Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN Nâng cao chất lượng đại tra môn hoá học THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.49 KB, 13 trang )

PHẦN THỨ NHẤT : PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Lí do chọn đề tài .
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 4
khoá 7 đã đề ra những quan điểm đổi mới " Giáo dục là quốc sách hàng đầu "
Giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp XD XHCN và bảo vệ
tổ quốc , là một động lực của đất nước . Đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc
hậu vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới ( Trích văn kiện ĐH VII) . Phát triển
GD nhằm phát huy nhân tố con người , GD là chìa khoá mở cửa vào tương lại .
Là một giáo viên dạy các môn khoa học tự nhiên khối THCS nhận thức
được vai trò của giáo dục trong thời đại hiện nay, tôi thấy : Để mỗi con người,
phát triển toàn diện , việc nắm bắt tốt mỗi một bộ môn đều góp phần vào việc
hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam. Bộ môn Hoá THCS có
vai trò quan trọng bởi các kiến thức kĩ năng có nhiều ứng dụng trong đời sống
và kỹ thuật. Nó cung cấp những kiến thức hoá học phổ thông cơ bản có hệ
thống và toàn diện, những kiến thức này phải phù hợp với trình độ hiểu biết
hiện đại theo tinh thần kỹ thuật tổng hợp, tạo điều kiện hướng nghiệp gắn với
cuộc sống. Nhằm chuẩn bị tốt cho các em tham gia vào lao động sản xuất hoặc
tiếp tục học lên phổ thông trung học. Đồng thời môn hoá học góp phần phát
triển năng lực tư duy khoa học, rèn luyện kỹ năng cơ bản có tính chất kỹ thuật
tổng hợp góp phần xây dựng thế giới quan khoa học rèn luyện phẩm chất đạo
đức của người lao động mới.
Để bồi dưỡng cho những thế hệ của học sinh có năng lực sáng tạo , năng
lực giải quyết vấn đề . Lý luận dạy học hiện đại đã khẳng định : cần phải đưa
học sinh vào vị trí chủ thể hoạt động nhận thức học sinh bằng hoạt động tự lực
tích cực của mình mà chiếm lấy lĩnh vực kiến thức quá trình này được lặp đi lặp
lại nhiều lần sẽ góp phần vào hình thành và phát triển cho học sinh năng lực tư
duy sáng tạo.
1
Hoá học là một môn khoa học tự nhiên có tính ứng dụng thực tiễn cao vừa
mang tính lí thuyết vừa mang tính thực nghiệm . Khi học hoá học học sinh
được hình thành kiến thức hoá học và kí năng thực hành hoá học . Vì thế việc


nắm vững kiến thức cư bản về Hoá học trong đại đa số học sinh là hết sức quan
trọng . Nhưng thực tiễn cho thấy rằng môn Hoá học là môn khoa học tự nhiên
hoàn toàn mới mẽ và khó đối với học sinh trung học cơ sở , hiện nay đa số Học
sinh ở các vùng nông thôn lại nắm kiến thức hoá học hết sức sơ sài ,thể hiện cụ
thể qua các bài thi cuối học kì. Vì vậy việc nang cao chất lượng học sinh đại trà
là hết sức cấp thiết . Với lí do trên Tôi đã tìm hiểu , nghiên cứu và thực nghiệm
sáng kiến kinh nghiệm “ Nâng cao chất lượng đại tra môn hoá học THCS”
2/ Mục đích của đề tài :
Nghiên cứu đề tài sáng kiến kimh nghiệm trên nhắm mục đích nâng cao chất
lượn học sinh đại trà . Giúp đại đa số các em nắm vững các kiến thức cơ bản về
Hóa học .
PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .
1/ Thực trạng :
1.1.Những vấn đề về cơ sở lí luận .
Như ta đã biết Hoá học là một môn học có tính thực nghiệm cao ,là một môn
học khó đối với học sinh THCS. Nó cung cấp cho học sinh hệ thống kiến thức
về hoá học nhằm phục vụ cho các em có kiến thức để giải thích hiện tượng tự
nhiên và ngoài đời sống. Ngoài ra còn có tác dụng giáo dục, giáo dưỡng thế hệ
học sinh qua môn học. Để đạt được điều đó bên việc giáo viên có kiến thức
vững chắc, mà còn đòi hỏi người thầy phải biết kết hợp nhiều phương pháp dạy
học khác nhau, phù hợp với tiết dạy, bài dạy, nhằm mục tiêu đạt được hiệu quả
cao trong quá trình dạy học.
Căn cứ vào mục đích của việc dạy học, người giáo viên phải đề ra phương
pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh, với phương phương pháp
2
này sẽ giúp các em nắm bắt nhanh kiến thức hoá học và có kĩ năng thực hành
thí nghiệm tốt, từ đó tự rút ra đơn vị kiến thức mới. Từ kết quả đó sẽ tạo hứng
thú cho học sinh trong quá trình học . Vì vậy việc tìm ra phương pháp để nâng
cao chất lượng học sinh đại trà ở môn Hoá học THCS nói riêng và môn học
khác nói chung là một vấn đề cần được giải quyết.

1. 2. Thực trạng.
Là giáo viên trực tiếp dạy học môn Hoá ở bậc THCS, và là một giáo viên
dạy học học sinh ở vùng ven biển phía Nam Quảng Xương, nơi có điều kiện
kinh tế và đời sống của người dân có nhiều khó khăn. Đa số học sinh có bố mẹ
đi làm ăn xa, phó mặc con cái cho ông, bà nuôi dưỡng, phần còn lại thì bố mẹ đi
biển, hoặc buôn bán làm ăn; hơn nữa các em học sinh hiện đang học trong một
ngôi trường cấp bốn, cơ sở hạ tầng xuống cấp, phòng chức năng chưa có, nên
việc học tập của các em nói chung và đặc biệt là bộ môn Hoá học nói riêng gặp
rất nhiều khó khăn và nổi cộm lên những vấn đề sau:
- Học sinh chưa thực sự yêu thích môn Hoá học.
- Khả năng nắm bắt, kiến thức Hoá học của học sinh chưa cao, chưa hiểu hết
bản chất của vấn đề.
- Khả năng làm thí nghiệm, quan sát, nhận xét rút ra kết luận đang còn nhiều
lúng túng.
- Kết quả học sinh đại trà chưa cao, đặc biệt thông qua kiểm tra đánh giá thi ở
các học kỳ.
* Cụ thể là: Chất lượng thi học kỳ II năm học 2007 - 2008 là:
Tổng số
HS
Kết quả
235 Điểm dưới TB Điểm trên TB
60.5% 39.5%
3
Xuất phát từ tình hình thực tiễn của môn học và nhu cầu của học sinh, qua quá
trình giảng dạy và tìm tòi phương pháp, tôi đã đúc kết được kinh nghiệm nâng
cao chất lượng đại trà môn Hoá học, nhằm kích thích học sinh chăm chỉ, hứng
thú, nắm bắt được kiến thức cơ bản của từng bài dạy, của từng tiết dạy trong bộ
môn Hoá học. Đây chính là con đường dẫn tới nâng cao chất lượng học tập của
học sinh.
Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn nói trên, tôi đã quyết định chọn đề tài

“ Nâng cao chất lượng đại trà môn Hoá học THCS”, để nêu lên những kinh
nghiệm của bản thân, nhằm đóng góp một ý kiến của mình vào trong quá trình
đổi mới phương pháp dạy học môn Hoá học, nhằm nâng cao khả năng nhận
thức và kết quả học tập của học sinh ở môn Hoá học THCS.
2. Những giải pháp.
Sau một thời gian nghiên cứu và điều tra tôi đã phát hiện rõ đặc điểm của
từng đối tượng học sinh, từ đó đề ra phương pháp nâng cao chất lượng đại trà
môn hoá học THCS như sau:
2.1.Dạy học tạo tình huống có vấn đề gây hứng thú ,lòng ham tìm tòi để
giải quyết vấn đề của học sinh.
Tạo tình huống có vấn đề là một trong biện pháp hữu hiệu lôi cuốn học sinh
tham gia vào các hoạt động học một cách tích cực . Từ đó kích thích lòng ham
tìm tòi , lòng ham học hỏi để giải quyết các vấn đề được nêu ra trong bài học
của học sing .
Ví dụ : Khi dạy bài tính chất của hiđro giáo viên nêu vấn đề: Tại sao khi bơm
khí hiđro vào quả bóng bay , thả quả bóng ra thì quả bóng bay lên ?
2.2. Dạy học tăng cường phát huy tính tự tin, tích cực, chủ động sáng tạo
thông qua tổ chức thực hiện các hoạt động học tập của học sinh.
Dạy học thay vì lấy “Dạy” làm trung tâm sang lấy “Học” làm trung tâm.
Trong phương pháp tổ chức, người học - đối tượng của hoạt động “dạy”, đồng
4
thời là chủ thể của hoạt động “học” - được cuốn hút vào các hoạt động học tập
do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá ra những điều
mình chưa rõ chưa có chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được
giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người
học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo
cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được
phương pháp tìm ra kiến thức, kĩ năng đó, không dập theo những khuôn mẫu
sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này giáo viên không chỉ đơn giản truyền đạt tri thức mà còn

hướng dẫn học sinh biết hành động, vận dụng dựa trên kiến thức đã được học.
Nội dung và phương pháp dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động
và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng, thực hiện thầy
chủ đạo, trò chủ động. Như vậy ta có thể hiểu là “hoạt động làm cho lớp ồn ào
hơn, nhưng là sự ồn ào hiệu quả”.
2.3. Dạy học chủ trọng rèn luyện phương pháp và phát huy năng lực tự học
của học sinh.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh
không chỉ là một phương pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục
tiêu dạy học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh, với sự bùng nổ thông tin khoa học,
kĩ thuật công nghệ phát triển như vũ bão, thì không thể nhồi nhét vào đầu óc
học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh
phương pháp học như thế nào. Trong các phương pháp học thì phương pháp tự
học mang lại hiệu quả cao. Nũu rèn luyện cho học sinh có được phương pháp,
kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho các em lòng ham học, khơi dậy
nội lực vốn có trong mỗi học sinh, kết quả học tập sẽ được nâng lên gấp bội. Vì
vậy khi dạy học giáo viên cần nhấn mạnh hoạt động của học sinh, nổ lực tạo ra
5
sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển
tự học không chỉ ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả ngay trong mỗi tiết học có
sự hướng dẫn của giáo viên.
2.3. Sử dụng đồ dùng dạy học nhằm giúp học sinh dễ hiểu bài,hiểu sâu hơn
và nhớ bài lâu hơn. làm sinh động nội dung học tập,nâng cao hứng thú học
tập môn học , nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học.phát triển năng
lực ,nhận thức ,rèn luyện kỹ năng thực hành của học sinh. phát triển nhân
cách học sinh .
Khi học sinh bắt đầu nghiên cứu một môn học,các em đã tích luỹ được một số
biểu tượng ban đầu do quan sát thực tiễn , hoặc do trao đổi ,học tập mà có
.Nhưng những biểu tượng dự trữ này không đồng đều giữa các em , mức độ

chính xác và sâu sắc của các biểu tượng ở mỗi học sinh cũng khác nhau .Vì vậy,
trong trường hợp muốn học sinh hiểu bài một cách chính xác và sâu sắc thì phải
xây dựng các khái niệm ,các lý thuyết từ sự quan sát trực tiếp các hiện tượng
.Tuy nhiên không phải lúc nào cũng dễ dàng quan sát các hiện tượng thực
tiễn .Vì vậy, người ta tạo ra các hiện tượng tự nhiên bằng phương pháp nhân tạo
, hoặc cho học sinh quan sát hình ảnh các hiện tượng ấy , nghĩa là sử dụng các
phương tiện trực quan.
- Trong dạy hoá học ,giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học để biểu diễn các thí
nghiệm hoặc hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm , nghiên cứu, thực hành , giáo
viên đã có thể cung cấp cho học sinh những kiến thức bền vững, chính xác ,
giúp cho học sinh kiểm tra tính đúng đắn các kiến thức đã học theo lý thuyết
,sữa chữa,bổ sung chúng nếu không phù hợp với thực tiễn.
- Trong quá trình dạy học hoá học chúng ta còn gặp các hiện tượng , đối tượng
nghiên cứu không thể cho học sinh quan sát trực tiếp được: Cần phải dùng máy
móc,dụng cụ ,hoặc dựa vào hình tượng gián tiếp của các hiện tượng ,tức là dùng
các phương tiện kỹ thuật dạy học như máy móc, đĩa phim,băng hình… Người
6
giáo viên trong khi dạy học có thể dùng ĐDDH, các phương tiện kỹ thuật dạy
học hướng dẫn , điều khiển các hoạt động nhận thức của học sinh.
- ĐDDH và phương tiện kỹ thuật tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nghiên
cứu dạng bên ngoài của đối tượng và các chất ; Giúp cụ thể hoá những cái trừu
tượng , làm sáng tỏ cấu tạo của những dụng cụ máy móc phức tạp .Do đó giúp
học sinh thu nhận thông tin về sự vật ,hiện tượng một cách sinh động đầy đủ ,
chính xác.
- Trong dạy hoá học,đồ dùng dạy học được sử dụng tốt sẽ có tác dụng kích
thích hứng thú học tập của học sinh tạo ra động cơ học tập,rèn luyện thái độ tích
cực đối với các tài liệu mới .Các phương tiện dạy học hiện đại như máy chiếu
qua đầu đĩa phim ….Cho phép giới thiệu với học sinh những kiến thức chính
xác ,mô tả một cách sinh động các quá trình hiện tượng hoá học,kích thích học
sinh chủ động tích cực hoạt động nhận thức , làm tăng năng suất lao động của

giáo viên và học sinh.
- Như vậy,phương tiện kỹ thuật và đồ dùng dạy học đã giúp cho các em học
sinh học tập một cách hứng thú ,nâng cao lòng tin của các em vào khoa học.
- Sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy hoá học một cách đầy đủ ,đúng mục đích
sẽ có tác động hết sức quan trọng phát huy tính tích cực tư duy, phát triển trí tuệ
học sinh .Đồ dùng dạy học ,thí nghiệm hoá học trong dạy hoá học tạo điều kiện
cho phát triển các hoạt động tâm lý :Tri giác,biểu tượng trí nhớ ….nhờ vậy tư
duy học sinh phát triển.
- Các phương tiện kỹ thuật đồ dùng dạy học giúp phát triển kỹ năng thực hành
của học sinh .Trong dạy hoá học ,đồ dùng dạy học giúp phát triển kỹ năng thực
hành cho học sinh .ĐDDH còn là điều kiện ,là phương tiện để tổ chức các hình
thức thực hành ,từ thí nghiệm biểu diễn của giáo viên ,các thao tác mẫu mức
giúp học sinh hình thành những kỹ năng thí nghiệm đầu tiên một cách chủân
xác .Sau đó học sinh được tự tay thực hiện những thí nghiệm nghiên cứu ,thực
7
hành lượng nhỏ ,các thao tác thí nghịêm nghiên cứu,thực hành lượng nhỏ ,các
thao tác thí nghiệm của các em được tăng dần lên.
- Qua thực hành hứng thú nhận thức của học sinh được kích thích khi tiếp xúc
với thực tiễn , tư duy của học sinh luôn luôn đựơc đặt trước những tình huống
mới, bắt học sinh phải suy nghĩ ,tìm tòi phát triển sáng tạo
- Qua thực hành những đặc tính kiên trì,chính xác, tính trật tự ngân nắp của
học sinh được rèn luyện,tình yêu lao động được nảy nở.Đó là những phẩm chất
rất cần thiết đối với người lao động cần được hình thành cho học sinh qua một
quá trình rèn luyện lâu dài,bằng những hoạt động lâu dài,bằng những hoạt động
đa dạng.
- Sử dụng tốt phương tiện kỹ thuật và đồ dùng dạy học giúp học sinh phát triển
năng lực nhận thức đặc biệt là năng lực quan sát,năng lực tư duy( phân tích
,tổng hợp các hiện tượng, rút ra kết luận có độ tin cậy cao)
- Một trong những mặt mạnh của đồ dùng dạy học là khả năng tác động tới việc
hình thành nhân cách của học sinh .Thông qua việc sử dụng đồ dùng dạy học

( Như thí nghiệm hoá học,phim giáo khoa,băng hình……) Góp phần hình thành
ở học sinh một hệ thống các khái niệm và nhận thức về thế giới xung quanh,
giúp học sinh xác định được bản chất của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và
xã hội .Điều đó cũng cố niềm tin của học sinh vào chân lý khách quan và có tác
dụng hướng dẫn hành động. Có tác giả đã nhấn mạnh vai trò của đồ dùng dạy
học trong việc giáo dục tư tưởng chính trị,lao động,đạo đức nhân cách của học
sinh.
2.4. Phân loại học sinh: Thông qua kiểm tra đánh giá họcsinh trong trong giờ
dạy và trong từng bài kiểm tra môn hoá học, giáo viên có được kết quả cụ thể và
sẽ tiến hành phân loại học sinh theo từng nhóm như sau: Nhóm thứ nhất: Yếu,
kém; nhóm thứ hai: Trung bình; nhóm thứ ba: Khá, giỏi.
8
Sau khi phân loại học sinh theo từng nhóm, giáo viên sẽ có được định hướng
trong soạn giáo án và lựa chọn những đơn vị kiến thức phù hợp với từng nhóm
trên và áp dụng trực tiếp trên giờ dạy.
Đối với nhóm : Yếu, kém, giáo viên cấn đưa ra những câu hỏi đơn giản nhất
có trong tiết dạy và có thể đưa ra những câu hỏi đã học ở tiết trước nhằm củng
cố kiến thức cho các em, từ câu hỏi và kiến thức cần trả lời, học sinh Yếu, kém
có thể vận dụng vào việc giải quyết và tìm ra kiến thức cơ bản của bài học. Qua
đó các em học sinh trong nhóm Yếu, kém có thể trả lời được câu hỏi và từ đó sẽ
tạo nên động lực cho các em tập trung và chăm chỉ hơn trong quá trình học tập
môn hoá học.
Đối với nhóm: Trung bình, Giáo viên cung cấp những câu hỏi ở mức đảm
bảo kiến thức cơ bản có trong tiết dạy, đòi hỏi học sinh phải tìm hiểu và trả lời,
qua đó giáo viên gợi ý cho học sinh biết vận dụng kiến thức cơ bản đó để có thể
giải được những câu hỏi ở mức cao hơn. Đây cũng chính là phương pháp gợi
mở, nêu vấn đề và tạo nên sự hứng thú cho học sinh trong khi học tập và tìm tòi
kiến thức mới.
2.5 . Dạy học phải thường xuyên ôn , luyện tập cho học sinh .
Sau mỗi bài học để học sinh nắm vững kiến thức đã học thì việc ôn ,luyện tập

sau mỗi tiết học là việc hết sức cần thiết . Vì qua việc ôn ,luyện tập học sinh vận
dụng kiến thức đã học để làm bài tập hoặc trả lời câu hỏi ,Từ đó các em củng cố
, dể nhớ , dể hiểu , dể thuộc các kiến thức đã học .
Ví dụ : Sau khi dạy xong bài rượu etylic , giáo viện cho học sinh làm bài tập
sau:
Cho các chất sau : Na, Cu , O
2
, H
2
O .
Chất nào tác dụng được với rượu etylic , Viết phương trình hoá học xảy ra ?
9
Sau khi học sinh làm xong bài tập này các em sẽ cũng cố và nắm chắc được tính
chất hoá học của rượu etylic và rèn luyện được kĩ năng viết phương trình hoá
học .
2.6. Dạy học phải thường kiểm tra ,đánh giá học sinh để năm bắt được việc
nắm kiến thức của học sinh để từ đó có biện pháp điều chỉnh phù hợp .
Sau khi dạy học xong mỗi bài , mỗi phần hoặc mỗi chương thì giáo viên thường
ra đề để kiểm tra việc nắm kiến thức của học sinh , xem các em đã nắm chắc
được phần nào , phần nào đang còn hổng , lúng túng trong khi làm bài . từ đó
giáo viên có kế hoặch điều chỉnh , lên phương án để khắc phục : phù đạo hoặc
chỉnh sửa ngay trong mỗi tiết học trên lớp để nâng bậc cho học sinh đang còn
yếu kém . Góp phần cải tạo , nâng cao chất lượng đào tạo học sinh đại trà .

PHẦN 3: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ .
* KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau khi nghiên cứu , tìm tòi , thực nghiệm những giải pháp trên vào quá trình
dạy học môn hoá học khối trung học cơ sở . tôi đã tiến hành kiểm tra đánh giá
nhiều lần qua một số tiết học và qua một số phần học thì thấy kết quả chất lượng
học sinh đại trà được nâng lên đáng kể cụ thể như sau:

Tổng số
HS
Kết quả
235 Điểm dưới TB Điểm trên TB
25% 75%
Nhận xét
Với thực tiễn về cơ sở vật chất của trường đang còn nhiều khó khăn . một
trường vùng biển nghèo phía nam quảng xương . Để đạt được kết quả trên là
một sự nổ lực cố gắng vươn lên của cả thầy và trò chúng tôi .
10
Số học sinh có điểm khá giỏi tăng lên một cách đáng kể , học sinh có điểm
dưới trung bình giảm đáng kể.Điều này chứng tỏ được tính hiệu quả của việc
thực hiênh các biện pháp đã nêu trong đề tài .
KẾT LUẬN
Sau khi đã áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh
đại trà .Tôi thấy :
Học sinh đã hứng thú học tập hơn trước rất nhiều , không còn nhiều học
sinh đến lớp không làm bài tập và không học bài cũ nữa vì thông qua các
hoạt động dạy –học . Học sinh đã khắc sâu ngay kiến thức trên lớp .
Chất lượng học sinh đại trà được nâng lên đáng kể , tuy không cao
nhưng so với chất lượng học sinh đại trà của những năm trước thì đây là
một kết quả có tính khả quan.
Qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm này với sự giúp đỡ của đồng nghiệp , sự
tìm tòi nghiên cứu và thực nghiệm tôi mạnh dạn đưa ra một số biện nâng
cao chất lượng học sinh đại trà với mong muốn góp một phần nhỏ vào quá
trình cải thiện chất lượng dạy và học môn hó học khối trung học cơ sở .
Trong quá trình thực hiện còn nhiều thiếu sót kính mong sự góp ý của
đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
* ĐỀ XUẤT ,KIẾN NGHỊ
Chương trình hoá học ở bậc phổ thông cơ sở được phân phối ở hai khối

lớp là khối lớp 8 và khối lớp 9 về mặt kiến thức khá đầy đủ .Thời lượng phân
phối cho môn hoá học và trong từng tiết dạy ngày càng được hợp lý hơn. Sách
giáo khoa ngày cũng được chỉnh lý khoa học giúp giáo viên dễ dàng truyền thụ
kiến thức và học sinh dễ tiếp thu bài hơn . Tính lôgíc của chương trình cao hơn
tuy nhiên nó vẫn còn đôi chỗ chưa thực sự hợp lý.
11
Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy chương trình hoá học ở
THCS .Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau.
- Môn hoá học là môn khoa học tự nhiên có tính ứng dụng thực tiễn cao vừa
mang tính lý thuyết vừa mang tính thực nghiệm song thời lượng dành cho bộ
môn này ở trung học cơ sở là quá ít ỏi. Vì vậy theo tôi cần đưa bộ môn này vào
chương trình phổ thông sớm hơn và phân phối thời gian nhiều hơn.
- Trong phân phối chương trình hoá học lớp 8 ,9đã có nhiều đổi mới phù hợp
với sự lĩnh hội kiến thức của học sinh , như đã có các tiết luyện tập ở mỗi
chương . Nhưng theo tôi với chương trình hoá học nên đưa vào chương trình
mỗi sau mỗi bài kiểm tra thì nên có tiết trả và chữa bài kiểm tra.
- Môn hoá học là môn có nhiều thí nghiệm thực hành song phần lớn các
trường phổ thông trang thiết bị phục vụ cho thực hành còn thiếu thốn lạc hậu
phòng thực hành thí nghiệm chưa có .Kể cả vừa rồi các trường đã được cấp về
nhiều đồ dùng , song chưa đủ, kính mong các cấp lãnh đạo quan tâm tạo điều
kiện cung cấp đầy đủ đồ dùng ,hoá chất tối thiểu cho bộ môn hoá học .
- Phải có biên chế cán bộ thiết bị trường học cho các trường và phải được tập
huấn kỹ năng sử dụng các thiết bị dạy học.
Trên đây là một và đề xuất nho nhỏ của tôi với mong muốn làm sao cho
quá trình dạy của giáo viên – học của học sinh đạt kết quả cao nhất.
12
MỤC LỤC Trang
PHẦN THỨ NHẤT : PHẦN MỞ ĐẦU 1
1/ Lí do chọn đề tài. 1
PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU . 2

1/ Thực trạng : 2
1.1. Cơ sở lí luận. 2-3
1.2. Thực trạng
2/Những giải pháp. 4-9
PHẦN 3: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ . 10
* Kết quả đạt được 10
*Kết luận 10
*Đề xuất ,kiến nghị 11-12
13

×