Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN MỘt số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.01 KB, 17 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC HỌC SINH THCS
A / PHẦN MỞ ĐẦU
I / LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
1. Lí do khách quan :
Từ ngàn xưa, ông cha ta đã có câu: “ Tiên học lễ, hậu học văn”, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thì cho rằng: “có tài mà không có đức là người vô dụng”. Trong điều 2 chương I
của Luật giáo dục Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã chỉ rõ mục tiêu giáo
dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó cũng là mục tiêu chung của Đảng và
nhà nước ta hiện nay. Đạo đức là cái gốc của con người, làm công tác trồng người mà
không quan tâm vun xới từ gốc rễ thì không thể nào đào luyện ra con người phát triển
toàn diện. Bác Hồ đã từng nói:
“ Hiền dữ phải đâu là tính sẳn
Phần nhiều do giáo dục mà nên ”
Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo từ Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, ngành GD - ĐT đã mạnh dạn đổi mới tư duy, vận dụng nghiêm túc và sáng
tạo các quan điểm đổi mới giáo dục của Đảng, từng bước tìm ra những giải pháp sáng
tạo, khả thi. Nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục - đào tạo đã từng bước
đổi mới theo hướng vừa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, vừa
phù hợp với xu thế tiến bộ của thế giới.
Hiện nay, những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại đã mang nhiều lợi
ích tốt đẹp nhưng cũng tiềm ẩn nhiều hiểm họa ( hình ảnh đồi trụy, bạo lực, trò chơi
1
điện tử ), trong khi đó trẻ em vừa vào cấp II lứa tuổi mới lớn, hiếu động, tâm sinh
lý chưa ổn định, các em dễ bị lôi kéo vào thói hư, tật xấu, đặc biệt học sinh vùng sâu
điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, ít được tiếp xúc với công nghệ thông tin thì càng
hiếu kì, tò mò dể bị lôi cuốn, sa đọa. Vì vậy, vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh
trong nhà trường là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động dạy học, nó


đóng vai trò quyết định trong việc hoàn thiện và phát triển nhân cách của học sinh.
2 / Lí do chủ quan :
Xuất phát từ đặc điếm của trường cấp hai thuộc vùng 2 xa thị trấn cuộc sống
gia đình các em phần đa gặp nhiều khó khăn, không như các em ở trường vùng 1 điều
kiện gia đình đầy đủ, môi trường sống thuận lợi hơn. Việc tiếp xúc của các em vùng
sâu vùng xa có phần hạn chế, dễ bị lôi cuốn khi tiếp xúc với các trò chơi điện tử hoặc
sự lôi kéo của những người không lành mạnh. Đồng thời trường thuộc vùng có nhiều
học sinh dân tộc thiểu số chiếm khoảng 60%, chất lượng khá thấp, đa số các em mất
căn bản về kiến thức, không chuyên cần dễ bị lôi cuốn bởi thói hư tật xấu. Do đó, phải
chủ động, tích cực kết hợp giáo dục theo hướng giáo dục mà hội nghị Trung ương 2
đã vạch ra. Vì những lí do trên tôi thấy việc giáo dục toàn diện cho học sinh là hết sức
quan trọng và cấp bách. Nhà trường phải đẩy mạnh đồng bộ các hoạt động để giáo
dục học sinh. Muốn cung cấp cho xã hội những con người phát triển toàn diện thì
ngay từ trong nhà trường chúng ta phải đặc biệt chú ý đến đạo đức học sinh, phải tìm
ra các nguyên nhân và biện pháp tích cực để uốn nắn giáo dục các em phát triển một
cách toàn diện.
Với những kinh nghiệm giảng dạy lâu năm trong nghề, là một giáo viên dạy văn và
là người quản lý tôi nhận thức sâu sắc rằng công tác cần phải được quan tâm hàng đầu
là giáo dục đạo đức học sinh, đưa các em vào nề nếp, từ đó làm cho các em có nhận
thức và thái độ học tập đúng đắn thì chất lượng mới được nâng cao.
* Giới hạn đề tài:
2
Có rất nhiều cách giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường, trong khuôn
khổ bài viết có hạn tôi xin được đề cập đến phạm vi giáo dục trong trường học:
Thông qua hai hình thức hoạt động dạy học trên lớp và hoạt động ngoài giờ lên
lớp .
Sau đây là một vài biện pháp giáo dục đạo đức học sinh mà tôi đã từng thực
hiện và luôn trăn trở xin trao đổi, tâm sự cùng với đồng nghiệp để cùng chia sẻ.
B / PHẦN NỘI DUNG
Giáo dục đạo đức học sinh là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Đạo đức góp phần

quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, giữa
cá nhân và xã hội, nó có vai trò lớn lao trong việc giúp con người sáng tạo ra hạnh phúc
và giữ gìn, bảo vệ cuộc sống lành mạnh của xã hội và phẩm giá con người. Vì vậy, cần
phải quan tâm đúng mức đến các chức năng của đạo đức.
Đạo đức hình thành cho con người những quan điểm cơ bản nhất về những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức, nhờ đó con người có khả năng lựa chọn,
đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội cũng như tự đánh giá những suy
nghĩ, hành vi của bản thân mình. Chức năng giáo dục của đạo đức góp phần hình
thành nhân cách con người. Thông qua công tác giáo dục và tự giáo dục đạo đức mà
tính tích cực xã hội của cá nhân tăng lên. Một trong những thể hiện của công tác này
là sự nêu gương và noi gương. những tấm gương đạo đức cao cả, đẹp đẽ có sức lôi
cuốn con người sẽ giúp cá nhân rèn luyện phấn đấu hướng theo những cái thiện, cái
tốt đẹp.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh này giúp cá
nhân định hướng được hoạt động của bản thân cho phù hợp với yêu cầu của xã hội
cùng tồn tại và phát triển trong những điều kiện nhất định. Những quan niệm đạo đức
tiến bộ giúp con người nhận thức đúng, sai, phân biệt được thiện, ác. Trên cơ sở đó
3
mà định hướng một cách đúng đắn hành vi của bản thân trong hoạt động thực tiễn và
quá trình ấy lại củng cố thêm nhận thức cho con người.
Giáo dục đạo đức phù hợp với tâm sinh lý học sinh, hình thành thói quen nâng
cao nhận thức tốt đối với xã hội và chính bản thân các em:
- Giáo dục học sinh ý thức đúng đắn trong học tập, trong lao động, hiểu trách
nhiệm, nghĩa vụ giữa cá nhân, gia đình và xã hội. - Giáo dục thái
độ, hành vi đúng đắn, tôn trọng pháp luật, tôn trọng mọi người, lễ phép, nâng cao
nhận thức có lòng nhân ái, hình thành những tình cảm tốt đẹp với mọi người .
- Giáo dục lòng yêu nước, yêu Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ghi nhớ
công ơn của Bác Hồ, các anh hùng Liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng.
- Giáo dục lòng yêu chuộng hòa bình, tôn trọng sự bình đẳng, độc lập chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ của các dân tộc trên thế giới.

* Muốn giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường THCS phải dựa trên
những nguyên tắc sau :
- Cần đảm bảo tính mục đích, tính tổ chức, tính kế hoạch, tính tư tưởng của
công tác giáo dục.
- Giáo dục bằng thực tiễn và thông qua thực tiễn để đánh giá
- Thông qua dạy chữ để dạy người .
- Giáo dục thông qua lao động và các hoạt động xã hội .
- Tôn trọng và tạo điều kiện tốt cho học sinh phát huy những mặt tích cực trong
nhân cách .
- Giáo dục phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh của đối tượng.
- Giáo dục cá nhân trong tập thể và thông qua tập thể .
- Giáo dục cần phải phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nhà trường
4
- Giáo dục phải kết hợp ba môi trường giáo dục: nhà trường - gia đình và xã
hội .

1. Giáo dục đạo đức học sinh thông qua hoạt động dạy học trên lớp :
- Hoạt động dạy học ở nhà trường phổ thông giữ vị trí trung tâm bởi nó chiếm hết
thời gian, khối lượng công việc của thầy và trò trong một năm học, nó chi phối các hoạt
động giáo dục khác, đồng thời quyết định đến kết quả đào tạo của nhà trường.
- Một trong ba nhiệm vụ quan trọng của hoạt động dạy học là: “Tổ chức, điều khiển
học sinh hình thành thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức nói riêng và phát
triển nhân cách nói chung”. Qua giờ học giúp các em nắm được tri thức, hiểu được vai
trò, tầm quan trọng của kiến thức trong đời sống xã hội . Từ đó tạo cho các em có ý
thức học tập đúng đắn, rèn luyện tính cần cù, sáng tạo, biết quý trọng thành quả lao
động trí óc, lao động chân tay của người đi trước.
- Mặt khác, mỗi cử chỉ, hành động, lời nói, cách cư xử, phong cách giảng bài, tình
cảm, trách nhiệm, tính gương mẫu của giáo viên đã ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình
hình thành nhân cách của học sinh. Hình ảnh người thầy là một thực tế sống có vai trò
rất quan trọng đối với học sinh. Điều đó Bác Hồ đã khẳng định : “ Mỗi thầy cô giáo là

một tấm gương sáng cho học sinh noi theo”.
2. Giáo dục đạo đức học sinh thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp :
- Nhằm thực hiện tốt mục tiêu và nội dung giáo dục, hoạt động giáo dục không thể
chỉ diễn ra trong lớp học, khép kín bằng những giờ dạy trên lớp của giáo viên, Đảng ta
khẳng định nhân tố con người là quan trọng, phải phát triển toàn diện. Học sinh chúng
ta dù còn nhỏ nhưng cũng là một thực thể xã hội, là sự tổng hòa các mối quan hệ xã
5
hội, nên quá trình giáo dục nhằm hình thành nhân cách học sinh là quá trình vận dụng
nhiều con đường, nhiều môi trường và phối hợp nhiều lực lượng xã hội khác nhau .
- Một trong những quy luật quan trọng của nền giáo dục chúng ta là sự kết hợp cân
đối giữa giáo dục học sinh trong giờ lên lớp và việc giáo dục học sinh ngoài giờ lên lớp
qua sinh hoạt tập thể tiết học, tuần hoạt động được bộ giáo dục quy định trong chương
trình để các em gần gũi nhau hơn, hiểu về nhau hơn, linh hoạt hơn, thương yêu, giúp
đỡ, chia sẻ hoàn cảnh gia đình với các bạn khó khăn trong lớp tạo hứng thú trong học
tập cho học sinh.
- Muốn hình thành, phát triển nhân cách học sinh không chỉ đơn thuần thông qua
hoạt động dạy học trên lớp, mà còn phải thông qua các hoạt động đa dạng như công tác
xã hội, hoạt động thể dục thể thao, lao động Các hoạt động này tạo ra sự thống nhất
giữa trí và đức, giữa tình cảm và lý trí, giữa nhận thức và hành động của học sinh giúp
các em hiểu và hành động đúng.
Vì thế, cần tổ chức hoạt động ngoài giờ cho học sinh, thông qua các tổ chức, các
hoạt động đa dạng, phong phú để học sinh được giáo dục trong tập thể và bằng tập thể.
Việc giáo dục đạo đức học sinh thông qua hoạt động hoạt động ngoài giờ lên lớp cần
phải đảm bảo tính mục đích, tính tổ chức, tính kế hoạch, tự nguyện, tự giác, tính tự
quản, tính tập thể, tính đa dạng phong phú, tính hiệu quả .
3. Nguyên nhân :
Thực trạng ở trường THCS Nguyễn Thị Minh Khai nằm giữa trung tâm xã nhà, cơ
sở vật chất tuy còn thiếu thốn so với các trường chuẩn Quốc Gia nhưng với địa phương
cơ sở vật chất ở trường Minh Khai tương đối là khang trang, thoáng mát, có sân chơi
bãi tập tương đối rộng, có cả sân bóng đá rộng rãi mà cả xã không có được nên xung

quanh trường học có rất nhiều thanh thiếu niên thường hay tụ tập vào các buổi chiều
sau tiết học cuối nên ảnh hưởng không ít đến tính cách, đạo đức, tâm lý học sinh. Xung
quanh trường là các tụ điểm không lành mạnh như quán internet, bàn bi da, hàng
6
quán Tuy nhiên, trường hầu hết học sinh ngoan tương đối nhiều, bởi các em hầu hết
là con nhà lao động, kinh tế khó khăn. Bên cạnh đó cũng có một số ít học sinh tương
đối khó giáo dục .
Đại đa số học sinh là dân tộc thiểu số ( 60% dân tộc Ê Đê, Tày, Nùng ) nhận thức
chậm, ảnh hưởng không ít đến việc tiếp thu bài học trên lớp bởi các em vừa phải học
tiếng vừa phải học chữ. Một số em gia đình có hoàn cảnh khó khăn, hoặc một số gia
đình ít quan tâm hoặc do việc làm ăn nên không để ý việc học hành của con em mình,
hoặc vì quá nuông chiều con nên các em càng có điều kiện trốn học Hầu hết các em
nữ thường chịu khó hơn các em nam. Vì vậy, việc học của các em nam thường chểnh
mảng hơn sinh ra lơ là trong học tập, vào lớp ít chú ý khi giáo viên giảng bài, làm việc
riêng, đọc truyện, chơi ca rô, thậm chí có em trốn ra ngoài hút thuốc, trốn học, cúp
tiết rủ rê, hăm dọa bạn mình để cùng tham gia trốn học, đánh nhau, uống rượu, chơi
games Về nhà thì không học bài, không làm bài, một số em khác do cha mẹ không
quản lý chặt chẽ nên các buổi ở nhà lại lao vào các tụ điểm internet với những trò chơi
điện tử cảm giác mạnh quên việc học.
Từ đó thành thói quen, khi cha mẹ biết được thì các em đó đã bị hổng một số kiến
thức cơ bản nên bắt đầu nói dối, chán nản trong học tập v.v Việc giáo dục bắt đầu từ
đây thật khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm cũng như giáo viên bộ môn.
Chính vì vậy, giáo dục đạo đức cho học sinh cần phải được thông qua hoạt động
dạy học trên lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp thường xuyên bởi hoạt động dạy học ở
nhà trường luôn giữ vị trí trung tâm, nó chiếm thời gian, khối lượng công việc của thầy
- trò tương đối nhiều. Đồng thời cần phải kết hợp sự quan tâm của gia đình, vì chính gia
đình ảnh hưởng sâu sắc và quyết định đến đời sống, tâm tư tình cảm, đạo đức của các
em. Đa số phụ huynh vì điều kiện kinh tế hoặc vì công việc quá nhiều, đã buông lỏng
con cái mình, tạo chỗ hở cho các em hư hỏng. Phụ huynh thường giao khoáng con em
mình cho nhà trường, coi việc giáo dục các em là trách nhiệm của nhà trường. Đôi lúc

họ cũng không quan tâm đến con mình học ở lớp nào, giáo viên chủ nhiệm tên gì ở
7
đâu? học lực con mình như thế nào? hạnh kiểm ra sao? con mình đã nộp các khoản
đóng nộp trong năm học chưa? Có thường xuyên học bài không? hoặc có phụ huynh
cho tiền con nộp, không kiểm tra con xin bao nhiêu cũng cho, các em mang tiền tiêu xài
vào mục đích không lành mạnh: chơi điện tử, uống rượu, hút thuốc đến khi phụ
huynh biết được thì đã muộn. Về nhà, phụ huynh không quan tâm đến tập vở, bài học
của con cái mình. Từ đó tạo cho các em thói quen lười biếng học tập, thụ động, không
thuộc bài, khi làm bài kiểm tra thì quay cóp, mở tài liệu.
Một số em khác vì quá yếu kém, từ đó chán nản vì không theo kịp các bạn khác
sinh ra mặc cảm đi vào hư hỏng, trở thành học sinh cá biệt. Bên cạnh đó ảnh hưởng của
xã hội không ít đối với học sinh nông thôn vùng hai.
Như đã nói trên, xã hội phát triển với nền công nghệ thông tin hiện đại và tiên tiến
trên toàn cầu cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách học
sinh, các em ở tuổi thích tìm cái lạ, hiếu động, thích khám phá cái mới thì internet, các
trò chơi điện tử xung quanh trường là những cạm bẩy sẳn sàng chờ đợi các em.
4. Biện pháp thực hiện :
- Vì vậy việc quản lý, giáo dục học sinh trong trường không phải chỉ là trách
nhiệm của giáo viên chủ nhiệm mà là trách nhiệm chung của toàn thể giáo viên trong
nhà trường, đặc biệt là giáo viên trực tiếp dạy học các em phải thật chặt chẽ kết hợp cả
ba môi trường nhà trường - gia đình - xã hội, phải có sự phối hợp đồng bộ giữa giáo
viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường, gia
đình thì mới quản lý, giáo dục học sinh có hiệu quả.
- Cụ thể năm học 2009 - 2010 tôi đã được nhà trường phân công dạy văn lớp 8. Hầu
hết học sinh trong lớp rất ngoan nhưng cũng có vài em học sinh tương đối cá biệt
thường xuyên cúp giờ, vắng học vô lý do. Có khi còn rủ rê bạn lớp khác trốn học, cúp
tiết đi chơi, hút thuốc, trong lớp gây ảnh hưởng chung cho cả lớp học.
8
Vì vậy, là giáo viên dạy văn của lớp, đồng thời là người quản lý tôi luôn trăn trở,
tìm hiểu lý do vi phạm của các em này trong lớp qua các giờ dạy của mình. Tôi thường

xuyên hỏi thăm các em hay vi phạm nội quy của lớp, các em có biểu hiện chán học, bỏ
tiết, vắng nhiều và học yếu qua cán sự lớp và những em ở gần nhà bạn, để tìm hiểu lí do
xem các em đó vì sao nghỉ học, vì sao bỏ tiết ? Hôm nay các bạn đó có đến trường
không ? Có chú ý trong giờ học không ? Môn học nào những bạn đó hay bỏ tiết ? môn
học nào bạn ấy thích học ? Các bạn đó thường hay chơi với ai ? Và sở thích của bạn là
gì ? Trong gia đình ai là người các bạn ấy kính sợ nhất nghe lời nhất biết được
những sở thích cũng như tật xấu của các em tôi thường xuyên theo dõi, chú ý các em đó
khi bước vào lớp dạy, tôi gợi hỏi những câu hỏi dễ hơn so với các em khác, hướng dẫn
các em đó khi làm bài tập, gần gũi các em hơn, tạo sự thân mật giữa cô - trò làm cho
các em khi tiếp xúc với cô giáo không còn sợ hãi nữa, sau tiết 4 cuối buổi học tôi
thường cho các em đó ở lại hướng dẫn cho các em cách soạn bài, cách làm bài tập hoặc
cách làm bài tập làm văn mà các em không làm được do các buổi học trước nghỉ học.
Dần dần các em đó không còn bỏ tiết văn của tôi hoặc bỏ học, cúp tiết như trước kia
nữa. Bởi tâm lý các em này thường thì giáo viên không nên to tiếng la mắng khi vi
phạm một điều gì đó ( như không học bài cũ, không làm bài tập hoặc nói chuyện riêng,
bỏ tiết, vắng học ) mà cần tìm hiểu lí do cụ thể để trao đổi riêng với các em ( nắm
một số điểm yếu của các em để nhắc nhở ), hoặc nhắc nhở nhẹ nhàng các em trước lớp.
Làm như vậy các em sẽ không xấu hổ trước các bạn mình mà ngược lại các em đó càng
phải suy nghĩ tại sao mình sai như vậy mà cô giáo vẫn không la mắng? có phải vì cô
biết hết những gì về mình không? Hay cô giáo không biết hay là cô giáo thương mình
không muốn mình bị các bạn chê cười?
Từ đó giáo viên trao đổi với các em có tình cảm hơn, dễ thuyết phục các em hơn
khi học sinh nghĩ tốt về thầy cô giáo. Mỗi khi lớp có việc gì xảy ra hoặc học sinh bỏ
học tôi thường trao đổi với giáo viên chủ nhiệm ngay sau tiết học và một số giáo viên
bộ môn của lớp để tìm cách giải quyết. Giáo viên chủ nhiệm gặp phụ huynh để trao đổi,
tìm hiểu lí do. Tôi thường tìm hiểu cách học ở nhà của các em, trao đổi cùng giáo viên
9
chủ nhiệm và đề nghị phụ huynh các em đó cùng kết hợp với nhà trường, với giáo viên
chủ nhiệm đồng thời theo dõi, động viên các em kịp thời. Lúc đầu, các em đó coi việc
học trên lớp chỉ là sự bắt buộc của gia đình nên việc học rất miễn cưỡng chỉ đi học cho

có mặt. Đến lớp không chú ý khi thầy cô giáo giảng bài, Về nhà thì không làm bài tập,
không học bài. Thỉnh thoảng lại nghỉ học, cúp tiết, gia đình đành chịu thua không nói
được con mình đành nhờ vào sự giáo dục ở nhà trường và thầy cô giáo được chừng nào
hay chừng đó. Tôi thấy sự tiến bộ của các em này quá ít chỉ với một vài môn học (trong
đó có môn văn, môn nhạc, môn giáo dục, môn công nghệ ) các em ít bỏ còn lại một số
môn mà các em cho là mình không hiểu ( môn toán, môn anh ) thì lạị hay bỏ tiết vì sợ
thầy cô giáo bộ môn kiểm tra bài cũ. Tôi thiết nghĩ nếu chỉ một vài thầy, cô quan tâm,
chú ý đến học sinh còn những môn khác các em vẫn tiếp tục bỏ tiết, vắng học thì cũng
như không chất lượng của các em không đồng đều cuối năm các em này cũng sẽ bị ở
lại, ảnh hưởng chung cho cả lớp, cả trường và cả bản thân các em, vả lại việc giáo dục
học sinh phải được đồng bộ chứ không thể một vài giáo viên bộ môn như vậy. Nên tôi
đã cùng phối hợp với tất cả giáo viên dạy lớp đó cùng quan tâm, theo dõi, chú ý đến các
em học sinh này nhiều hơn bằng nhiều hình thức động viên, khen ngợi trước lớp khi
các em này có tiến bộ hoặc thành tích trong học tập cũng như trong hoạt động ngoài giờ
lên lớp, hoạt động Đoàn / Đội Đồng thời không quên chú ý, quan tâm giáo dục đạo
đức đến các em học sinh trong lớp để có sự đồng bộ trong học sinh.
Muốn nâng chất lượng lên, trước hết phải giúp các em có ý thức đạo đức, rèn luyện
cho mình sự kiên trì trong học tập, trong lao động Chính vì vậy, nên tôi đã kết hợp
với các giáo viên bộ môn cùng giáo dục dạy dỗ, theo dõi, quan tâm, chú ý động viên,
kiểm tra, hướng dẫn các em này thường xuyên trong giờ học bằng nhiều cách trong
giảng dạy chẳng hạn thầy cô giáo phải cố gắng liên hệ thực tế, giúp giờ học sinh động
hơn, hình thức đó giúp các em mau hiểu, hiểu kĩ bài học nhất là các môn xã hội văn, sử,
địa, giáo dục công dân sẽ giúp các em hình thành nhân cách từ giờ học trên lớp, có tình
cảm, thái độ, hành vi đạo đức đúng đắn phù hợp với đạo lý trong cuộc sống hàng ngày.
Phân tích cho các em hiểu vì sao phải học, học để làm gì, có ích cho ai? việc học tốt, có
10
kiến thức vững chắc có lợi ích gì đối với các em, lấy một số gương thực tế học sinh học
giỏi đã ra trường, thành đạt trong cuộc sống ở gần thôn buôn các em để các em nhận
biết, học hỏi.
Đồng thời kết hợp giáo dục các em vào những giờ hoạt động ngoài giờ lên lớp bằng

những nội dung phụ đạo những kiến thức mà các em chưa nắm vững, hoặc bằng những
hoạt động tập thể của lớp, của nhà trường, của tổ chức Đội TNTP HCM, khơi gợi sự
hứng thú học tập trong các em, như cho các em tham gia thi đấu các môn điền kinh, trò
chơi dân gian, văn nghệ, thi các môn theo năng khiếu như vẽ, tìm hiểu về thơ ca, văn
học, em yêu khoa học, đố vui để học qua đợt cắm trại, hội thi trong nhà trường tổ
chức vào các ngày thành lập hội liên hiệp phụ nữ 20/10, nhà giáo Việt Nam 20/11, ngày
thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12, ngày thành lập Đoàn TNCS HCM 26/3,
ngày thành lập đội TNTP HCM 15/5 các buổi sinh hoạt ngoài trời chơi trò chơi, văn
nghệ, sinh hoạt đội cũng đều hướng dẫn cho các em tham gia nhằm lôi cuốn các em này
hòa đồng cùng với tập thể lớp, gắn bó với lớp hơn, gây hứng thú trong học tập cho các
em.
5. Kết quả :
Trên cơ sở thống kê chất lượng xếp loại hạnh kiểm và học lực của học kì I và cuối
năm học của lớp, tôi nhận thấy chất lượng hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh đã
có những chuyển biến tích cực và đạt được những thành quả khả quan cụ thể như sau:
+ Học kì I:
Về học lực:
Các em đã có nhiều chuyển biến, tiến bộ, không còn la cà ở các quán, không còn bỏ
tiết, không còn nghỉ học tự do như trước nữa. Đến lớp đều đặn hơn, không còn xa lánh
các bạn như trước kia, học sinh cá biệt đã trở nên ham học, biết vận dụng kiến thức văn
hóa vào cuộc sống, vào trường học các em đã bớt quậy phá, lễ phép với thầy cô, hòa
đồng với các bạn trong lớp.
11
+ Cuối năm, các em này một số mặc dù bị thi lại nhưng đều được lên lớp và không
còn làm ảnh hưởng đến thi đua của lớp nữa. Thầy cô giáo bộ môn không còn than phiền
vì thái độ học tập lười biếng như trước kia. Điều này chứng tỏ việc giáo dục các em
không chỉ đơn thuần chỉ có giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh là được mà cần sự hổ trợ
của tất cả thầy cô giáo trong nhà trường qua hoạt động ngoài giờ lên lớp nói chung,
thầy cô giáo bộ môn qua hoạt động dạy học trên lớp nói riêng.
- Tỷ lệ học sinh có hạnh kiểm tốt tăng hơn so với học kì I (tăng 7,5%) . - Tỷ lệ

học sinh xếp loại hạnh kiểm trung bình so với năm trước giảm 6% hạnh kiểm yếu giảm
100%.
- Số lượng học sinh cá biệt giảm so với học kì I giảm ¾
- Các biểu hiện sai lệch về nhận thức, hành vi của học sinh đã được uốn nắn kịp
thời, nhiều học sinh đã tiến bộ rất nhiều.
- Các em đã tự xây dựng được nề nếp tự quản của lớp mình, có ý thức tự rèn luyện.
Qua quá trình giáo dục, học sinh đã có nhận thức đúng đắn, thực hiện tốt các quy
định của nhà trường, tự giác thực hiện tốt nội quy học sinh trong nhà trường đề ra.
Công tác giáo dục đạo đức học sinh thông qua hoạt động dạy học trên lớp và hoạt
động ngoài giờ lên lớp kết quả ngày càng cao, hạn chế được tỷ lệ đạo đức yếu kém.
6. Đề xuất biện pháp giáo dục học sinh:
- Nhằm đạt được kết quả cao trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh nói chung,
giáo dục học sinh cá biệt nói riêng, là người thầy, người cô không chỉ có nhiệm vụ
truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn là người cha, người mẹ, người anh, người chị
có trách nhiệm xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh , ngăn ngừa các tác động xấu
của các tệ nạn xã hội làm ảnh hưởng đến quá trình giáo dục trong nhà trường.
- Vạch kế hoạch giáo dục, đề ra những yêu cầu cụ thể đối với từng học sinh trong
lớp, bồi dưỡng ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện, đưa ra những quyết định khen thưởng,
kỉ luật với các đối tượng giáo dục.
12
- Áp dụng lý thuyết đi đôi với thực hành vào bài học bằng thực tế.
- Tổ chức tốt mối liên kết, phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường, kết hợp
tốt ba môi trường giáo dục: gia đình - nhà trường và xã hội
- Tổ chức các hoạt động vui chơi lành mạnh ngoài giờ lên lớp, khơi dậy các mặt tích
cực trong hoạt động của các em. Tạo sự hòa nhập tập thể trong các em. Lấy tập thể để
giáo dục và dùng bạn thân để tác động, bởi nhu cầu của con người là được tình bạn,
được chấp nhận, được yêu thương, được là thành viên của tập thể.

C / KẾT LUẬN :
- Từ những vấn đề đã trình bày trên, cho phép tôi rút ra kết luận : Vấn đề giáo dục

học sinh cá biệt ở trường THCS là một trong những hoạt động quan trọng trong nhà
trường. Quá trình giáo dục học sinh muốn có hiệu quả cần phải :
- Có sự liên kết các lực lượng trong và ngoài nhà trường để tác dụng đồng bộ lên các
đối tượng cần được giáo dục.
- Tổ chức và điều hành quá trình giáo dục hoàn chỉnh, từ bước khảo sát đối tượng
đến bước thực hiện giáo dục và kiểm tra, đánh giá, tổng kết khen thưởng kịp thời.
- Vận dụng sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường tác động
lên quá trình giáo dục.
- Phải biết kết hợp ba môi trường giáo dục: Gia đình, nhà trường và xã hội.
- Có các biện pháp xử lý những vi phạm một cách hợp tình, hợp lý (giảm thiểu dùng
mức kỷ luật đuổi học đối với học sinh).
13
- Phải tạo cho các em được hòa nhập tập thể. Lấy tập thể để giáo dục và dùng bạn
thân để tác động. Bởi vì nhu cầu của con người là được tình bạn, được chấp nhận, được
yêu thương, được là thành viên của tập thể.
- Phải kết hợp giữa giáo dục với giúp đỡ về kinh tế ( nếu có thể với gia đình khó
khăn như ủng hộ các em bằng hủ gạo tình thương, áo ấm tình người qua việc ủng hộ,
đóng góp chia sẻ khó khăn của tập thể trường, lớp ), động viên các em bằng tình cảm
để các em vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, không bị kẻ xấu thừa cơ lợi dụng.
Từ đó các em có đủ điều kiện vươn lên trong học tập và rèn luyện hạnh kiểm.
- Phương pháp giáo dục phải khoa học, nội dung giáo dục phải phong phú và đa
dạng, sử dụng các phương pháp giáo dục lồng ghép, giáo dục theo phương châm: “ Học
vui - vui học”, tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải
trí. Tạo sân chơi phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, tránh khô khan
làm cho các em nhàm chán.
Giáo dục không phải là tránh xa thực tế mà phải thâm nhập thực tế để giúp các em
nhận ra cái đúng, cái sai, điều tốt, điều xấu. Từ nhận thức đúng các em sẽ có những
hành động đúng.
Hoạt động dạy học trên lớp và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có quan hệ
tương hổ cho nhau. Muốn đào tạo một học sinh phát triển toàn diện không thể chú ý

mặt này mà bỏ mặt kia, cần kết hợp cả hai thì mới hoàn thiện. Tuy nhiên, giáo viên chủ
nhiệm cũng là yếu tố quan trọng trong việc giáo dục học sinh, là cầu nối giữa nhà
trường và cha mẹ học sinh, là nhân tố đưa kế hoạch giáo dục học sinh bằng những hoạt
động thực tiễn vào cuộc sống nhà trường.
Trên đây là một số biện pháp giáo dục học sinh trong nhà trường mà bản thân tôi đã
rút ra qua quá trình dạy học ở trường THCS Nguyễn Thị Minh Khai đã thực hiện muốn
trao đổi cùng tất cả anh chị em đồng nghiệp với những người đã từng trăn trở, lo lắng
cho việc giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường hiện nay. Trong khuôn khổ bài
viết có hạn tôi chỉ xin dừng lại trong phạm vi một vài biện pháp giáo dục đạo đức học
14
sinh trong hoạt động dạy học trên lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp chắc hẳn còn
nhiều thiếu sót rất mong sự chia sẻ, đồng cảm, góp ý, trao đổi của anh chị em đồng
nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Đánh giá của Hội đồng xét duyệt













15












MỤC LỤC
A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
1. Lý do khách quan
2. Lý do chủ quan
* Giới hạn đề tài
B. Phần nội dung
1. Giáo dục học sinh thông qua hoạt động giờ dạy trên lớp
2. Giáo dục học sinh thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp
3. Nguyên nhân
16
4. Biện pháp thực hiện
5. Kết quả
C. Kết luận
*********************
****************************
************************************
17

×