngồng, lúc này bộ lá quanh cổ rễ ngừng phát
triển, mà hình thành những lá nhỏ trên thân. Rễ củ không tăng lên về khối lượng
mà lại tiêu hao dinh dưỡng để nuôi hoa, quả, làm cho rễ củ bị hóa xơ và rỗng,
không sử dụng làm dược liệu được. Khi kết thúc giai đoạn sinh trưởng sinh sản,
cây Đương quy kết thúc một vòng đời. Quá trình sinh trưởng sinh sản thường
xảy ra 3-4 tháng cuối trong đời sống của cây.
2.2. Kết quả nghiên cứu sinh trưởng phát triển
Năm 1990, Đương quy Nhật Bản được nhập vào Việt Nam và đã được Viện
Dược liệu trồng thử ở Trạm cây thuốc SaPa Lào Cai. Kết quả sau ba năm trồng
thử nghiệm 1991-1993. cho thấy kết quả sinh trưởng ở miền núi cao miền Bắc
Việt Nam như sau:
- Thời gian nảy mầm của hạt từ khi gieo đến khi mọc là dưới 20 ngày
- Tỷ lệ nảy mầm của hạt từ 75-85%
- Thời gian trồng đến thu dược liệu trong khoảng 500 ngày

- Thời gian gieo trồng đến khi thu giống là khoảng 550 ngày.
- Năng suất củ đạt được khoảng 25 tạ/ha
- Năng suất hạt giống thu được xấp xỉ 300 kg/ha
- Khối lượng 1000 hạt khoảng 4,2-4,5 g
Thử nghiệm cũng cho thấy tỷ lệ cây ra hoa năm thứ nhất thấp (6,5%). Củ
to, năng suất dược liệu khá ổn định.
Qua kết quả nghiên cứu sản xuất hạt giống Đương quy ở SaPa, hạt giống đã
được đưa về trồng thử ở đồng bằng sông Hồng để sản xuất dược liệu Đương
Quy, bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ.
3. Giá trị làm thuốc
3.1. Thành phần hóa học
Thành phần hóa học chinh bao gồm: tinh dầu 0,2%, tỷ trọng ở 15
0
C là
0,.955, có màu vàng sẫm, có chứa 40% axit tự do
Tinh dầu Đương quy gồm: ligustilid, n-butyliden phtalid, o-valerphenon
carboxylic acid, safrol, p-cymen…
Ngoài ra còn có vitamin B12 0,25-0,4%, axit folic, polysacharid.
3.2. Bộ phận dùng làm thuốc và công dụng
3.2.1. Bộ phận dùng làm thuốc
Rễ Đương quy
3.2.2. Công dụng
Theo y học cổ truyền
Đương quy có vị ngọt hơi đắng, hơi cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng bổ
huyết, hoạt huyết, điều kinh, thông kinh, dưỡng gân, tiêu sưng, nhuận tràng.
Trong đông y, Đương quy là đầu vị trong điều trị bện phụ nữ. Đồng thời
cũng được chỉ định trong các đơn thuốc bổ và trị bệnh thiếu máu, đau đầu, cơ
thể suy yếu, suy tim, mệt mỏi, đau lưng, đau ngực bụng, viêm khớp, chân tay
đau nhức, lạnh, tê bại, tê liệt, đại tiện táo bón, mụn nhọt lở ngứa, tổn thương ứ
huyết, kinh nguyệt không đều, đau kinh, bế kinh, Ngày uống từ 7-10g, dùng

dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu thuốc.
Theo tài liệu nước ngoài, Đương quy dùng điều trị kinh nguyệt không đều,
huyết ứ, đau kinh, bế kinh, sa tử cung, đau phong thấp, mụn nhọt, táo bón, hói
đầu, điều trị cao huyết áp và hỗ trợ điều trị ung thư, làm thuốc giảm đau, chống
co giật, làm ra mồ hôi, kích thích ăn ngon cơm. Phụ nữ mang thai uống trước
khi sinh cho dễ đẻ.
Theo y học hiện đại
Dương quy có tác dụng kiểu oestrogen yếu trên các chức năng nội tiết của
sinh vật cái. Những tác dụng này không ổn định.
Gây tăng trương lực và biên độ co bóp tử cung cô lập và tại chỗ của súc vật
thí nghiệm.
Rễ đương quy có trác dụng tăng lực rõ rệt trong thí nghiệm chuột bơi gắng
sức. Có tác dụng tăng sức để kháng của cơ thể với súc vật thí nghiệm được gây
độc với amonichlorid.
Có tác dụng chống viêm ở cả hai cấp độ cấp và mãn tính trên thực nghiệp.
Tác dụng chống viêm giống như các thuốc chống viêm phi steroid (chống viêm
theo ức chế miễn dịch)
Theo tài liệu nước ngoài, rễ Đương quy có hai thành phần với hai tác dụng
kích thich và ức chế tử cung, hình thành phần kích thích tử cung là phần tan
trong nước và cồn, thành phần ức chế tử cung là tinh dầu.
Cao nước đương quy có tác dụng ức chế sự ngưng kết tiểu cầu chuột cống
trong ống nghiệm cũng như trên in vitro
Độc tính cấp của đương quy rất thấp
4. Kỹ thuật gieo trồng
4.1. kỹ thuật gieo giống:
Hiện nay đương quy trồng trong sản xuất có thể sử dụng 2 phương pháp :
- gieo thẳng hạt ra ruộng sản xuất.
- gieo hạt trong bầu hoặc vườm ươm để có cây con, sau đó đem cây con ra
trồng ở ruộng sản xuất.
Dù sử dụng phương pháp nào thì trước khi gieo cũng phải tiến hành chọn

lọc, phơi lại hạt giống và thử sức nảy mầm. Thường tỷ lệ này mầm ít nhất cũng
được 65 – 70% mới đem gieo. Tùy theo tỷ lệ nảy mầm cao hay thấp mà có
lượng hạt giống gieo thích hợp: gieo thẳng thường khoảng 4 – 4.5 kg/ha, gieo
vào bầu khoảng 2 – 2.5kg/ha.
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn bá hoạt (2001), các phương pháp
gieo trên đây cho năng suất Đương quy khác nhau:
- gieo hạt trong bầu năng suất đạt được 3.71 tấn/ ha
- gieo trên vườm ươm năng suất đạt được 3.20 tấn/ha
- gieo thẳng trên ruộng sản xuất năng suất đạt được 2.92 tấn/ha.
Phương pháp gieo hạt trong bầu:
Thời gian tiến hành từ 25/9 đến 5/10. Mỗi bầu gieo 4- 5 hạt. Sau khi gieo
xong phải phủ rơm rạ (hoặc xếp vào giàn có mái che) để tránh mưa. Tưới nước
ẩm hàng ngày, chú ý không để cho mặt bầu bị váng. Sau khi gieo khoảng 15
ngày hạt bắt đầu nảy mầm, dỡ bỏ rơm rạ, vẫn tiếp tục tưới cho bầu đủ ẩm. khi
cây được 2 lá tỉa bớt các cây xấu; khi cây 3 lá tỉa định cây, mỗi bầu để 2 cây.
Khi cây có 3- 4 lá có thể mang cây ra ruộng trồng. không để cây con quá
lâu trong bầu. Trong giai đoạn cây con ở trong bầu nếu thấy cây cằn cỗi cần tưới
thúc bằng nước pha loãng 7 – 10% để cây con sinh trưởng tốt. Đây là phương
pháp tốt để chủ động có đủ cây con trồng, không sợ nhỡ thời vụ.
Phương pháp gieo hạt trên vườm ươm
Đất vườm ươm chọn nơi bằng phẳng, ít sỏi đá, thuận tiện tưới tiêu nước.
đất được làm nhỏ, lên luống cao 30cm, rộng 90cm.
Bón lót cho 1ha với lượng 12 tấn phân chuồng hoại mục + 250 kg supe lân
+ 100 kg sunfat kali.
Rắc đều các loại phân lên mặt luống, gieo xong phủ rơm rạ kín mặt luống
và thường xuyên tưới nước để đất đủ ẩm.
Sau khi hạt mọc mầm (khoảng 15 ngày) dỡ bỏ rơm rạ. cần tiến hành làm cỏ
và tỉa bớt cây xấu. khi cây có 6- 7 lá tỉa định cây để khoảng cách cây 7-10 cm.
Sau mỗi lần làm cỏ, tỉa cây có thể tưới thúc phân chuồng loãng. Khi cây được 8-
9 lá, chọn cây khỏe mạnh, không sâu bệnh, đánh trồng ra ruộng sản xuất.

4.2. Thời vụ gieo trồng
- Ở vùng núi cao : thời vụ gieo trồng thích hợp là vào tháng 9- 10, thu
hoạch dược liệu vào tháng 11 – 12 năm sau
- Ở vùng đồng bằng: thời vụ gieo trồng thích hợp là vào đầu tháng 10, thu
hoạch dược liệu vào cuối tháng 6 đầu tháng 7 năm sau.
Trường hợp nếu gieo hạt vào bầu hoặc vườm ươm, để có cây con trồng thì
phải căn cứ vào thời vụ trồng cây ra ruộng sản xuất để tính thời gian gieo hạt
vào bầu hoặc vườm ươm cho chính xác để có cây con trồng đúng thời vụ (xem
phần kỹ thuật nhân giống).
5. Chuẩn bị đất trồng
5.1. Đất trồng và kỹ thuật làm đất.
Đất cần được cày sâu bừa kỹ, nhặt sạch cỏ dại, cày chia luống khoảng
1,4m, lên luống sơ bộ, rải đều lượng phân chuồng, tro bếp, phân lân cần bón trên
mặt luống, tiếp tục lên luống lấp kín phân bón lót, chiều cao của luống cần đạt
được 30 – 35cm, mặt luống rộng 90 – 95cm (có thể đến 1m). Đất trồng đương
quy cần chọn đất tốt, cát pha (hoặc thịt nhẹ) tơi xốp, nhiều mùn, tưới tiêu nước
thuận tiện, pH đất 5,5 – 6,0;
5.2. phân bón và kỹ thuật bón phân
a) lượng phân bón cho 1ha:
phân chuồng 25 tấn, phân đạm ure 543kg, phân lân supe 625kg, phân kali
sunfat 250kg, tro bếp 2000 – 2500kg/ha.
b) kỹ thuật bón:
bón lót: toàn bộ phân chuồng hoai mục + phân lân+ tro bếp
bón thúc: phân đạm và kali bón vào 5 lần:
- lần 1: khi cây có 5 lá bón 50kg đạm ure/ha
- lần 2: khi cây có 7 lá bón 80 kg đạm ure/ ha
- lần 3: khi cây có 9 lá bón 110kg đạm ure/ha
- lần 4: khi cây có 11 lá bón 140kg đạm ure + 125 kg kali sunfat/ha
- lần 5: khi cây có 13 lá bón nốt số đạm và kali còn lại (163 kg ure + 125 kg
kali sunfat/ha).

5.3. Mật độ và khoảng cách trồng
a) Mật độ khoảng cách trồng:
tùy theo điều kiện đất đai, vùng trồng và khả năng thâm canh để có thể
chọn mật độ gieo trồng thích hợp,
ở miền núi cũng như đồng bằng muốn đạt được năng suất trên 3 tấn/ha
dược liệu đương quy có thể chọn một trong các mật độ khoảng cách gieo trồng
sau đây:
. Mật độ 33 vạn cây/ha với khoảng cách 20x15cm – 1 cây.
. Mật độ 25 vạn cây /ha với khoảng cách 20x20 cm – 1 cây.
. Mật độ 20 vạn cây /ha với khoảng cách 20x25cm – 1 cây.
. Mật độ 40 vạn cây/ha với khoảng cách 10 x 25 cm – 1 cây
b) kỹ thuật gieo trồng :
. gieo hạt trong bầu:
- làm bầu cây con: chọn đất tơi xốp trộn đều với phân chuồng hoai mục
(khoảng 30% lượng phân chuồng hoai mục). Nhồi đất trong túi polietylen có lỗ
thủng ở đáy để thoát nước, kích thước túi 7x10 cm. Chú ý không làm đất quá
nhỏ (đất bột) trên mặt bầu dễ bị váng cháo, hạt không mọc được. đất càng nhiều
mùn và phân chuồng mục càng tốt.
- về kỹ thuật gieo hạt vào bầu và chăm sóc cây con trong bầu đã được trình
bày ở mục kỹ thuật nhân giống.
. gieo thẳng lên ruộng: sau khi lên luống xong, dùng vồ hoặc gậy đập nhỏ
đất mặt luống. rạch ngang luống với khoảng cách 20 – 25cm, gieo hạt đều theo
hàng đã rạch (hoặc theo hốc). Gieo xong phủ rơm rạ kín mặt luống, dùng thùng
vòi hoa sen để tưới ẩm thường xuyên. Sau khi gieo khoảng 13 – 17 ngày hạt bắt
đầu mọc mầm, khi hạt mọc rộ cần bỏ rơm rạ phủ mặt luống.
6. Chăm sóc và bảo vệ
6.1. Chăm sóc và quản lý đồng ruộng
a) Tỉa giặm cây (đối với phương thức gieo thảng trên ruộng)
thường tỉa giặm cây 2 – 3 lần vào lúc cây có 3 lá, 5 lá và 7 lá (tỉa định cây
cuối cùng)

b) làm cỏ xới xáo:
thường kết hợp làm cỏ xới xáo các lần bón thúc. Tuy nhiên số lần làm cỏ
cũng có thể ít hơn nhưng phải đảm bảo ruộng luôm luôm sạch cỏ.
c) tưới nước:
cần tưới nước để luôm giữ ẩm cho ruộng, nhất là trong thời kỳ khô hạn. Có
thể dùng bình odoa tưới nước lên mặt luống. Nếu điều kiện thuận lợi có thể sử
dụng phương pháp tưới ngấm. Bơm nước vào rãnh luống ngập 2/3 luống, để
nước ngấm đủ ẩm lên trên mặt luống (qua 1 đêm), sau đó tháo nước khô kiệt.
Nếu thời gian khô hạn kéo dài, có thể 18 – 20 ngày tưới ngấm 1 lần.
Chú ý: vào tháng 5 – 6 thường có mưa lớn, độ ẩm cao, nhiệt độ cao, ruộng
cần được làm sạch cỏ và thoát nước tốt để chống bệnh thối củ.
6.2. Phòng trừ sâu bệnh
Đương quy là cây phàm ăn, sinh trưởng mạnh, ít sâu bệnh phá hại. Tuy
nhiên trong sản xuất thường cũng có một số loại sâu bệnh hại như:
. sâu xám thường gây hại trên vườm ươm vào giai đoạn mới trồng, có thể
bắt bằng tay hoặc phun thuốc trừ sâu vào buổi tối, hoặc sáng sớm. không dùng
những loại thuốc có ảnh hưởng đến dược liệu củ Đương quy.
. Vòa mùa mưa cây thường bị bệnh thối củ do ngập úng, hoặc ẩm độ cao,
cần thoát nước triệt để và loại bỏ những cây bi bệnh.
. Chuột hại ( cây, củ): dùng thuốc đánh bả, bẫy, thuốc sinh học…
. rệp hại lá: Dùng bi58 50ec phun với nồng độ 0.2 – 0.3 %
. Nhện đỏ (phát sinh vào tháng 5 – 6 ): dùng pegasus phun với nồng độ
0,1% hoặc supracide 0,5% vào mặt dưới lá.
6.3. Chế độ luân canh hoặc xen canh
Cây đương quy có thể trồng luân canh với các cây ngũ cốc như ngô, khoai
lang, lúa nương, lúa nước hoặc các cây họ đậu như lạc, đậu tương. Ở vùng đồng
bằng sông hồng, thường trồng xem đương quy với cây hành, cây xà lách.
Công thức luân canh phổ biến thường là:
Đương quy – lúa mùa sớm – đương quy
Đương quy – đậu tương hè thu – đương quy

Đương quy – bỏ hóa – đương quy (đất bãi ven sông)
7. Thu hoạch, chế biến và bảo quản
7.1.Thu hoạch
ở vùng đồng bằng bắc bộ, thu hoạch dược liệu vào cuối tháng sáu hoặc đầu
tháng 7. ở vùng núi cao, thu hoạch dược liệu vào tháng 11 hoặc tháng 12. khi
thu hoạch, cắt bỏ lá đào củ bằng cuốc hoặc thuồng, tránh làm đút rễ củ.
Vào cuối tháng 6 đầu tháng 7 không những cho năng suất dược liệu cao mà
chất lượng dược liệu cũng rất tốt.
7.2. chế biến
Xông diêm sinh cho mềm, rửa thật sạch, xông lại một mồi diêm sinh nữa
sau đó đem phơi đến khô, độ ẩm còn khoảng 13 – 14% là được. Nếu không có
nắng, sấy bằng củi ở nhiệt độ 40 – 50
0
C trong vòng 1 -2 tuần, khi độ ẩm giảm
xuống còn 13 – 14% là được.
Phương pháp bào chế:
Rễ đương quy đã được trồng 3 năm, đào vào mùa thu, cắt bỏ rễ con, phơi
trong bóng râm hoặc sấy lửa nhẹ trong thùng cho đến khô.
. đương quy phiến: rủa sachjm ủ mềm. thái vát hoặc bào mỏng phiến có độ
dày 1 – 3 mm. phơi sấy nhẹ
. đương quy tẩm rượi : rễ đương quy trộn với rượi, ủ mềm, thái phiến, phơi
khô (hoặc sau khi tẩm rượi, đem chưng 4 giờ cho đến khi ngoài sẫm, trong vàng,
thái phiến)
. đương quy sao rượi: tẩm rượi vào đương quy phiến (1 rượi cho 10 đương
quy), ủ 30p cho ngấm rượi. Sao nhỏ lửa cho đến khi có mầu vàng đậm, mùi
thơm đặc trưng. Có thể sao đương quy trước, cho tới khi nóng già và đều, phun
rượi vào và tiếp tục sao cho tới khi phiến chuyển sang màu vàng đậm, mùi
thơm đặc trưng.
Đương quy sao hoàng thổ: 3kg bột hoàng thổ hoặc bột phục long can sao
nóng, cho tiếp 10kg đương quy phiến vào, sao đến khi phiến có màu vàng đen.

Đương quy sao hoàng thổ: 3kg bột hoàng thổ hoặc bột phục long can sao
nóng, cho tiếp 10kg đương quy phiến vào, sao đến khi phiến có màu vàng đen.
Đương quy sao sém cạnh: đương quy phiến sao đến khi bề mặt phiến màu
đen, trong vàng là được.
Đương quy tẩm mật ong: đem mật luyện trong nồi, cho đương quy phiến
vào (2kg mật cho 10kg đương quy). Sao nhỏ lửa cho đến khi miếng đương quy
không dính tay là được
7.3. Bảo quản, vận chuyển
Bảo quản kín trong túi polyetylen ngoài có bao tải, hoặc bảo quản kín trong
chum vại. Dược liệu đương quy rất dệ bị mốc mọt, cần kiểm tra thường xuyên
để xử lý.
Vận chuyển trong xe tải kín, tránh mưa nắng làm hỏng dược liệu.
8. Một số bài thuốc thường sử dụng
Chữa thiếu máu, cơ thể suy nhược, kinh nguyệt không đều, sau khi đẻ máu
hôi chảy mãi không hết. Đương quy 16g, thục địa 12g, bạch thược 8g, xuyên
khung 6g, nước 600ml. Sắc cho đến khi còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa các chứng uất, ngoại cảm, phụ nữ can uất, nóng rét không rõ ràng.
Dùng bài thuốc Bát vị tiêu giao tán: Đương quy, bạch truật, bạch thược, bạch
linh, sài hồ, bạc hà, chính thảo mỗi vị 4g, đơn bì 3g, chỉ tử 3g. Sắc thuốc uống.
Chữa huyết nhiệt, táo bón, dùng bài Nhuận táo thang: Đương quy, thục địa,
Địa hoàng, cam thảo, đào nhân, mỗi vị 4g thăng ma 3g, hồng hoa 1g. Sắc thuốc
uống hàng ngày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Trung, Bùi Xuân Trường, Nguyễn Thượng Đông,
Đỗ Trung Đàm, Phạm Văn Hiệu, Vũ Ngọc Lô, Phạm Duy Mai, Phạm Kim
Mai, Đoàn Thị Nhu, Nguyễn Tập, Trần Đoàn. 1000 cây thuốc và động vật
làm thuốc ở Việt Nam, tập 1,2. NXB Khoa học & Kĩ thuật, 2006.
2. Võ Văn Chi (1997). Từ điển cây thuốc Việt Nam. NXB y học Hà Nội
3. Nguyễn Bá Hoạt, Nguyễn Duy Thuần (2006). Kỹ thuật trồng, sử dụng và chế
biến cây thuốc. NXB Nông nghiệp Hà Nội, 2005.

4. Nguyễn Bá Hoạt (2002). Nghiên cứu phát triển một số cây thuốc tham gia
chuyển đổi cơ cấu cây trồng vùng cao Sapa (Lào Cai). Luận án tiến sỹ
Nông nghiệp.
5. Nguyễn Văn Lan (1970). Kỹ thuật trồng cây dược liệu, tập 1
.
NXB Nông thôn
Hà Nội.
6. Đỗ Tất Lợi (2007). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. NXB Y học Hà
Nội
7. Trang web: www.vienduoclieu.org.vn/

×