Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN Sinh lý tuần hoàn máu và hệ tim mạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Máu là một dịch lỏng được lưu thông trong một hệ thống ống kín gọi
là hệ mạch máu. Máu cùng với dịch bạch huyết, dịch gian bào, dịch não tủy,
dịch màng phổi, dịch màng tim… tạo nên môi trường nội bào của cơ thể. Để
hiểu biết được vai trò của máu đối với cơ thể. Ta cần tìm hiểu các thành
phần cấu tạo và chức năng quan trọng của máu là: Vận chuyển các chất, điều
hòa thân nhiệt, bảo vệ cơ thể như: Bạch cầu ở trong máu có khả năng tiêu
diệt các vi trùng, vi khuẩn nhờ cơ thể thực bào. Tạo ra kháng thể để tấn công
các tác nhân xâm nhập vào cơ thể bằng phản ứng kháng nguyên – kháng thể.
Các phản ứng này có liên quan đến khả năng miễn dịch tự nhiên của cơ thể.
Từ những nội dung cơ bản trên, là một giáo viên giảng dạy môn sinh học tôi
chọn đề tài để nghiên cứu là: Sinh lý tuần hoàn máu.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm mục đích mở rộng kiến thức để bổ trợ cho học sinh nắm bắt
được các nguyên tắc truyền máu vào mạch máu để cứu người mất máu nhiều
do bị thương, bị bệnh Trong suốt thế kỷ XVIII, đã có nhiều thử nghiệm
nhưng thường gặp tai biến dẫn đến chết người, cho đến đầu thế kỷ XX
(1901). Các Lanstâynơ, nhà khoa học người Áo mới tìm ra nguyên nhân là
do kết dính các hồng cầu khi được truyền vào máu của nhóm không phù
hợp. Ông đã được giải thưởng Noben. Ngày nay ở nước ta lấy ngày 7/4 hàng
năm làm ngày hiến máu nhân đạo.
1
III. ĐỐI TƯỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu: sinh lý máu, sinh lý tuần hoàn, tim và hệ mạch.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU MÁU VÀ TUẦN HOÀN
Máu và tuần hoàn là cơ sở của nhiều môn khoa học như: tâm lý học,
giáo dục học, hóa học, di truyền học và giáo dục thể chất…
Sinh lý máu vùa là cơ sở vừa là yêu cầu của y học. Người thầy thuốc
muốn chữa trị được bệnh tật phải nắm vững các hoạt động sinh lý của người
bình thường, các trạng thái bất thường sinh lý để chuẩn đoán bệnh mới chính


xác…
V. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CHÍNH
1. Quan sát
+ Quan sát bằng giác quan: Thị giác (nhìn), thính giác (nghe)…
+ Quan sát bằng thiết bị như vô tuyến truyền hình, kính hiển vi, các
thiết bị khác để tính, định lượng những hoạt động sinh lý bất thường…
2. Thực nghiệm, thí nghiệm
+ Dùng động vật để thí nghiệm như: chó, khỉ, lợn sống để nghiên cứu
chức năng của mạch máu.
|+ Thí nghiệm: Lấy hồng cầu của nhóm máu AB cho nhóm máu O thí
hồng cầu bị kết dính, ngược lại lấy hồng cầu nhóm máu O cho nhóm máu
AB thì hồng cầu không bị kết dính.
 Vậy nhóm máu O truyền được cho nhóm máu AB.
2
NỘI DUNG
TUẦN HOÀN MÁU GỒM: MÁU, TIM VÀ HỆ MẠCH
I. MÁU
1) Thành phần của máu: Máu là một loại mô liên kết lỏng đặc biệt gồm có
huyết tương chiếm 55% thể tích, các tế bào máu chiếm 45% thể tích.
1.1 Huyết tương:
- Huyết tương là phần dịch lỏng của máu có máu vàng nhạt gồm chủ yếu là
nước chiếm 90%, các chất khác là 10% như: protein, gluxit, lipit, các muối
khoáng, các vitamin, các enzim và các hoocmon.
- Protit huyết tương: có hơn 100 loại protit khác nhau. Có loại đóng vai trò
miễn dịch, nó rất cần cho sự tạo kháng thể…
- Gluxit huyết tương (đường huyết): Hàm lượng huyết tương trong máu phụ
thuộc vào trạng thái sinh lý của cơ thể, hoạt động của các tuyến nội tiết, hệ
thần kinh.
Đường trong máu ở dạng tự do và dạng liên kết với protein khi vượt
quá mức bình thường trong máu thì Glucose sẽ được chuyển thành Glicozen

dự trữ ở gan dưới tác dụng của hoocmon insulin. Vì vậy khi bệnh nặng tuyến
tụy (thiếu insulin) thi Glicozen không được tạo ra, hàm lượng đường trong
máu tăng cao và bị thải ra qua đường nước tiểu (bệnh đái tháo đường).
- Lipit huyết tương: Trong huyết tương liptit chiếm khoảng 0,5 – 1% tồn tại
ở dạng mỡ trung tính và các sản phẩm phân giải của nó là Glixerin và axit
béo. Ngoài ra còn có lipoprotein, photpholipit… Nhờ lipoprotein mà
Glixerin và axit béo được hấp thụ từ ống tiêu hóa về gan rồi tới các mô.
3
- Khi quá mức bình thường trong máu, lipit sẽ được biến đổi thành mỡ dự
trữ.Khi quá dư thừa nó tích tụ và bám vào các cơ quan dẫn đến bệnh lý
(bệnh xơ vữa thành mạch máu…).
1.2 Huyết cầu
Huyết cầu là thể hữu hình(có hình dạng) của máu bao gồm: Hồng cầu,
bạch cầu và tiểu cầu.
* Hồng cầu: Tế bào hồng cầu có mầu hồng, hình đĩa lõm hai mặt, không
có nhân. Hồng cầu có Hb (huyết sắc tố) có đặc tính nếu kết hợp với Ôxi thì
máu có màu đỏ tươi, khi kết hợp với cacbon máu có màu đỏ thẫm. Đường
kính hồng cầu 7-8 micro, độ dày ở giữa 1 micro, ở hai đầu 2,2 micro. Diện
tích hồng cầu với không khí rất lớn.
Số lượng hồng cầu ở trẻ sơ sinh 6-7 triệu/mm3 máu, sau 3 tháng tuổi
mới giảm bằng người lớn. Đối với nam có khoảng 4,2 triệu mm3 máu, đối
với nữ khoảng 3,8 triệu mm3 máu. Số lượng này thay đổi tùy theo lứa tuổi
và trạng thái: Lúc làm việc hồng cầu tăng hơn lúc nghỉ ngơi. Hoặc địa dư
khác nhau thì cũng khác: như dân sống ở vùng cao số lượng hồng cầu cao
hơn so với dân sống ở vùng thấp hay môi trường nóng đột ngột thì hồng cầu
cũng tăng. Hồng cầu có vai trò quan trọng là tham gia vận chuyển khí trong
qúa trình hô hấp của cơ thể.
- Sự sinh sản của hồng cầu: Vì thiếu nhân nên hồng cầu không có khả năng
tự phân chia để tạo ra các hồng cầu mới, do đó một số cơ quan trong cơ thể
phải đảm nhận nhiệm vụ sản sinh ra hồng cầu:

+ Lá phôi giữa tạo hồng cầu cuối tháng thứ nhất của bào thai.
+ Gan và lá lách tạo hồng cầu từ tháng thứ 2 đến tháng thứ 4 của thai. Từ
tháng thứ 5 trở đi do tủy đỏ của các xương dài như: Xương đùi, xương cẳng
tay, cẳng chân, cánh tay…
4
- Sự tiêu hủy của hồng cầu: Tuổi thọ của hồng cầu khoảng 120 ngày. Các
hồng cầu già khi đi qua gan và lá lách sẽ bị tiêu hủy bởi những tế bào đặc
biệt gọi là tế bào cutelr bằng cách thực bào. Hồng cầu tan vỡ, Hb bị phân
hủy, sắt (Fe) được dòng máu đưa trở lại tủy đỏ xương để tiếp tục sản xuất ra
hồng cầu mới.
* Bạch cầu: Là những tế bào có nhân, hình dạng có thể biến đổi và di
động được, kích thước từ 5 – 20 micromet.
- Số lượng bạch cầu: Ở người Việt Nam có 4000 – 9000 mm3 máu. Số
lượng này thay đổi tùy thuộc vào:
+ Lứa tuổi: Trẻ sơ sinh có 10.000 – 25.000 mm3, trẻ 5 tuổi có 4.300 –
13.000mm3 máu.
+ Trạng thái sinh lý: Bạch cầu tăng khi bị nhiễm khuẩn cấp tính, giảm khi bị
nhiễm độc, suy tủy.
+ Trạng thái cơ thể: Bạch cầu tăng sau khi ăn, lao động nặng, hoạt động thể
thao…
- Chức năng của bạch cầu: Bảo vệ cơ thể theo cơ chế miễn dịch nhờ 2 khả
năng: đại thực bào và tạo kháng thể. Bởi vì trong bạch cầu còn có 5 loại tế
bào, mỗi loại tế bào đảm nhiệm những chức năng khác nhau như:
+ Bạch cầu trung tính chuyển động theo kiểu amip hình thành chân giả bao
vây quanh vật lạ và tiết enzim phân hủy vật lạ, các vi khuẩn… xâm nhập vào
cơ thể hoặc dọn sạch xác vi khuẩn tại các ổ viêm nhiễm, vết thương…
+ Bạch cầu ưa axit: Khả năng thực bào yếu hơn nhưng dọn sạch các ổ viêm
nhiễm ở giai đoạn cuối.
+ Bạch cầu ưa kiềm: Không có khả năng thực bào nhưng lại tiết ra heparin
vào máu để ngăn cản qúa trình đông máu trong lòng mạch.

+ Bạch cầu mônô: Tạo kháng thể đặc hiệu để tiêu diệt các tác nhân gây
bệnh.
5
+ Bạch cầu limphô T: có 2 dạng:
- Dạng tế bào cứu trợ: Giúp tế bào limphô B sản xuất kháng thể.
- Dạng tế bào loại bỏ: Chấm dứt hoặc loại trừ cuộc chiến của cơ thể
chống mầm bệnh.
Trong trường hợp bị mắc bệnh AIDS mà tác nhân gây bệnh là HIV thì số
tế bào loại bỏ vượt quá số tế bào cứu trợ, mặt khác HIV tấn công tế bào cứu
trợ. Do vậy việc sản xuất các kháng thể bị giảm sút, làm suy giảm khả năng
miễn dịch, cơ thể suy kiệt dần.
* Tiểu cầu:Là những tiểu thể nhỏ không có nhân, có nhiều hình dạng khác
nhau, nó còn được gọi là tiểu thể đông máu nên nó tham gia vào quá trình
đông máu.
- Giải phóng chất Thromboplaxtin để gây đông máu.
- Khi gặp chỗ thô ráp (mạch máu bị đứt) tiểu cầu ngưng lại thành cục góp
phần đóng miệng vết thương.
- Khi bị vỡ tiểu cầu còn tiết ra chất Serotonin gây co mạch để cầm máu.
2. Các nhóm máu ở người
a) Thí nghiệm
Các Lanstâynơ đã dùng hồng cầu của một người trộn với huyết tương của
những người khác và ngược lại. Khi lấy huyết tương của một người trộn với
huyết tương của những người khác ông cho rằng:
- Hồng cầu có hai loại kháng nguyên gọi là ngưng kết nguyên (ngưng
nguyên) đó là A và B với bản chất là polisacarit.
- Trong huyết tương có hai loại kháng thể gọi là ngưng kết tố, đó là α (anti
A) và β (anti B) với bản chất là γ – Globutin.
- Hồng cầu chứa kháng nguyên A sẽ bị đông lại khi huyết tương chứa kháng
thể α, còn hồng cầu chứa kháng nguyên B sẽ bị ngưng kết khi gặp huyết
6

tương chứa kháng thể β. Trong máu của người không bao giờ cùng tồn tại cả
A và α hoặc B và β.
Dựa vào sự có mặt các kháng nguyên và kháng thể, Lanstâynơ đã dùng tên
kháng nguyên đặt cho nhóm máu và chia hệ thống máu A,B,O của người
thành 4 nhóm sau:
Nhóm Kháng nguyên ở hồng
cầu
Kháng thể trong huyết
tương
A A β (anti B)
B B α (anti A)
O O Α (anti A) và β( anti B)
AB A và B Không có
b) Sự truyền máu
- Truyền máu là việc làm rất cần thiết để cứu người, trước kia vì chưa hiểu
biết đầy đủ về nhóm máu nên truyền máu đã gây nên nhiều hậu quả nghiêm
trọng dẫn đến tử vong.
- Năm 1900 Các Lanstâynơ đã tìm ra nguyên nhân thất bại của sự truyền
máu vì ông chứng minh được rằng: máu của những người khác nhau thì có
đặc tính hóa học không giống nhau. Hồng cầu sẽ đông lại khi máu của người
cho không phù hợp với người nhận.
Muốn truyền máu thì ta phải xem xét:
+ Ngưng kết nguyên A, B của máu người cho.
+ Nhóm máu của người cho và người nhận.
+ Sơ đồ truyền máu:
7
A <=> A

O <=> O =========> AB <=> AB
B <=> B

c) Cách xác định nhóm máu:
Nhóm máu Huyết thanh chuẩn
Anti A Anti B Anti AB
O (-) (-) (-)
A (+) (-) (+)
B (-) (+) (+)
AB (+) (+) (+)
II. TIM
1) Cấu tạo ngoài
8
- Tim nằm trong lồng ngực, hơi chếch về phía bên trái và tì lên cơ hoành.
Mặt trước giáp với xương ức, mặt sau giáp với thực quản và đoạn động
mạch ngực, hai bên tiếp xúc với hai lá phổi.
- Tim là một khối cơ rỗng, hình nón, đáy ở trên chếch sang phải, đỉnh ở dưới
chếch sang trái. Trọng lượng của tim khoảng 250 – 300 gam.
- Nhìn bề ngoài tim khoảng 1/3 phía trên có rãnh chạy xung quanh tim gọi là
rãnh vành tim, đó là ranh giới chia làm hai phần: tâm nhĩ ở trên, tâm thất ở
dưới. Từ rãnh vành tim chạy lên đáy tim có rãnh liên nhĩ để chia tâm nhĩ
thành tâm nhĩ trái và tâm nhĩ phải. Cũng từ rãnh vành tim chạy xuống đỉnh
tim ở mặt trước có rãnh liên thất trước, trong rãnh có động mạch vành tim
trái, ở mặt sau có rãnh liên thất sau, trong rãnh có động mạch vành tim phải.
Hai rãnh liên thất ăn sâu vào trong tạo nên vành liên thất chia tâm thất thành
tâm thất trái và tâm thất phải.
9
2) Cấu tạo trong
Khi bổ dọc tim, ta thấy tim chia thành hai nửa: nửa trái và nửa phải ngăn
cách nhau bởi vách dọc. Mỗi nửa lại được chia làm hai ngăn: tâm nhĩ ở trên
và tâm thất ở dưới. Tâm nhĩ và tâm thất ở cùng bên được thông với nhau qua
lỗ nhĩ thất, ở đó được bố trí hệ thống van tim với chức năng chỉ cho phép
máu chảy theo một chiều từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Lỗ nhĩ thất trái có van

10
hai lá, lỗ nhĩ thất phải có van 3 lá. Hệ thống van gồm: Lá van là một tấm
màng liên kết sợi chắc được bám vào bờ lỗ nhĩ thất, từ lá van xuất phát đi hệ
thống dây chằng kéo xuống dưới bám vào các trụ cơ nổi lên ở thành trong
tâm thất. Khi tâm thất co, các dây chằng chùng làm các lá van đậy lỗ nhĩ thất
lại. Khi tâm thất giãn, các lỗ nhĩ thất mở ra và máu chảy từ tâm nhĩ xuống
tâm thất. phía trên tâm thất trái có lỗ thông với động mạch chủ, phía trên tâm
thất phải có lỗ thông với động mạch phổi. Ở gốc của các động mạch này
được bố trí van tổ chim ( van bán nguyệt) với chức năng cho máu chảy 1
chiều từ tâm thất vào động mạch. Trong tâm nhĩ phải có lỗ đổ của tĩnh mạch
chủ trên, tĩnh mạch chủ dưới và tĩnh mạch vành tim. Trong tâm nhĩ trái có lỗ
đổ của 4 tĩnh mạch phổi: hai tĩnh mạch phổi phải và hai tĩnh mạch phổi trái.
Như vậy tim có 9 lỗ thông: hai động mạch dẫn máu ra khỏi tim, 7 tĩnh mạch
dẫn máu về tim.
3) Cấu tạo của thành tim
Thành của quả tim được cấu tạo từ 3 lớp:
- Lớp màng bao tim: ở ngoài cùng bao gồm 2 lá:
+ Lá thành: Ở ngoài cùng nhất dính vào màng phổi và các tổ chức xung
quanh để cố định tim.
+ Lá tạng: ở trong dính vào cơ tim.
Hai lá này tạo nên xoang bao tim trong có chứa dịch màng tim làm cho tim
cử động dễ dàng.
- Lớp cơ tim: ở giữa, lớp này ở tâm nhĩ thì mỏng, ở tâm thất nhất là tâm thất
trái rất dày. Lớp này có hai loại sợi cơ:
+Các sợi cơ kém biệt hóa nhưng mang tính thần kinh gọi là hệ thống dẫn
truyền của tim (sẽ nghiên cứu ở phần thần kinh tim ).
11
+ Các sợi cơ co bóp: gồm 4 vòng sợi vây quanh 2 lỗ nhĩ thất và 2 lỗ động
mạch. Bám vào các vòng sợi này có 2 loại cơ tim: 1 loại riêng cho từng tâm
nhĩ hoặc tâm thất và một loại chung cho cả 2 tâm nhĩ hoặc 2 tâm thất.

- Lớp nội bì: ở trong cùng, gồm một lớp tế bào biểu bì dẹt với nhiều sợi đàn
hồi. Các van tim đều sinh ra từ lớp nội bì này.
Thành của các ngăn tim có độ dày khác nhau tùy theo chức năng như
thành của mỗi tâm nhĩ chỉ dày 3mm vì chỉ cần tâm nhĩ co nhẹ hoặc tâm thất
giãn là máu được dồn xuống tâm thất, tâm thất phải dày 6mm để đủ lực đẩy
máu lên phổi còn tâm thất trái dày 15mm để đẩy máu tới các cơ quan ở xa
tim.
4) Mạch máu tim
Cơ tim hoạt động liên tục được bởi được cung cấp một lượng máu khá
lớn: 250- 500ml/phút nhờ các mạch máu tim gồm hai động mạch vành tim
và tĩnh mạch vành tim.
- Động mạch vành tim: xuất phát từ gốc động mạch chủ ngang phía trên van
tổ chim. Động mạch vành tim phải đi trong rãnh vành tim vòng ra sau theo
rãnh liên thất sau xuống đỉnh tim, động mạch vành tim trái theo rãnh liên
thất trước xuống đến đỉnh tim ở mặt trước.
- Các tĩnh mạch tim thu hồi máu ở các phần của tim tập trung vào xoang của
tĩnh mạch vành ( nằm trong rãnh vành tim ở mặt sau ) và đổ vào tâm nhĩ
phải.
5) Chu kỳ co dãn của tim
Gồm có 3 pha:
- Pha co tâm nhĩ 0,1s: máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất.
- Pha co tâm thất 0,3s: máu từ tâm thất đổ vào động mạch chủ.
- Pha dãn chung 0,4s: máu được hút từ tâm nhĩ xuống tâm thất.
12
=> Sự phối hợp hoạt động của các thành phần cấu tạo tim qua 3 pha làm
cho máu được bơm theo một chiều từ tâm nhĩ vào tâm thất và từ tâm thất
vào động mạch.
III. HỆ MẠCH

Gồm có: Động mạch, tĩnh mạch và mao mạch.

13
1. Động mạch:
Cấu tạo:
Thành động mạch gồm có 3 lớp:
- Lớp mô liên kết
- Lớp cơ trơn
- lớp biểu bì
Lòng động mạch hẹp thích hợp với chức năng dẫn máu từ tim đi đến các
cơ quan với vận tốc cao và áp lực lớn.
* Hệ động mạch gồm có: động mạch phổi và động mạch chủ.
a) Động mạch phổi:
Được xuất phát từ tâm thất phải hướng lên trên và chếch sang trái. Sau
khi ra khỏi tim khoảng 5cm nó tách ra làm hai nhánh: Động mạch phổi
phải vào lá phổi phải, động mạch phổi trái vào lá phổi trái. Ở trong phổi
hai động mạch này lại chia nhỏ đi vào các thùy phổi. Cuối cùng các động
mạch nhỏ tạo thành mạng lưới mao mạch bao quanh các phế nang để thực
hiện sự trao đổi khí.
b) Động mạch chủ:
Được xuất phát từ tâm thất trái lên trên sau động mạch phổi. Đến sau
cán xương ức nó vòng sang trái vắt qua đoạn phế quản trái rồi đi xuống
dưới dọc theo mặt sau thực quản và trước đoạn sống ngực. Động mạch này
chui qua cơ hoành xuống khoang bụng dọc theo mặt trước của cột sống,
14
đến đốt thắt lưng thứ tư nó tách làm hai nhánh động mạch chậu gốc phải
và trái rồi đi xuống hố chậu và hai chi dưới.
Động mạch chủ được chia làm 3 đoạn: Đoạn quai động mạch chủ, đoạn
động mạch chủ ngực và đoạn động mạch chủ bụng.
- Đoạn quai động mạch chủ: Được chia làm 5 nhánh: 2 động mạch vành
tim, động mạch cánh tay đầu, động mạch cổ gốc trái, động mạch dưới
đòn trái.

- Đoạn động mạch chủ ngực: nó là đoạn tiếp theo của quai động mạch
chủ, nằm trong trung thất sau ở trước các đốt sống ngực và sau thực
quản. Đoạn này được bắt đầu từ chỗ vắt qua phế quản trái đến chỗ
xuyên qua cơ hoành, trên đường đi nó chia thành nhiều nhánh nhỏ: hai
nhánh tới phế quản, ba nhánh tới thực quản, một nhánh tới màng bao
tim, một nhánh tới các hạch bạch huyết ở vòng ngực, một nhánh đến
mặt trên cơ hoành và 10 nhánh tới các cơ quan liên sườn.
- Đoạn động mạch chủ bụng: nằm trong khoang bụng bắt đầu từ dưới cơ
hoành dến ngang đốt thắt lưng thứ tư, ở trước các đốt cột sống. Nó chia
nhiều nhánh nhỏ vào khoang bụng, hố chậu và 2 nhánh lớn xuống chi
dưới:
+ Các động mạch bụng
+ Động mạch chậu gốc
+ Động mạch đùi
+ Động mạch kheo
+ Động mạch cẳng chân và bàn chân
2) Tĩnh mạch
Cấu tạo:
Thành có 3 lớp:
- Lớp mô liên kết
15
- Lớp cơ trơn
- Lớp biểu bì
Lòng tĩnh mạch rộng hơn của động mạch, thích hợp với chức năng dẫn
máu từ khắp các tế bào của cơ thể về tim với vận tốc và áp lực nhỏ.
* Tĩnh mạch được chia làm 2 loại tùy theo vị trí của nó là nông hay sâu.
Tĩnh mạch sâu nằm giữa các cơ, thường cứ 2 tĩnh mạch sâu đi kèm với
một động mạch. Tĩnh mạch nông nằm sát dưới da nên còn gọi là tĩnh mạch
dưới da, các tĩnh mạch này không đi kèm với động mạch mà chúng nối với
nhau tạo nên mạng lưới tĩnh mạch dưới da.

Tim nhận máu trở về từ 7 tĩnh mạch: 4 tĩnh mạch phổi. tĩnh mạch vành tim,
tĩnh mạch chủ trên, tĩnh mạch chủ dưới.
- Tĩnh mạch phổi: tĩnh mạch này thu máu đỏ tươi từ các mạng lưới mao
mạch bao quanh phế nang của 2 lá phổi và tập trung thành 4 tĩnh mạch
phổi, hai tĩnh mạch phổi phải, hai tĩnh mạch phổi trái, tất cả đều đổ vào
tâm nhĩ trái. Tĩnh mạch phổi trái không có van bán nguyệt.
- Tĩnh mạch vành tim: sau khi đi nuôi vành tim, máu được trở lại qua
tĩnh mạch vành tim.
- Tĩnh mạch chủ trên: đó là một tĩnh mạch lớn thu hồi toàn bộ máu tĩnh
mạch từ đầu, cổ, khoang ngực và hai chi trên đổ vào tâm nhĩ phải. Tĩnh
mạch này có hai nhánh lớn là tĩnh mạch cánh tay đầu và tĩnh mạch
ngực- cột sống.
- Tĩnh mạch chủ dưới: có hai đoạn chính là thân tĩnh mạch chủ dưới và
tĩnh mạch chi dưới.
3) Mao mạch
- Mao mạch là những mạch nối liền động mạch với tĩnh mạch và là nơi
trao đổi chất giữa mạch máu và tế bào.
16
+ Thành của mao mạch có một lớp tế bào rất mỏng (1mm) với nhiều lỗ
màng nên các chất trao đổi có thể đi qua lại dễ dàng.
+ Các mao mạch tuy rất nhỏ nhưng lại nhiều, chúng nối với nhau tạo thành
mạng lưới mao mạch nằm trong các mô, có tổng diện tích khoảng
6000m2. Số lượng mao mạch rất lớn: chỉ riêng mô cơ đã có tới 240.000
mao mạch/cm2 cơ
+ Đường kính trung bình của các mao mạch là: 7-8 mm, tối đa là 10 mm,
đủ để cho một hồng cầu chui qua.
IV. HỆ TUẦN HOÀN
Con đường vận chuyển máu từ tim đi tơi các cơ quan rồi lại trở về tim
được gọi là vòng tuần hoàn. Máu từ tim đi ra trong các động mạch rồi qua
các mao mạch phân bố tới các cơ quan và từ đó trở về tim trong các tĩnh

mạch theo hai vòng tuần hoàn.
1) Tâm thất phải
2) Động mạch phổi
3) Mao mạch phổi
4) Tĩnh mạch phổi
5) Tâm nhĩ trái
6) Tâm thất trái
7) Động mạch chủ
8) Mao mạch phần trên cơ thể
9) Mao mạch phần dưới cơ thể
17
10) Tĩnh mạch chủ trên
11) Tĩnh mạch chủ dưới
12) Tâm nhĩ phải
* Vòng tuần hoàn lớn:
Xuất phát từ tâm thất trái máu đỏ tươi đi theo động mạch chủ, các động
mạch vừa, động mạch nhỏ đi tới các mô. Tại đây qua mạnh lưới các mao
mạch, máu nhả O2 và các chất dinh dưỡng cho tế bào đồng thời thu nhận
CO2 và các sản phẩm của quá trình trao đổi chất trở thành máu đỏ thẫm.
Ra khỏi mao mạch máu này được chuyển theo tĩnh mạch trở về tim. Vòng
tuần hoàn lớn được kết thúc ở tâm nhĩ phải. Trong vòng tuần hoàn lớn còn
có tuần hoàn tim được xuất phát từ gốc động mạch chủ, máu theo động
mạch vành tim đi nuôi cơ tim rồi theo tĩnh mạch vành tim về kết thúc ở
tâm nhĩ phải.
* Vòng tuần hoàn nhỏ:
Xuất phát từ tâm nhĩ phải, máu đỏ thẫm theo tĩnh mạch phổi đi tới hai lá
phổi để thực hiện sự trao đổi khí: nhả CO2 nhận O2 trở thành máu đỏ tươi.
Máu này chuyển qua tĩnh mạch phổi trở về tim kết thúc ở tâm nhĩ trái.
Như vậy, vòng tuần hoàn nhỏ có chức năng thực hiện sự trao đổi khí cho
máu còn vòng tuần hoàn lớn thì vận chuyển máu cho các cơ quan.

18
KẾT LUẬN
Qua phần nghiên cứu về chuyên đề: Máu, tim, hệ mạch => tạo thành
vòng tuần hoàn khép kín trong cơ thể, chúng ta thấy đây là một trong
những điều kiện rất quan trọng cho sự sống của cơ thể. Bởi vậy, mỗi
chúng ta, những cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về công tác chuyên môn
cần nắm vững về những kiến thức khoa học này để vận dụng vào trong
cuộc sống, chăm sóc sức khỏe tốt cho cộng đồng và thực hiện có hiệu quả
cao nhất trong công tác giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho học sinh.
Pác Bó, ngày tháng năm
Người viết chuyên đề:
Hoàng thị Thu

19

×