Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tổng hợp câu hỏi và đáp án ôn thi tin học căn bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.51 KB, 38 trang )

Câu 1: Hãy nói về một đặc điểm nổi bật của sự phát triển trong xã hội hiện nay.
- Công nghệ thông tin có mặt ở khắp các lĩnh vực trong đời sống xã hội, như kinh tế,
chính trị, xã hội, giáo dục trở thành xh thông tin.
- Sự ra đời và phát triển của Internet đã trở thành một cuộc cách mạng trong xã
hội thông tin nói riêng và xã hội nói chung.
1.1 CNTT biến đổi cách thức giao tiếp:
Viễn cảnh: Sẽ không còn hàng rào ngôn ngữ vì công việc dịch thuật được thực hiện
ngay lập tức (google)
Thách thức: ở quy mô toàn cầu sẽ đụng chạm đến các mối quan hệ quốc tế khi dòng
thông tin vô hình chảy xuyên biên giới và các công ty đa quốc gia sử dụng mạng toàn
cầu phục vụ lợi ích riêng.
1.2 CNTT biến đổi cách thức sử dụng thông tin:
Viễn cảnh: Ai cũng có thể tiếp cận, yêu cầu hoặc sao chép mọi cuốn sách, tạp chí,
báo, băng video, dữ liệu hoặc tài liệu tham khảo bằng bất kỳ ngôn ngữ nào chỉ bằng
động tác bấm chuột, chỉ tay vào màn hình, nói với máy tính, hoặc chỉ cần đơn giản là
gật đầu đồng ý.
Thách thức: đòi hỏi cải tiến các phương pháp truy cập dữ liệu, giao diện người - máy
cần phù hợp cho cả đối tượng chuyên lẫn đối tượng không chuyên, không phân biệt
văn hóa, giáo dục, điều kiện vật chất.
1.3 CNTT biến đổi cách thức học tập :
Viễn cảnh: Bất cứ cá nhân nào cũng có thể tham dự những chương trình học tập trên
mạng bất chấp vị trí địa lý, tuổi tác, những hạn chế thể chất hoặc thời gian biểu cá
nhân. Mọi người đều có thể tiếp cận những kho tàng tài liệu giáo dục, dễ dàng tìm lại
những bài học đã qua, cập nhật các kỹ năng và lựa chọn cho mình một phương pháp
hiệu quả nhất trong số rất nhiều các phương pháp dạy khác nhau, các chương trình
giáo dục có thể sửa đổi cho phù hợp với từng cá nhân.
Thách thức: tăng cường hạ tầng thông tin, xây dựng các ứng dụng giáo dục một cách
đơn giản, dễ sửa đổi. Chúng ta chưa biết nhiều về cách thức sử dụng tốt nhất công
nghệ truyền thông trong dạy và học. Chúng ta cần hiểu sâu sắc ảnh hưởng của khoa
học công nghệ tới giáo dục đào tạo, và giáo dục cho từng cá thể trong xã hội hiểu thế
mạnh và hạn chế của thành tựu công nghệ mới cũng như cách sử dụng chúng một


cách hiệu quả trong công việc.
1.4 CNTT biến đổi bản chất thương mại:
Viễn cảnh: Khách hàng có thể tiếp xúc với các công ty dễ dàng dù đang ở đâu. Công
ty sẽ nhận được phản hồi từ khách hàng ngay lập tức thì và nhanh chóng điều chỉnh
chiến lược tiếp thị hoặc danh mục hàng hóa trên cơ sở những phản hồi đó.
Thách thức: Viễn thông điện tử thay đổi hẳn phương thức giao dich thương mại giữa
các doanh nghiệp và phương thức phân phối các sản phẩm dựa trên công nghệ số. Các
công ty sử dụng CNTT để tiếp cận gần gũi hơn với khách hàng và các nhà cung cấp.
Các thách thức đặt ra là độ tin cậy của mạng truyền thông, của máy tính và các phần
mềm ứng dụng.
1.5 CNTT biến đổi bản chất công việc:
1
Viễn cảnh: Nơi làm việc không còn bị hạn chế ở một vị trí địa lý, làm việc ngay tại
nhà mình
Thách thức: Tuy nhiên, để một số lượng công nhân lớn có thể làm việc trong môi
trường văn phòng phi truyền thống, cần phải tăng cường các mạng cao tốc bình đẳng
cho mọi công nhân không phụ thuộc vào vị trí và khả năng vật chất. Công nghệ phần
mềm cần phát triển để làm việc nhóm hiệu quả hơn. Phương thức quản lý và điều
hành sẽ là hoàn toàn mới, khác xa hiện nay.
1.6 CNTT biến đổi cách thức chăm sóc y tế:
Viễn cảnh: Những ứng dụng chữa bệnh từ xa sẽ trở nên thông dụng. Các chuyên gia
sẽ sử dụng phương pháp hội ý qua video và cảm nhận từ xa để phỏng vấn, thậm chí
khám bệnh cho người bệnh ở cách xa hàng trăm dặm. Phẫu thuật với sự trợ giúp của
máy tính cùng với hình ảnh truyền qua internet sẽ cho phép những người khác quan
sát được quá trình phẫu thuật. Những hệ thống phục vụ người dùng cung cấp lời
khuyên của các chuyên gia dựa trên cơ sở phân tích chi tiết khối lượng thông tin y tế
khổng lồ. Người bệnh có thể đưa ra quyết định về việc chăm sóc y tế cho chính họ
nhờ có những mô hình mới về giao tiếp với bác sỹ và sự tiếp cận với thông tin từ các
thư viện số về y học và từ mạng Internet.
Thách thức: Khám chữa bệnh từ xa và mạng Internet y tế đòi hỏi tăng cường hạ tầng

viễn thông chia sẻ dữ liệu, cung cấp dịch vụ y tế trực tiếp từ xa. Công nghệ Robot và
các phương pháp trực quan từ xa cần tăng cường để hỗ trợ cho phẫu thuật từ xa.
1.7 CNTT biến đổi cách thức thiết kế và xây dựng:
Viễn cảnh:
Thách thức: Công nghệ tính toán cao tốc cần được sử dụng trong việc thiết kế mô
phỏng, phân tích với sự giám sát, kiểm tra, truy tìm và xử lý dữ liệu. Cần có các quá
trình sản xuất liên kết cả quy trình kinh doanh như lập kế hoạch, đặt hàng, định giá
với các mạng máy tính để kịp thời thay đổi sản phẩm phù hợp với yêu cầu cụ thể của
khách hàng.
1.8 CNTT biến đổi cách nghiên cứu:
Viễn cảnh: Nhờ có Internet, công việc nghiên cứu sẽ được tiến hành trong các phòng
thí nghiệm ảo, trong đó các nhà khoa học và các kỹ sư có thể thực hiện công việc
thường lệ của họ như tiếp xúc với đồng nghiệp, sử dụng các thiết bị, chia sẻ dữ liệu và
tính toán, tiếp cận các thư viện số bất kể đang ở đâu. Tất cả các tạp chí khoa học kỹ
thuật đều có thể tìm thấy trên mạng cho phép nhà nghiên cứu nắm bắt được những đổi
mới để xem xét một cách thấu đáo những công trình nghiên cứu mới nhất.
Thách thức: Các vấn đề nghiên cứu trở nên phức tạp hơn và mang tính liên ngành cao
hơn, nên các nhà nghiên cứu sẽ có nhiều phương thức giao tiếp với đồng nghiệp, đẩy
nhang tiến trình nghiên cứu. Điều này tạo ra lợi thế to lớn cho các quốc gia giàu trí tuệ
và thách thức to lớn cho các quốc gia nghèo chất xám trình độ cao.
1.9 CNTT biến đổi hệ thống chính trị của Chính phủ:
Viễn cảnh: Những dịch vụ và thông tin của chính quyền trở nên dễ tiếp cận đối với
công dân không phân biệt họ đang ở đâu, thông thạo máy tính đến mức độ nào hoặc
khả năng vật chất ra sao. Các hệ thống thông minh sẽ hướng dẫn các công dân để có
thể nhanh chóng định vị thông tin cần thiết. Các loại giấy tờ và đơn từ có thể được
điền, gửi đến nơi cần thiết và thu nhận bằng con đường điện tử. Thủ tục công việc
2
được tự động hóa cho phép các công dân tự nhận được phản hồi gần như tức thì đối
với các yêu cầu của họ.
Thách thức: Sự chuyển đổi này đòi hỏi tăng cường hệ thống và phương pháp truy cập

dữ liệu, trong đó có các hệ thống dữ liệu tính năng cao và các công cụ để định vị và
hiểu thị dữ liệu. Mạng máy tính và phần mềm mạnh, tin cậy cao, bảo mật tốt để phổ
biến và bảo vệ dữ liệu là những nội dung quan trọng cần nghiên cứu.
- Internet đang tạo nên những trào lưu mới trong xã hội
Có thể nói sự ra đời của Internet đã rút ngắn khoảng cách giữa con người với
con người. Bạn có thể ngồi tại nhà nói chuyện, trao đổi, chia sẻ thông tin với một
người khác cách xa bạn nửa vòng trái đất, chỉ với 1 chiếc máy tính nối mạng. Không
chỉ dừng lại ở đó, Internet ngày càng phát triển mạnh, từ kết nối bằng dây cáp rất bất
tiện, nay mạng Wi-Fi đang có mặt ở tất cả mọi nước trên thế giới. Và sắp tới, bạn có
thể sử dụng mạng Internet ở tất cả mọi lúc, mọi nơi.
- Dự đoán những thách thức mới về cuộc cách mạng mới của Internet:
Giá cả và kích thước sẽ giảm đáng kể:
Thông tin theo hướng số hóa: Sự khác biệt giữa máy tính cá nhân, điện thoại di
động, ti-vi, sách, báo sẽ ngày càng thu hẹp.
Tính di động mở rộng: Kinh doanh, làm việc, học tập sẽ ứng dụng tính di động này ở
mức độ sâu rộng.
Các ngành công nghiệp truyền thống bị rung chuyển
Câu 2: Vì sao Tin học được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học?
- do nhu cầu khai thác tài nguyên thông tin của con người.
- Nhu cầu khai thác TT của con người nay càng nhiều và đa dạng. Chính vì vậy tin
học dần hình thành và phát triển trở thành một ngành khoa học độc lập, với nội dung,
mục tiêu và phương pháp nghiên cứu mang tính đặc thù riêng.
Tin học đã được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học.
Máy tính ra đời khoảng vào năm 1642 của thế kỷ 16 Mang lại sự ngỡ ngàng cho
cả thế giới về khả năng của nó. Qua từng thời kỳ phát triển như sau:
Năm 1642: Pascal đã chế tạo ra chiếc máy tính cơ học đầu tiên, thực hiện được
phép cộng và phép trừ bằng cách nhấp phím số.
Năm 1823, Babbage – GS ĐH Cambridge – Anh công bố công trình "máy tính
sai phân", sau đó ông phát triển thành máy tính đa năng, tiền thân của máy tính số
hiện đại ngày nay, máy có thể đọc được lệnh từ bìa đục lỗ và thi hành chúng

Năm 1946: Mỹ cho ra đời chiếc máy tính điện tử cỡ lớn đầu tiên
Thứ 4 ngày 12 tháng 08, 1981, IBM cho công bố chiếc máy tính cá nhân IBM
PC đầu tiên, và công nghệ sản xuất máy tính cá nhân không ngừng phát triển liên tục
cho đến hiện nay.
Tin học là ngành nghiên cứu về việc tự động hóa xử lý thông tin bởi một hệ thống
máy tính cụ thể hoặc trừu tượng. Với cách hiểu hiện nay, tin học bao hàm tất cả các
nghiên cứu và kỹ thuật có liên quan đến việc xử lý thông tin. Trong nghĩa thông dụng,
tin học còn có thể bao hàm cả những gì liên quan đến các thiết bị máy tính hay các
ứng dụng tin học văn phòng.
3
Câu 3: Hãy nêu những ứng dụng của Tin học trong lĩnh vực Giáo dục và đào
tạo?
CNTT đang và sẽ tạo nên những cuộc “cách mạng” trong công tác dạy – học … Thí
nghiệm ảo, hình ảnh trực quan sinh động, giáo án điện tử,…
Song song với việc làm đó là hầu hết các trường, phòng GD-ĐT các quận,
huyện, một số trường tiểu học và một số trường mầm non trọng điểm đã kết nối
Internet, cài đặt phòng máy thực hành.
Ngoài ra các phần mềm quản lí:
Hạ tầng CNTT đã được đầu tư, tạo thuận lợi cho việc triển khai áp dụng hình
thức tổ chức hội nghị, hội thảo, tập huấn, họp qua video, qua web và qua điện thoại
để tiết kiệm thời gian, công sức đi lại và kinh phí. Qua đó, giúp cho công tác quản lý
tốt hơn. Ví dụ như: Hiện nay, việc chuyển dữ liệu thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển sinh
lớp 10 và toàn bộ văn bản, thông báo, giấy mời họp đều qua hệ thống email, đáp ứng
yêu cầu về mặt thời gian và tiết kiệm về chi phí.
Câu 4: Hãy nêu ảnh hưởng của Tin học đối với sự phát triển của xã hội?
Tin học ảnh hưởng đến tất cả các mặt của xã hội.
Ở VN, hầu như vẫn chưa có những kế hoạch đào tạo, định hướng sử dụng máy tính và
Internet một cách cơ bản và rộng rãi cho học sinh, sinh viên. Các môn học không liên
4
quan tới CNTT thì lại càng bó hẹp về nội dung và hình thức giảng dạy, chưa tạo được

lòng ham tìm tòi, khám phá thêm cho các em
Câu 5: Anh chị hiểu thế nào về “xã hội tin học hoá”
Xã hội tin học hóa chính là việc áp dụng tin học vào tất cả các lĩnh vực của xã
hội. Hay nói tổng quát hơn là sự bùng nổ, cuộc cách mạng của CNTT trong xã hội.
Đó là nguyên nhân của sự ra đời của hàng loạt các khái niệm mới trong xã hội
như: Chính phủ điện tử, thương mại điện tử, tin học hóa giáo dục, họp trực tuyến,
truyền hình trực tuyến, khám chữa bệnh trực tuyến, tư vấn trực tuyến,….
Các hoạt động chính của xã hội trong thời đại tin học sẽ được điều hành với sự
hỗ trợ của các mạng máy tính kết nối thông tin lớn, liên kết các vùng của một lãnh thổ
và các giữa các quốc gia với nhau.
Tạo ra một phương thức giao dịch mới hiệu quả, tiết kiệm thời gian.
Làm thay đổi cách suy nghĩ và tác phong làm việc của con người, năng suất lao động
tăng lên rõ rệt, con người sẽ tập trung chủ yếu vào lao động trí óc.
Nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người, vì nhiều thiết bị dùng cho mục
đích sinh hoạt, giải trí đều hoạt động theo chương trình điều khiển.
Văn hoá và pháp luật trong xã hội tin học hoá: Trong xã hội tin học hoá, thông
tin là tài sản chung của mọi người ? con người phải có ý thức bảo vệ thông tin. Xã hội
phải có những quy định, điều luật để bảo vệ thông tin và xử lí nghiêm tội phạm liên
quan đến việc phá hoại thông tin. Giáo dục, đào tạo thế hệ mới có phong cách sống,
làm việc khoa học, có tổ chức và trình độ kiến thức phù hợp với một xã hội tin học
hoá.
Câu 6: Hãy nêu tình hình CNTT ở Việt nam và trên thế giới.
1. Tình hình CNTT ở Việt Nam
CNTT ở Việt Nam đang phát triển nhanh chóng. Địa chỉ đào tạo nhân lực cho ngành
CNTT tăng nhanh trong thời gian gần đây. Chất lượng nâng lên rõ rệt. Theo dự đoán
của các chuyên gia trong ngành CNTT thì trong một tương lai gần VN sẽ là nơi cung
cấp kĩ sư phần mềm lớn trên thế giới.
CNTT đã và đang được áp dụng trong tất cả các mặt của đời sống xã hội. Ví dụ như,
hình thức thương mại điện tử đang thịnh hành, các phần mềm tin học có mặt ở khắp
các cơ quan hành chính nhà nước, các trường hoc, các trung tâm,

Nhu cầu về CNTT của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng mạnh. Kéo theo là sự cạnh tranh,
phát triển của các nhà cung cấp trên thị trường. Và đây còn là động lực lớn để ngành
CNTT ở Việt Nam bắt kịp thế giới.
2. Tình hình CNTT trên thế giới
Sự cạnh tranh, phát triển không ngừng của các hãng tên tuổi. Sản phẩm ứng dụng mới
của ngành CNTT ra đời theo phút.
Không dừng lại ở các sản phẩm hỗ trợ công việc, mà CNTT trên TG còn đang cho ra
những sản phẩm thay thế con người trong các lĩnh vực như y tế, khai thác công
nghiệp.
Giờ đây, CNTT là một ngành không thể thiếu. Bạn có thể tưởng tượng rằng: ”Nếu
một ngày CNTT không còn tồn tại thì TG sẽ trở về với thời kì đồ đá.”
5
 Tình hình CNTT ở VN hay trên TG đều đang phát triển với tốc độ chóng mặt, cùng
với điều đó là ra tăng với tốc độ không kiểm soát nổi của tệ nạn xã hội và các hình
thức tội phạm mới.
Câu 7: Để phát triển ngành CNTT, cần có những chính sách nào?
Giáo dục
• Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất kĩ thuật
• Nâng cao trình độ nhân lực, khuyến khích, bồi dưỡng nhân tài
• Không chỉ đào tạo kĩ năng ngành CNTT mà còn phải chú trọng tới ý thức, văn hóa của
con người.
Chính sách xã hôi
• Trong thời đại CNTT, các nguồn thông tin đa dạng, khó kiểm soát chính vì vậy chính
vì vậy vấn đề sở hữu trí tuệ cần được quản lí chặt chẽ hơn.
Câu 8: Hãy nêu những vấn đề của doanh nghiệp CNTT vừa và nhỏ?
- Nhiều công ty xuất phát từ nguồn vốn lớn và nhiều thế lực nhưng không có một đội
ngũ kỹ thuật tốt, chỉ chăm vào ý tưởng và thị trường. Do hiện tại các ứng dụng giải
pháp vẫn còn ở mức đơn giản, đến khi ứng dụng bắt đầu bùng nổ thì những điểm yếu
mới bắt đầu bộc lộ và sẽ gây ra các vấn đề có thể dẫn tới sự sụp đổ
- Khi so sánh doanh nghiệp lớn nhà nước & doanh nghiệp nước ngoài thì có thể

thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam thua đủ mọi bề. Từ vốn cho đến các kinh
nghiệm quản lý, thương hiệu Đó là chưa kể bất cập ở việc các doanh nghiệp nước
ngoài còn được hưởng nhiều ưu đãi hơn so với các doanh nghiệp Việt Nam luôn bị
nhũng nhiễu, chèn ép. Chính vì vậy mà hầu như không có khả năng cho các công ty
vừa và nhỏ VN có thể thực hiện cuộc chiến trực tiếp với các đại gia này. Thay vì đưa
sản phẩm trở thành số một Việt Nam, hãy hướng đến mục tiêu trở thành một sản phẩm
khác biệt.
- một điều đáng buồn của người Viêt hiện nay là việc liên kết giữa các doanh nghiệp
hay các cá nhân với nhau còn rất hạn chế. Nguyên nhân là do khi liên kết mỗi bên
đều có tư tưởng muốn được lợi hơn bên kia, ngay cả công ty con trong các tổng công
ty cũng hoạt động rất rời rạc mà hầu như không có sự gắn kết. Ngoài ra việc giữ chữ
tín của người Việt còn rất kém. Điều này xuất phát từ chính văn hóa của chúng ta nên
hầu như khó có thể thay đổi được.
- Với vị thế là một nước đang phát triển, có lẽ chính phủ Việt Nam rất mong có thể sử
dụng công nghệ thông tin như một công cụ lợi hại để đẩy nhanh sự phát triển của đất
nước mình. Điều này đã được cụ thể hóa bằng những hành động rất thực tế trong việc
đẩy nhanh việc xây dựng hạ tầng CNTT viễn thông và trực tuyến hóa các dịch vụ
công trong chương trình chính phủ điện tử. Tuy nhiên vấn đề nảy sinh nằm ở việc cơ
chế nhà nước còn khá nhiều bất cập, dẫn tới bộ máy nhân sự không có được con người
tốt nhất, nhiều người vào với ý định để mưu đồ lợi ích cá nhân.
- Với việc muốn đẩy nhanh tốc độ ứng dụng CNTT, trong khi năng lực không đủ.
Chính phủ sẽ từng bước outsource các hợp đồng lớn ra bên ngoài. Có thể dễ đoán
được là những công ty lớn đang thành công hiện nay gần như sẽ tiếp tục là những
6
công ty đảm nhận trong thời gian kế tiếp. Sẽ rất ít cơ hội để các công ty quy mô trung
bình nhỏ và quan hệ tầm thấp có cơ hội chen vào.
- Các công ty gia công cũng sẽ tiếp tục phát triển. Với lợi thế nguồn nhân lực giá
tương đối "phải chăng" so với các nước trong khu vực thì Việt Nam có lẽ vẫn sẽ là
điểm đến gia công của nhiều công ty nước ngoài, đặc biệt khi đã qua thời gian khủng
hoảng kinh tế như hiện nay.(Ấn Độ)

Câu 9: Anh chị hiểu thế nào về “Chính phủ điện tử”. Nó bao gồm những vần đề
nào?
CPĐT là khái niệm về việc các cơ quan chính phủ sử dụng công nghệ thông tin
(CNTT) như : Mạng diện rộng, Internet, các phương tiện di động để quan hệ với công
dân, giới doanh nghiệp và bản thân các cơ quan của chính phủ.
CPĐT bao gồm :
Các dịch vụ chính phủ trực tuyến (quan hệ giữa hệ thống chính quyền với người
dân qua hệ thống CNTT) : Trước đây các cơ quan chính phủ cung cấp dịch vụ cho
dân chúng tại trụ sở của mình, thì nay, nhờ vào CNTT và viễn thông, các trung tâm
dịch vụ trực tuyến được thiết lập, hoặc là ngay trong trụ sở cơ quan chính phủ hoặc
gần với dân. Qua các cổng thông tin cho công dân (Citizen Portal) là các trung tâm
này người dân nhận được thông tin, có thể hỏi đáp pháp luật, được phục vụ ( giải
quyết) các việc trong cuộc sống hàng ngày, như công chứng, đăng ký lập doanh
nghiệp, đăng ký nhân khẩu, sang tên trước bạ v.v mà không phải đến chầu chực tại
trụ sở các cơ quan trên như trước đây.
Tác nghiệp chính phủ (quan hệ trong nội bộ của hệ thống chính quyền): Là việc số
hoá, hay điện tử hoá bản thân các hoạt động trong chính phủ, giữa các cơ quan chính
phủ khác cấp và cùng cấp. ở đây người ta nói đến cơ cấu tổ chức, trình độ quản lý của
bộ máy cũng như nhân viên chính phủ, việc quản lý lưu trữ công văn tài liệu trên nền
công nghệ Web, các biểu báo thống kê điện tử, việc sử dụng mạng máy tính và
Internet để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước và các tác nghiệp của bản thân bộ
máy chính phủ.
Câu 10: Để xây dựng thành công chính phủ điện tử, cần có chiến lược như thế
nào?
Các bước xây dựng mô hình CPĐT phải theo một quy trình. Đầu tiên phải định nghĩa
rõ tầm nhìn về chiến lược, sau đó phải đưa ra thiết kế. Kế tiếp là phải xây dựng hình
mẫu triển khai và sau đó phải tiếp tục củng cố, cập nhật. Bởi tất cả các công nghệ đều
thay đổi theo thời gian nên sau khi chúng ta kiểm tra phải tiếp tục duy trì nó nhưng
bên cạnh đó cũng phải củng cố và có những thay đổi cần thiết trong quá trình áp dụng.
Đó là những bước chúng ta cần chú trọng trong quá trình xây dựng CPĐT.

Hai vấn đề quan trọng đối việc xây dựng CPĐT là Hạ tầng kỹ thuật & Công nghệ
cho CPĐT và Tài chính & đầu tư cho CPĐT
Triển khai xây dựng hệ thống CSDL quốc gia để tạo hạ tầng cho CPĐT, Mạng
truyền số liệu chuyên dùng và Hạ tầng viễn thông - Internet phục vụ CPĐT, Công tác
lập kế hoạch, phân bổ kinh phí và giải ngân cho ứng dụng CNTT dùng vốn Ngân Sách
Nhà Nước, Một số vướng mắc và đề xuất phương án tháo gỡ khó khăn trong việc giải
7
ngân kinh phí ƯDCNTT, Kinh nghiệm quốc tế về vấn đề chuẩn, liên thông (tương
hợp), và khung kiến trúc CPĐT, Áp dụng chuẩn và chuẩn mở trong nhằm đảm bảo
tính liên thông trong xây dựng Chính Phủ Điện Tử, Kinh nghiệm quốc tế về tạo vốn
đầu tư xây dựng chính phủ từ sự tham gia, đóng góp của các DN và XH, Triển khai
ứng dụng chữ ký số và chứng từ điện tử vào cung cấp dịch vụ công trực tuyến, Tiêu
chí chọn lựa công nghệ đảm bảo an toàn thông tin trong CPĐT, Quản lý ngân sách
chính phủ cho CNTT: Tập trung hay phân tán?
Cấu trúc cơ sở dữ liệu quốc gia là một trong những yếu tố được đánh giá là rất
quan trọng để xây dựng thành công CPĐT:
Thứ nhất, trong quá trình triển khai CNTT thường mang tính rộng khắp và sau đó
chúng ta mới thấy cần tiết kiệm chi phí cho nên phải tập trung các máy chủ lại.
Thứ hai là tăng mức độ sẵn sàng của hệ thống lên. Những cái đó sẽ dẫn đến sự đột
phá trong thiết kế. Làm thế nào để trung tâm dữ liệu (data center) có khả năng mềm
dẻo, đáp ứng được sự hiện đại của công nghệ mà lại có thể hạ thấp chi phí về quản trị
và tăng hiệu suất của người quản trị hệ thống. Đó là điều phải tính đến.
Câu 11: Anh chị hiểu tế nào về hình thức đào tạo qua mạng. Nêu những ưu,
nhược điểm của hình thức đào tạo này?
Đào tạo qua mạng nghĩa là việc học tập hay đào tạo được chuẩn bị, phân phối
hoặc quản lý sử dụng nhiều công cụ của công nghệ thông tin, truyền thông khác nhau.
Đây cũng là việc phân phối các hoạt động, quá trình và sự kiện đào tạo và học tập
thông qua các phương tiện điện tử như Internet, Intranet, CD_ROM, video tape,
DVD
Ưu điểm:

1. Khắc phục những khó khăn về địa lý. Người học có thể học ở mọi nơi (có đường
truyền internet) và mọi lúc (ngày cũng như đêm, tất cả các ngày trong tuần).
2. Khắc phục những khó khăn về hoàn cảnh công tác, gia đình, sức khỏe, giúp
những người không thể học theo hình thức tập trung có thể theo đuổi một chương
trình đào tạo dẫn đến một văn bằng đại học.
3. Khắc phục những khó khăn về tâm lý, cho phép người học ở các độ tuổi, địa vị xã
hội, cương vị công tác khác nhau cùng theo đuổi một chương trình đào tạo chung.
4. Khắc phục những giới hạn về mặt giao tiếp trong phương pháp đào tạo từ xa
truyền thống. Người học có thể giao tiếp với giảng viên thông qua các công cụ đào tạo
trên mạng như Presentation (trình bày một vấn đề trước lớp), Chat Room (trao đổi với
bạn học), Mail (trao đổi với thầy giáo) Phần mềm giảng dạy cho phép truyền đạt bài
giảng ở các hình thức văn bản, âm thanh và hình ảnh. Khác với giáo trình điện tử như
CD-Rom, giảng viên luôn ở bên bạn để hướng dẫn và giải đáp các thắc mắc, cho
điểm, và giải thích các bài tập bạn đã nộp, không những chỉ có tác dụng hỗ trợ cho
học viên tự học, học viên đào tạo từ xa mà còn rất bổ ích cho học viên đang học tập
trên lớp theo loại hình đào tạo truyền thống.
5. Học tập trực tuyến còn có tác dụng kích thích ý thức tự học của học viên, hỗ trợ
học viên tiếp cận với nguồn thông tin phong phú hơn rất nhiều so với bài giảng trên
lớp của giáo viên.
Nhược điểm:
8
1. Một yếu tố rất quan trọng trong quá trình dạy và học là các giao tiếp hai chiều giữa
thầy - trò, trò - bạn với các học viên tự học bằng sách vở, băng tiếng, băng hình, phát
thanh, truyền hình học viên thiếu hẳn yếu tố giao tiếp hai chiều đó.
2. Có quá nhiều tài nguyên dẫn đến học viên không tìm được tài nguyên chuẩn và
trọng tâm.
3. Cơ sở hạ tầng cụ thể là đường truyền của VN kém dẫn đến trong các buổi học trực
tuyến thường không đem lại nhiều kiến thức
4. Nếu học viên không có ý thức tự học thì kết quả kiến thức thu được rất ít.
Câu 12: Hãy nêu những ứng dụng CNTT trong sự nghiệp Công Nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi công nghệ thông tin và truyền thông là một trong những
phương tiện khoa học, kỹ thuật quan trọng, đồng thời là ngành kinh tế mũi nhọn để
thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, xây dựng xã hội thông tin, đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Trong lĩnh vực CNTT, công nghiệp phần cứng phát triển ổn định với tốc độ khá.
Công nghiệp phần mềm trên đà phát triển tốt theo xu hướng xuất khẩu phần mềm.
Việt Nam được tổ chức Kearney (Mỹ) đánh giá là một trong 25 quốc gia có sức hấp
dẫn nhất về sản xuất phần mềm. Ứng dụng CNTT đã trở thành yếu tố quan trọng trong
các hoạt động sản xuất kinh doanh, và là yếu tố sống còn đối với các ngành đòi hỏi
hội nhập quốc tế cao như ngân hàng, viễn thông, hàng không…
- Ứng dụng CNTT trong các cơ quan Đảng và Nhà nước có bước thay đổi lớn. Hệ
thống tổ chức chỉ đạo và quản lý Nhà nước đối với CNTT được tăng cường. Trước
năm 2000, số bộ, ngành có trang tin điện tử rất ít. Hiện nay, có 22/26 bộ, 56/64 tỉnh và
thành phố trực thuộc Trung ương đã có website chính thức, góp phần hiện đại hoá nền
hành chính và tạo tiền đề cho việc phát triển Chính phủ điện tử.
- Website Chính phủ, nay là Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, đã ra đời đáp ứng nhu
cầu tất yếu, khách quan của cuộc sống và của sự nghiệp phát triển đất nước trong thời
kỳ mới.
Câu 13: Nêu thực trạng ứng dụng CNTT trong giáo dục phổ thông.
Việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy đã được nhiều trường học trong cả nước phát
triển để nâng cao chất lượng bài giảng. Đến nay, đã có 30% trường Trung học phổ
thông, 25% trường Trung học cơ sở ứng dụng CNTT. Trong đó, từ 2-5% số bài giảng
được sử dụng phần mềm dạy học và có ứng dụng CNTT. Ngoài ra, còn có nhiều phần
mềm hỗ trợ khác đã được sử dụng rộng rãi trong các trường.
Hiện ứng dụng CNTT trong giảng dạy, không chỉ phát triển mạnh ở các thành phố lớn
mà còn phát triển ở nhiều tỉnh miền núi.
9
Theo bà Nguyễn Thị Lợi, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Hòa Bình, việc đưa
CNTT như một phương tiện dạy học vào các cơ sở giáo dục ở các xã vùng sâu, vùng

xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn đã góp phần đẩy nhanh tiến trình công bằng
trong giáo dục. Với sự trợ giúp của CNTT, việc dạy và học đã mang lại hiệu quả thiết
thực, nhất là các môn xã hội cho những vùng ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn thông
tin.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia ngành giáo dục cho rằng, việc ứng dụng CNTT vào quá
trình dạy học vẫn là thách thức với đội ngũ giáo viên. Hiện còn 21% trường phổ thông
trung học và 49% trung học cơ sở chưa được trang bị máy tính.
Tại Hội thảo quốc gia về CNTT-TT với chủ đề "Công nghệ thông tin và sự nghiệp
giáo dục-y tế" vừa diễn ra tại thành phố Huế, phần lớn các chuyên gia CNTT đều cho
rằng, để thúc đẩy phát triển ứng dụng CNTT trong dạy học, thời gian tới, ngoài việc
nghiên cứu hoàn thiện các văn bản chính sách, thể chế, quy định về ứng dụng CNTT
trong dạy học, các nhà quản lý giáo dục cần tổ chức điều tra thực trạng ứng dụng
CNTT trên phạm vi toàn quốc để có một bức tranh tổng thể về ứng dụng CNTT trong
các trường phổ thông.
Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tiếp tục tuyển chọn các phần mềm dạy học
có thể sử dụng được trong chương trình giảng dạy ở phổ thông. Đồng thời, triển khai
việc ứng dụng CNTT ở các trường theo hướng đồng bộ, mở rộng phạm vi từ ứng dụng
CNTT trong trường học, đặc biệt là tăng cường trang bị cơ sở vật chất cho các trường.
Câu 14: Quyền sở hữu trí tuệ là gì? QSHTT bao gồm những vấn đề nào?
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của cá nhân đối với các sản phẩm trí tuệ do cá nhân
sáng tạo. Đó là độc quyền được công nhận cho một người, một nhóm người hoặc một
tổ chức, cho phép họ được sử dụng hay khai thác các khía cạnh thương mại của một
sản phẩm sáng tạo.
QSHTT có những vấn đề sau:
- Quyền tác giả:Đối tượng được bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam là các tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học được sáng tạo, thể hiện dưới một hình thức nhất định và
có tính nguyên gốc, không phân biệt hình thức, ngôn ngữ thể hiện và chất lượng của
tác phẩm.
- Quyền tác giả phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới hình thức nhất
định. Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm không bắt buộc phải đăng ký quyền tác giả tại cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền. Tác phẩm dù có đăng ký hay không đăng ký quyền tác
giả đều được hưởng sự bảo hộ như nhau từ phía Nhà nước. Tuy nhiên, việc đăng ký
quyền tác giả lại cần thiết và rất có ý nghĩa trong việc chứng minh quyền tác giả khi
có tranh chấp xảy ra.
- Sáng chế, giải pháp hữu ích:
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có trình độ
sáng tạo, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Giải pháp hữu ích là có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
10
- Quyền đối với sáng chế/giải pháp hữu ích được bảo hộ trong thời hạn Bằng độc
quyền có hiệu lực. Bằng độc quyền sáng chế, có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 20 năm
tính từ ngày nộp đơn hợp lệ; Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, có hiệu lực từ ngày
cấp đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ.
- Kiểu dáng công nghiệp:Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản
phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu
tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp
hoặc thủ công nghiệp.
- Người muốn được hưởng quyền đối với Kiểu dáng công nghiệp phải làm đơn xin
cấp Bằng độc quyền Kiểu dáng công nghiệp và nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ . Đơn phải
thể hiện đầy đủ bản chất của Kiểu dáng công nghiệp xin bảo hộ theo những hình thức
được quy định chặt chẽ bởi pháp luật về Kiểu dáng công nghiệp. Đơn sẽ được xét
nghiệm theo trình tự và thủ tục luật định. Bằng độc quyền Kiểu dáng công nghiệp
được cấp nếu đơn được trình bày theo đúng quy định, Kiểu dáng công nghiệp trong
đơn thỏa mãn các tiêu chuẩn bảo hộ, và người nộp đơn đã nộp đủ các khoản lệ phí quy
định. Phạm vi, nội dung, thời hạn bảo hộ quyền đối với Kiểu dáng công nghiệp được
xác định theo Bằng độc quyền được cấp.
- Thời hạn bảo hộ quyền đối với Kiểu dáng công nghiệp là thời hạn Bằng độc quyền
Kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực. Bằng độc quyền Kiểu dáng công nghiệp có hiệu
lực từ ngày cấp đến hết 5 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ và có thể được gia hạn liên
tiếp 2 lần, mỗi lần 5 năm. Nhãn – Nhãn hiệu hàng hóa: là dấu hiệu dùng để nhận

biết hàng hóa hoặc dịch vụ của một cơ sở kinh doanh, giúp phân biệt chúng với hàng
hóa hoặc dịch vụ của các cơ sở kinh doanh khác. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là chữ cái
hoặc chữ số, từ, hình ảnh hoặc hình vẽ, hình khối (03 chiều) hoặc sự kết hợp các yếu
tố này. Nhãn hiệu hàng hoá được hiểu bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ.
- Muốn được hưởng quyền đối với nhãn hiệu hàng hoá phải làm đơn xin cấp Giấy
chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá và nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ. Đơn phải tuân
theo những hình thức được quy định chặt chẽ bởi pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá
Đơn sẽ được xét nghiệm theo trình tự và thủ tục luật định. Giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá được cấp nếu đơn được trình bày theo đúng quy định, nhãn hiệu
hàng hoá trong đơn thỏa mãn các tiêu chuẩn bảo hộ, và người nộp đơn đã nộp đủ các
khoản lệ phí quy định. Phạm vi, nội dung, thời hạn bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu
hàng hoá được xác định theo Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá được cấp.
- Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10
năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ và có thể được gia hạn liên tiếp nhiều lần, mỗi lần 10
năm. Thời hạn bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu hàng hoá phát sinh trên cơ sở đăng ký
quốc tế theo Thoả ước madrid được Nhà nước bảo hộ từ ngày đăng ký quốc tế được
công bố trên Công báo nhãn hiệu hàng hoá quốc tế của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
đến hết thời hạn hiệu lực đăng ký quốc tế theo Thoả ước Madrid. Quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn tính từ ngày nhãn hiệu
được công nhận là nổi tiếng ghi trong Quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng.
- Tên gọi xuất xứ hàng hóa: Tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên địa lý của nước, địa
phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện
11
những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý
độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.
- Tên thương mại:Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Để được bảo hộ với danh nghĩa tên thương mại thì tên gọi
đó phải là tập hợp các chữ cái (có thể kèm theo chữ số) phát âm được; và có khả năng
phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với các chủ thể khác trong cùng lĩnh
vực kinh doanh.

Tên thương mại sẽ không được bảo hộ nếu gây nhầm lẫn với tên thương mại của
người khác đã được sử dụng từ trước trên cùng một địa bàn và trong cùng một lĩnh
vực kinh doanh, hoặc gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được
bảo hộ từ trước khi bắt đầu sử dụng tên thương mại đó, hoặc thuộc các đối tượng
không hộ, như tên gọi của các cơ quan hành chính, các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội.
Tên thương mại được tự động bảo hộ (không cần phải đăng ký) khi đáp ứng các yêu
cầu nêu trên. Tên thương mại được bảo hộ chừng nào chủ sở hữu vẫn còn duy trì hoạt
động kinh doanh dưới tên thương mại đó.
Bí mật kinh doanh: Để được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh, thông tin phải
có đủ các điều kiện sau đây:
(i) Không phải là hiểu biết thông thường.
(ii) Có giá trị thương mại đối với người nắm giữ thông tin đó và đem lại cho chủ sở
hữu lợi thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh những người không nắm giữ thông tin
đó.
(iii) Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không
bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
Bí mật kinh doanh được bảo hộ mà không cần phải nộp đơn đăng ký, và được bảo hộ
khi bí mật kinh doanh còn đáp ứng đủ các điều kiện bảo hộ như đã nêu trên.
Câu 15: Tại sao phải có quyền sở hữu trí tuệ?
Vì:
- Quyền sở hữu trí tuệ là quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ, bao gồm: quyền sở hữu
công nghiêp, quyền tác giả và quyền liên quan đến tác giả, quyền đối với cây trồng.
- Tạo động lực cho các nỗ lực sáng tạo trí tuệ khác nhau.
- Dành sự thừa nhận chính thức đối với các nhà sáng tạo .
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nền công nghiệp và văn hóa nội địa
cũng như thương mại quốc tế .
Câu 16: Hãy nêu nội dung cơ bản của QSHTT
• Quyền SHTT gồm các quyền với:
- Các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học

- Chương trình biểu diễn của các nghệ sĩ biểu diễn, các bản ghi âm và chương
trình phát thanh, truyền hình.
- Sáng chế trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người.
- Các phát minh khoa học.
- Kiểu dáng công nghiệp.
12
- Nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn thương mại và tên thương
mại.
- Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Mở rộng quyền đối với giống cây trồng, mạch điện tử, bí mật thương mại,
quyền về CSDL và thông tin bí mật về thể hiện nghệ thuật truyền thống dân gian.
Câu 17: Hãy nêu một vài công ước về quyền sở hữu trí tuệ
• Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật ( gọi tắt là ‘Công ước
Berne’).
- Công ước Berne đặt ra các chuẩn mực tối thiểu đối với việc bảo hộ quyền tác
giả và thời hạn bảo hộ. Vì Công ước Berne yêu cầu các thành viên của công ước phải
đảm bảo rằng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật tại nước mình phù hợp với các
quy định của công ước, do vậy ở một mức độ nào đó Công ước Berne đã tạo ra sự
thống nhất trong việc bảo hộ quyền tác giả ở các quốc gia thành viên của Công ước.
Có thể kể ra đây một số quy định chính của Công ước Berne như sau:
- Các tác phẩm đã được bảo hộ ở một quốc gia thành viên sẽ nhận được sự bảo
hộ tại tại các quốc gia thành viên khác tương ứng với sự bảo hộ mà nước đó dành cho
công dân của mình. (Art.5 (1);
- Sự bảo hộ dành cho tất cả các tác phẩm trong các lĩnh vực văn học, khoa học,
nghệ thuật cho dù nó được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào (Art.2(1);
- Việc hưởng và thực hiện các quyền đối với tác phẩm văn học, khoa học và nghệ
thuật không phải thông qua bất kỳ hình thức đăng ký hoặc một hình thức tương tự và
“không phụ thuộc vào việc quốc gia gốc có bảo hộ đối với các tác phẩm này hay
không’;
- Việc bảo hộ theo công ước này được áp dụng trong suốt cuộc đời tác giả và 50

năm sau khi tác giả chết (Điều.7(1)). Tuy nhiên, Điều 7 cũng cho phép bảo hộ trong
thời hạn ngắn hơn trong những trường hợp cụ thể. Đối với các tác phẩm nhiếp ảnh và
các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, thời hạn bảo hộ tối thiểu là 25 năm kể từ ngày tác
phẩm được tạo ra.
• Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp ( gọi tắt là ‘Công ước Paris’.
Công ước Paris áp dụng đối với các quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế,
nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn
gốc, tên gọi nguồn gốc, chống cạnh tranh không lành mạnh. Các quy định chính của
Công ước Paris gồm:
- Điều 2 yêu cầu mỗi nước thành viên phải dành cho công dân của các nước
thành viên khác sự bảo hộ đã dành cho công dân của nước mình.
- Trên cơ sở nguyên tắc nộp đơn đầu tiên tại một trong các nước thành viên,
trong một thời hạn nhất định (12 tháng đối với sáng chế và giải pháp hữu ích; 6 tháng
đối với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá) người nộp đơn có thể nộp đơn
yêu cầu bảo hộ tại bất kỳ quốc gia thành viên nào khác. Đơn nộp trong trường hợp này
được coi như được nộp cùng với thời điểm nộp đơn lần đầu.
- Trong trường hợp một nhãn hiệu đã được đăng ký tại quốc gia gốc, ngoại trừ
những ngoại lệ nhất định, phải được coi là đã nộp đơn và được bảo hộ tại các quốc gia
thành viên khác như được bảo hộ tại quốc gia gốc (Điều 6).
13
- Các quốc gia thành viên phải từ chối đăng ký và cấm việc sử dụng nhãn hiệu
giả mạo, bắt chước, dịch lại nhãn gốc, hoặc có khả năng gây nhầm lẫn với các nhãn
hiệu được coi là nổi tiếng tại quốc gia đó (Điều.6 bis), hoặc nhãn hiệu có biểu tượng
quốc huy hoặc biểu tượng, tên gọi, chữ viết tắt hoặc biểu tượng của các tổ chức phi
chính phủ được sử dụng trong trao đổi tại Phòng quốc tế của WIPO (Điều. 6 ter).
- Điều 12 của Công ước yêu cầu mỗi quốc gia thành viên phải thành lập và duy
trì cơ quan cung cấp cho công chúng các dịch vụ công liên quan đến sáng chế (giải
pháp hữu ích), kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá (Điều 12).
• Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát
sóng ( gọi tắt là ‘Công ước Rome’).

Công ước Rome quy định các cấp độ bảo hộ đối với người biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi âm và tổ chức phát sóng. Các quốc gia phải dành chế độ “đãi ngộ quốc gia”
cho người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng nếu đáp ứng các
điều kiện nêu tại các điều từ Điều 4 đến Điều 6.
- Công ước định nghĩa “người biểu diễn” gồm diễn viên, ca sỹ, nhạc sỹ, diễn
viên, dancers, và những người khác biểu diễn, hát, trình diễn, đóng vai hoặc thể hiện
các tác phẩm văn học nghệ thuật dưới hình thức khắc’ (Điều 3 (a)).
- Người biểu diễn có các quyền sau: trước hết là quyền được ngăn cản người
khác phát hoặc truyền tới công chúng chương trình biểu diễn trực tiếp của mình; thứ
hai, ngăn cản người khác ghi lại chương trình biểu diễn trực tiếp của mình; và thứ ba
là ngăn cản người khác sao chép bản ghi, nhưng chỉ áp dụng trong trường hợp bản ghi
gốc được ghi trái phép hoặc mục đích sao chép khác với những gì mà người biểu diễn
đã cho phép trước đó (Điều.7).
- Nhà sản xuất bản ghi âm được cấp quyền cho phép hoặc cấm sao chép trực tiếp
hoặc gián tiếp các bản ghi âm của mình (Điều10).
- Các tổ chức phát sóng được quyền cho phép hoặc cấm phát sóng lại các chương
trình phát sóng, ghi lại các chương trình phát sóng và sao chép bất kỳ bản ghi nào khi
chưa được sự đồng ý của tổ chức phát sóng (Điều 13).
• Công ước về bảo hộ các nhà sản xuất bản ghi âm trước các hành vi sao chép trái phép.
Câu 18: Quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực CNTT bao gồm những vấn đề nào?
- Quyền tác giả là độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này.
Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng
còn được gọi là tác phẩm). Ví dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác
nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Quyền này
bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác
phẩm này. Quyền tác giả không cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác
phẩm được ghi giữ lại ít nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả
thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của tác
giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất.
- Quyền sở hữu trí tuệ trên Internet:

Để thiết kế và duy trì hoạt động của một trang web, các doanh nghiệp phải mất rất
nhiều thời gian và kinh phí. Điều quan trọng hơn, trang web và những thông tin trên
14
web chính là sản phẩm trí tuệ, tài sản của doanh nghiệp. Đây cũng là đối tượng được
bảo hộ và công nhận trong Luật Dân sự, Luật Sở hữu Trí tuệ (SHTT) và mang tính
nhất quán áp dụng trên toàn cầu.
- Tuy nhiên, thời gian qua hành vi sử dụng trái phép thông tin, sao chụp kiểu dáng
trang web v.v… đang diễn ra một cách rất phổ biến, bất chấp các quy định pháp luật.
Điều đáng nói là người thực hiện hành vi sử dụng trái phép thông tin ngoài việc vô
tình và không thừa nhận hành động sai trái của mình. Nhiều trường hợp sau khi bị
phát hiện, kẻ vi phạm vẫn tiếp tục "chây lì", không chịu đền bù thiệt hại và chấm dứt
hành vi sai trái. Còn "nạn nhân" là các chủ thể quyền SHTT, chủ trang web thì lúng
túng, không biết làm gì, gặp ai để yêu cầu bảo vệ quyền lợi cho mình.
- Mọi người còn nhớ vào thời điểm cuối năm 2007, Báo điện tử Dân Trí
(www.dantri.com.vn) – một trong những báo điện tử có lượng truy cập rất lớn tại Việt
Nam - đã bị sao chép trên một website khác (www.dantri.vn). Trang web sai phạm
này đã ngang nhiên lấy gần như toàn bộ bài viết của báo Dân Trí, nhái luôn cả cách
thiết kế giao diện và chủ động chào mời quảng cáo.
- Tên miền: là một bộ phận tài nguyên Internet, là tên được sử dụng để định danh các
địa chỉ Internet.
Cần phải đăng ký một tên miền và bảo vệ tên miền này bằng những văn bằng bảo hộ
của nhà nước hoặc cần những lời tư vấn đề tránh được tối đa sự lợi dụng tên miền từ
các tổ chức, cá nhân khác.
- Hiệp hội quyền sao chép Việt Nam
Hiệp hội quyền sao chép chính là để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ
sở hữu quyền và hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng tiếp cận hợp pháp
với tác phẩm.
Mục đích trực tiếp và cụ thể của Hiệp hội này là đại diện cho người nắm giữ quyền để
khai thác giá trị kinh tế của các tác phẩm mà họ ủy quyền, thông qua việc cho phép sử
dụng tác phẩm dưới hình thức sao chụp và một số hình thức sử dụng số, bao gồm sao

chép số và sử dụng trên Internet.
Câu 19: Thương mại điện tử là gì? Vì sao phải bảo vệ nhãn hiệu thương mại trên
Internet?
19.1 Thương mại điện tử là gì?
E-commerce (Electronic commerce - thương mại điện tử) là hình thái hoạt động
thương mại bằng phương pháp điện tử; là việc trao đổi thông tin thương mại thông
qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung là không cần phải in ra giấy
trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch. (nên còn được gọi là “thương mại
không giấy tờ”)
- Có nhiều khái niệm về thương mại điện tử, nhưng hiểu một cách tổng quát, thương
mại điện tử là việc tiến hành một phần hay toàn bộ hoạt động thương mại bằng những
phương tiện điện tử. TMĐT vẫn mang bản chất như các hoạt động thương mại truyền
thống. Tuy nhiên, thông qua các phương tiện điện tử mới, các hoạt động thương mại
được thực hiện nhanh hơn, hiệu quả hơn, giúp tiết kiệm chi phí và mở rộng không
gian kinh doanh.
15
- TMĐT ngày càng được biết đến như một phương thức kinh doanh hiệu quả từ khi
Internet hình thành và phát triển. Chính vì vậy, nhiều người hiểu TMĐT theo nghĩa cụ
thể hơn là giao dịch thương mại, mua sắm qua Internet và mạng(VD mạng Intranet
của doanh nghiệp)
Lợi ích của thương mại điện tử (TMĐT):
• TMĐT giúp cho các Doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về thị
trường và đối tác
• TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất
• TMĐT giúp giảm chi phí bán hàng và tiếp thị.
• TMĐT qua INTERNET giúp người tiêu dùng và các doanh nghiệp giảm đáng
kể thời gian và chí phí giao dịch.
• TMĐT tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành
phần tham gia vào quá trình thương mại.
• Tạo điều kiện sớm tiếp cận nền kinh tế số hoá.

19.2. Vì sao phải bảo vệ nhãn hiệu thương mại trên Internet
- Giá trị sản phẩm ngày càng cao ở khía cạnh “hàm lượng trí tuệ” chứa trong nó, mà
không phải là bản thân nó. Tài sản cơ bản của từng đất nước, từng tổ chức và từng con
người đã đang chuyển thành “tài sản trí tuệ” là chủ yếu. Thông tin trở thành tài sản và
bảo vệ tài sản sẽ có nghĩa là bảo vệ thông tin. Vì lẽ đó, nổi lên vấn đề bảo vệ sở hữu
trí tuệ và bản quyền của các thông tin trên Web (các hình thức quảng cáo, các nhãn
hiệu thương mại, các cơ sở dữ liệu, các dung liệu truyền gửi qua mạng…)
- Thương mại điện tử ra đời đã khiến cho vấn đề bảo vệ nhãn hiệu thương mại trên
Internet trở nên quan trọng. Bảo vệ nhãn hiệu cũng chính là bảo vệ uy tín của chính
sản phẩm thương mại đó. Thương hiệu Pepsi có giá trị gấp 60 lần tổng giá trị tài sản
của pepsi trên toàn thế giới, Cocacola cũng vậy, điều đó cho thấy giá trị thương mại
của thương hiệu trên Internet lớn đến như thế nào. Thế giới đã quan tâm đến vấn đề
bảo vệ thương hiệu trên Internet rất sớm, tuy nhiên ở VN vấn đề này chỉ mới được chú
ý trong thời gian gần đây. Trước khi xảy ra tranh chấp của thương hiệu café Trung
Nguyên, các nhà sản xuất ở VN vẫn còn rất thờ ơ với tên miền và thương hiệu trên
Internet. Trong khi người tiêu dùng lại không phân biệt được đâu là thật, đâu là giả,
việc mất tên mền hay thương hiệu mạng có thể khiến doanh nghiệp mất uy tín rất
nhiều.
Câu 20: hãy nêu những ưu nhược điểm của việc mua bán trên mạng và mua bán
thông thường?
- Trong thời đại thương mại điện tử phát triển như vũ bão, việc mua bán trên mạng trở
nên phổ biến nhờ vào sự tiện lợi mà Internet mang lại. Nhờ có Internet và mua bán
trực tuyến, người mua tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức. Thay vì đi chợ
hay siêu thị, hoặc tìm kiếm khắp các cửa hàng, giờ đây khi cần mua một món hàng
nào đó, bạn chỉ cần ngồi trước máy tính, tìm kiếm sản phẩm mình cần mua, thanh toán
trực tuyến và đợi hàng hóa được gửi đến nhà, nhanh chóng và tiện lợi hơn rất nhiều.
16
Nhưng mua bán qua mạng cũng bộc lộ rất nhiều nhược điểm, chính vì vậy mà thói
quen mua sắm cũ vẫn không thể bị thay thế.
- Khi kể đến ưu điểm đầu tiên của mua bán qua mạng - đó chính là sự phong phú -

thì chúng ta cũng phải nhìn nhận một điều bất cập, đó chính là sự phong phú quá mức
đến nỗi thông tin trở nên rối loạn, khiến cho chính người mua mất phương hướng. Sau
một thao tác tìm kiếm, bạn có thể nhận được hàng chục trang web bán sản phẩm cần
mua với nhiều giá khác nhau, các ưu đãi khác nhau, nhiều khi chênh lệch là rất lớn, và
bạn lại phải mất công tìm hiểu và kiểm chứng lại thông tin nhiều lần trước khi mua
một món đồ. Một ví dụ điển hình là vatgia.com của VN đã trở thành “loạn giá” bởi
những thông tin được đăng tải không chính xác về giá cả và mẫu mã của sản phẩm
khiến người mua lầm tưởng. Hàng mới và hàng cũ đều cùng 1 h.a minh họa nhưng có
độ chênh lệch giá làm người mua lầm tưởng.
- Ưu điểm thứ 2 chính là sự tiện lợi của việc mua bán qua mạng. Bạn không phải mất
thời gian đi lại, tìm kiếm, hỏi giá cả tại các cửa hàng hay siêu thị nữa. Internet cho
phép chúng ta tìm kiếm và so sánh ngay trên màn hình máy tính, các mẫu mã, giá cả,
đánh giá của người đã mua… Tuy nhiên điều này lại dẫn đến một nhược điểm nữa, đó
là thông tin trên mạng nhiều khi không xác thực, và rất khó có thể nói đã được kiểm
chứng hay chưa. Khi mua hàng qua mạng, người mua thường phải đặt hàng (order),
sau đó chuyển tiền vào tài khoản người bán, và đợi nhận hàng. Nhưng nhiều trường
hợp lừa đảo, tranh chấp đã xảy ra đã khiến cho người tiêu dùng thận trọng trong việc
mua bán qua mạng. Có khi đã mất tiền, nhưng đợi mãi không thấy hàng mình mua,
hoặc mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng mà không thể đổi, việc bảo hành lại
phức tạp và khó khăn, quyền lợi của người tiêu dùng không đảm bảo. Trong khi đó,
cách mua bán thông thường đảm bảo người mua được tận mắt nhìn thấy sản phẩm,
thử nghiệm, kiểm tra trước khi mua và tránh được rủi ro bị lừa đảo mất tiền oan hơn
rất nhiều.
Chúng ta không thể phủ nhận những ưu điểm của việc mua bán qua mạng, nhưng
trong hoàn cảnh phát triển bùng nổ của thương mại điện tử như hiện này, cũng như
việc kiểm soát thông tin còn thiếu chặt chẽ, thì việc mua bán qua mạng vẫn chưa tạo
được niềm tin cho người tiêu dùng. Và cũng bởi cách mua bán thông thường an toàn
hơn, nên nhiều người chọn giải pháp tìm kiếm sản phẩm và nơi cung cấp qua mạng,
sau đó mua theo cách thông thường.
Câu 21: Hãy nêu tình hình bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Gỉai pháp

khắc phục?
• Tình hình bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam:
- Hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta được bắt đầu triển khai từ
những năm 80, nhưng chỉ từ khi Quốc hội ban hành bộ Luật Dân sự (năm 1995) thì
hoạt động này mới bắt đầu tiến triển. Đặc biệt, từ khi Quốc hội ban hành Luật Sở hữu
trí tuệ (năm 2005) và Việt Nam là thành viên chính thức của WTO thì hoạt động này
trở nên sôi động với tất cả các dạng tài sản trí tuệ được bảo hộ, bao gồm: bản quyền
tác giả và các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, giống cây trồng
mới… Từ năm 2005 đến nay, việc đăng ký và cấp chứng nhận bảo hộ tăng bình quân
hàng năm 20%.
17
- Về quyền tác giả, nhiều cuốn sách hay của nước ngoài đã được mua bản quyền
tác giả để dịch và xuất bản ở trong nước.
- Về quyền sở hữu công nghiệp, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tăng 25% – 30%,
đăng ký bảo vệ các sáng chế cũng tăng 10% – 15%, nhưng phần lớn (chiếm trên 65%)
là của nước ngoài đăng ký ở Việt Nam. Thời gian được cấp chứng nhận quyền sở hữu
trí tuệ sau khi hoàn tất thủ tục chỉ trong hai tháng (nếu không xảy ra tranh chấp), đây
là những kết qủa khá ấn tượng. Trong những nhận định đánh giá, nhất là đánh giá của
một số đối tác quan trọng trong kinh tế (đầu tư, thương mại) trong quá trình đàm phán
gia nhập WTO của Việt Nam là EU, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Mỹ và Ô-xtrây-li-a đều có
chung nhận định rằng Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng các văn bản
pháp luật về sở hữu trí tuệ nhưng vấn đề thực thi là một điểm yếu cần phải khắc phục.
Thực tế, tình trạng vi phạm luật sở hữu trí tuệ và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đang
biểu hiện ở các mặt sau.
Có tính phức tạp và có dấu hiệu phổ biến.
- Về quyền tác giả thì tình trạng xuất bản, điện ảnh, nhiếp ảnh, nghệ thuật tạo hình
bị sao chép nhiều (như tranh ký tên Bùi Xuân Phái hay Nguyễn Tư Nghiêm trên thị
trường nhiều gấp ba, bốn lần số tranh đích thực do hai họa sĩ này vẽ). Nghệ thuật biểu
diễn, công nghiệp ghi âm, ghi hình, sao chép lậu sách báo, phim ảnh, các chương trình
biểu diễn ca nhạc, chương trình truyền hình cũng ở tình trạng tương tự (như các phim

do Trung tâm truyền hình Việt Nam, Chương trình “Gặp nhau cuối tuần” bị in bán
tràn lan trên thị trường, nguy hiểm hơn đã có nhiều phim và chương trình truyền hình
của VTV bị đánh cắp, biên tập lại và phát hành băng đĩa lậu tại Việt Nam, Mỹ, Ô-
xtrây-li-a, châu Âu…). Sự xâm phạm quyền tác giả của các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, thậm chí cả khoa học và nổi bật nhất là những phần mềm máy tính vẫn diễn
biến phức tạp (đặc biệt có vụ in lậu số lượng lớn sách giáo khoa mới phát hiện vào
tháng 8-2007).
- Đối với sở hữu công nghiệp, vi phạm xảy ra phổ biến nhất là với các nhãn hiệu hàng
hóa và kiểu dáng công nghiệp. Tuy vậy, các dạng tài sản khác cũng đã có xâm phạm
như: Tên thương hiệu (điển hình là vụ khiếu kiện đặt tên “Vang đỏ Đà Lạt” gây nhầm
lẫn cho người tiêu dùng với sản phẩm có tiếng “Vang Đà Lạt” đã xin bảo hộ nhãn hiệu
hàng hóa). Gần đây xuất hiện các vụ việc xâm phạm sáng chế và giống cây trồng.
Xâm phạm sở hữu trí tuệ còn xảy ra cả ở khu vực sản xuất, chế biến, lưu thông và
xuất nhập khẩu (do thiếu hiểu biết về luật lệ quốc tế mà không ít trường hợp nhà sáng
chế Việt Nam bỏ lỡ quyền của mình như máy quay băng Vũ Hùng, võng xếp Vĩnh
Lợi). Trong đó phổ biến nhất là ở khâu nhập khẩu, hàng nhái, hàng sao chép phi pháp.
- Mức độ nghiêm trọng của tình trạng xâm phạm sở hữu trí tuệ đang gia tăng.Theo
thống kê sơ bộ, số vụ vi phạm về sở hữu trí tuệ vào đầu những năm 90 thế kỷ xx chỉ
có vài chục vụ, thì đến nay đã tăng đáng kể. Như, năm 1994 chỉ có 48 vụ (trong đó,
1vụ xâm phạm sáng chế, 6 vụ xâm phạm kiểu dáng công nghiệp và 41 vụ xâm phạm
nhãn hiệu hàng hóa), năm 2003 là 326 vụ (với số tương ứng là 23, 43 và 260), đến
năm 2006 đã tăng lên gần 500 vụ (tương ứng 60, 152 và 288). Số liệu đó cho thấy việc
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp không những gia tăng về số lượng, mà bắt đầu
xảy ra ngày càng nhiều với các sáng chế và giải pháp hữu ích.
Về chất lượng hoặc hình thức, cách đây một thập niên sự xâm phạm dễ phát hiện và
18
phân biệt với hàng chính hiệu, còn hiện nay lâm vào tình trạng thật giả lẫn lộn, rất khó
phân biệt, nhận biết. Việc nhái các nhãn hiệu, kiểu dáng bao bì… không chỉ xảy ra với
các sản phẩm tiêu dùng thông thường mà đã và đang xảy ra với những sản phẩm có
công dụng và chức năng đặc biệt như thuốc chữa bệnh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực

vật, giống cây trồng, sắt thép xây dựng, xi-măng…
- Về quyền tác giả, việc sao chép tác phẩm không chỉ xảy ra với các sản phẩm giải trí
như băng đĩa ca nhạc, phim ảnh và không chỉ thực hiện bởi những người buôn bán
thuần túy, mà còn xảy ra cả với các sản phẩm nghiên cứu, sáng tác, phần mềm… Việc
mạo nhận tác giả, sao chép từng phần hoặc toàn bộ tác phẩm, xào xáo lại tác phẩm
xuất hiện ở một số lĩnh vực. Cùng với đà phát triển công nghệ, phương tiện và công
nghệ sao chép, bắt chước ngày càng được cải tiến và có mặt ở Việt Nam ngày một
nhiều, nên sản phẩm vi phạm được sản xuất với số lượng lớn và tốc độ tăng nhanh.
Thực tế, nhiều người buôn bán, nhiều cửa hàng băng đĩa ở các thành phố lớn đều bán
băng đĩa sao chép lậu, thậm chí tỷ lệ còn lớn hơn băng đĩa có bản quyền.
• Gỉai pháp khắc phục:
- Tiếp tục hoàn thiện các quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ, nhất là các quy phạm
thực thi. Đặc biệt, trình tự dân sự phải được áp dụng triệt để và phổ biến nhằm điều
chỉnh các quan hệ liên quan đến loại tài sản vô hình này, mà việc đầu tiên là chấn
chỉnh lại toàn bộ các quy phạm về chế tài bảo đảm thực thi theo hướng lấy trật tự dân
sự làm biện pháp chủ yếu, còn chế tài hành chính chỉ được áp dụng như một biện pháp
bổ sung cho chế tài dân sự khi mà sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vượt quá mức
dân sự.
- Sắp xếp lại và tăng cường năng lực của các cơ quan thực thi, từ tòa án đến các cơ
quan bảo đảm thực thi nội địa: Thanh tra (nhà nước và chuyên ngành), ủy ban nhân
dân các cấp, cơ quan quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế phải được tạo điều kiện áp
dụng các biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả, khắc phục sự chồng chéo, phân công rõ
ràng chức năng quyền hạn của từng cơ quan theo hướng một cơ quan đầu mối, đó là
thanh tra chuyên ngành, còn tòa án giải quyết các vụ kiện dân sự, ủy ban nhân dân,
thanh tra, quản lý thị trường quyết định xử phạt (tùy theo hình thức và mức phạt),
cảnh sát kinh tế chỉ có chức năng điều tra, hải quan kiểm soát ở biên giới về sở hữu trí
tuệ.
- Tăng cường các hoạt động dịch vụ thông tin về sở hữu trí tuệ, đồng thời củng cố và
nâng cao vai trò của các hội về sở hữu trí tuệ trong việc nâng cao nhận thức của xã hội
về sở hữu trí tuệ. Cần mở rộng đội ngũ những người tham gia hoạt động này, (đến

năm 2010 có ít nhất 1.000 người), bằng cách nhanh chóng tổ chức các hình thức bồi
dưỡng kiến thức về sở hữu trí tuệ cho đội ngũ luật sư và những người khác. Tiếp tục
cải cách hệ thống thông tin sở hữu trí tuệ với mục tiêu nâng cao năng lực tài nguyên
thông tin và năng lực vận hành của cả hệ thống. Mở rộng diện những người dùng tin,
tạo sự gần gũi, hấp dẫn đối với toàn xã hội. Thành lập các trung tâm bảo vệ bản quyền
cho các loại hình nghệ thuật.
- Các hội sở hữu trí tuệ cần phối kết hợp với các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ
quan thông tin đại chúng để tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật và thông tin,
hướng dẫn nhận thức bằng những vụ việc cụ thể trong hoạt động thực thi quyền sở
hữu trí tuệ. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, động viên các đối
19
tượng trong xã hội, nhất là thu hút các doanh nghiệp – chủ thể quyền sở hữu công
nghiệp tham gia tích cực hơn vào bảo vệ sở hữu trí tuệ.
- Xây dựng mối quan hệ có tính chất cân bằng cùng có lợi giữa chủ sở hữu và người
tiêu dùng. Tích cực tìm kiếm các giải pháp thay thế cho các loại sản phẩm/hàng hóa
có nhu cầu sử dụng lớn hoặc liên quan đến nhiều người, Cần khuyến khích mở các
cuộc thương lượng giữa những người có nhu cầu khai thác với các chủ sở hữu nhằm
giảm giá hàng hóa, tăng lượng hàng cung cấp cho xã hội. Đối với những sản
phẩm/hàng hoá có nhu cầu sử dụng lớn hoặc có liên quan đến lợi ích công cộng (như
thuốc chữa bệnh) ngoài các biện pháp trên cần lưu ý đến công cụ giấy phép, cũng như
Nhà nước cần tập trung đầu tư và nhập khẩu nguồn sản phẩm giá rẻ để đáp ứng nhu
cầu người tiêu dùng thay thế các sản phẩm giá quá cao do bị khống chế bởi chủ sở
hữu.
Câu 22: Anh chị hiểu thế nào về quyền tự do? Các quyền tự do dân chủ và những
đảm bảo pháp lí cho việc thực hiện quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực tự
do cá nhân?
Quyền tự do
- Tự do là trong bất cứ điều kiện nào, các hoạt động không chịu bất cứ sự ràng buộc
hay lệ thuộc nào của bất cứ cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào.
- Tự do cá nhân là quyền của mỗi cá nhân, trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, theo

ý chí của chính cá nhân đó, trong khuôn khổ mà pháp luật quy định.
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định về QTDCN
trong chương V “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”: quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, quyền được bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm,
quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín.
Quyền tự do của mỗi cá nhân bao gồm rất nhiều quyền tự do về các lĩnh vực đời sống
văn hóa xã hội như: quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền tự do tư
tưởng, quyền tự do thông tin,…
Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến quyền tự do về thông tin cá nhân,đó là quyền được tự
do chia sẻ các thông tin cá nhân, được tìm kiếm,khai thác các thông tin trên internet…
Các quyền tự do cá nhân trong CNTT.
- Quyền tự do ngôn luận:
Trong xã hội dân chủ, mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận, tự do bày tỏ ý kiến
của mình. Tuy nhiên nội dung thông tin trao đổi và phương cách trao đổi thông tin thì
phải nằm trong những quy định của pháp luật của nước sở tại.
Trong thời đại công nghệ thông tin, với sự phát triển của mạng internet toàn cầu và
các phương tiện truyền thông thì quyền tự do ngôn luận của con ngừoi đã được cải
thiện đáng kể. Việc bày tỏ các ý kiến của cá nhân và tìm hiểu thông tin trở nên dễ
dàng hơn thông qua mạng internet cũng như các phương tiện truyền thông khác.
- Quyền tự do học tập, nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng công nghệ thông tin trong
cuộc sống:
20
Ngày nay trong xu thế phát triển chung của thời đại, việc học tập, nghiên cứu ứng
dụng CNTT là một nhu cầu tất yếu của mỗi quốc gia, tổ chức, cá nhân. Trong quy
định của luật nhân quyền toàn cầu nói chung và của Việt Nam nói riêng đều quy định.
Mọi cá nhân đều có quyền được học tập, nghiên cứu và phát triển toàn diện. Điều đó
cũng có nghĩa là mọi ngừoi đều có quyền học tập CNTT và các ứng dụng của nó để
phục vụ cho cuộc sống của mình. Bên cạnh đó mọi công dân đều có quyền tự do sáng
tạo, và được khuyến khích sáng tạo CNTT. Chính nhờ quyền tự do học tập, nghiên
cứu, sáng tạo và ứng dụng công nghệ thông tin mà công nghệ thông tin đã và đang trở

thành sức mạnh của toàn cầu trong xu thế phát triển chung.
- Những đảm bảo pháp lí cho việc thực hiện quyền cơ bản của công dân trong
lĩnh vực tự do cá nhân
Tập quán xã hội và hoạt động thương mại ở Việt Nam từ trước đến nay chưa chú ý
đến vấn đề thông tin cá nhân, do vậy vấn đề này trước năm 2005 chưa hề được đề cập
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong khi nhiều nước đã có đạo luật riêng về bảo
vệ thông tin cá nhân thì tại Việt Nam, khái niệm này còn xa lạ ngay cả với nhiều nhà
lập pháp.
Cùng với tiến trình hội nhập, các cơ quan quản lý nhà nước cũng bắt đầu ý thức được
tầm quan trọng của việc tạo lập khung pháp lý điều chỉnh vấn đề này. Vấn đề thông
tin cá nhân đã được đưa ra thảo luận trong quá trình xây dựng Luật Giao dịch điện tử
và Nghị định về thương mại điện tử. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có một văn bản quy
phạm pháp luật riêng về thông tin cá nhân
• Luật Giao dịch điện tử ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005 đã dành riêng
một điều quy định về thông tin cá nhân.
Điều 46: Bảo mật thông tin trong giao dịch điện tử:Cơ quan, tổ chức, cá nhân không
được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch
điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác
• Luật dân sự:
Điều 38. Quyền bí mật đời tư
1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó
đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ
mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại
diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo
quyết định của cơ quan , tổ chức có thẩm quyền.
3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được
bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá

nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
• Luật Công nghệ thông tin ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2006 đã có những
quy định rõ ràng hơn về việc bảo vệ thông tin cá nhân trong môi trường điện tử.
Điều 2: Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân trên môi trường mạng
21
1. Tổ chức, cá nhân thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác trên
môi trường mạng phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
2. Tổ chức, cá nhân thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác có
trách nhiệm sau đây: a) Thông báo cho người đó biết về hình thức, phạm vi, địa điểm
và mục đích của việc thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người đó; b) Sử
dụng đúng mục đích thông tin cá nhân thu thập được và chỉ lưu trữ những thông tin
đó trong một khoảng thời gian nhất định theo quy định của pháp luật hoặc theo thoả
thuận giữa hai bên; c) Tiến hành các biện pháp quản lý, kỹ thuật cần thiết để bảo
đảm thông tin cá nhân không bị mất, đánh cắp, tiết lộ, thay đổi hoặc phá huỷ; d) Tiến
hành ngay các biện pháp cần thiết khi nhận được yêu cầu kiểm tra lại, đính chính
hoặc hủy bỏ theo quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật này; không được cung cấp
hoặc sử dụng thông tin cá nhân liên quan cho đến khi thông tin đó được đính chính
lại.
3. Tổ chức, cá nhân có quyền thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người
khác mà không cần sự đồng ý của người đó trong trường hợp thông tin cá nhân đó
được sử dụng cho mục đích sau đây: a) Ký kết, sửa đổi hoặc thực hiện hợp đồng sử
dụng thông tin, sản phẩm, dịch vụ trên môi trường mạng; b) Tính giá, cước sử dụng
thông tin, sản phẩm, dịch vụ trên môi trường mạng; c) Thực hiện nghĩa vụ khác theo
quy định của pháp luật.
Điều 22: Lưu trữ, cung cấp thông tin cá nhân trên môi trường mạng
1. Cá nhân có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân lưu trữ thông tin cá nhân của mình trên
môi trường mạng thực hiện việc kiểm tra, đính chính hoặc hủy bỏ thông tin đó.
2. Tổ chức, cá nhân không được cung cấp thông tin cá nhân của người khác cho bên

thứ ba, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc có sự đồng ý của người đó.
3. Cá nhân có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm trong việc cung
cấp thông tin cá nhân.
Thực tế xây dựng pháp luật ở Việt Nam cho thấy các quy định nêu ra tại luật cần có
chế tài tương ứng để xử lý vi phạm. Trong khi các vi phạm nặng, cần truy tố phải
được quy định trong Luật Hình sự thì các vi phạm nhẹ, có thể xử lý hành chính lại
được quy định ở cấp nghị định. Do vậy mỗi luật ra đời thường kèm theo ít nhất một
nghị định quy định về mức độ xử lý hành chính đối các hành vi vi phạm quy định của
luật đó.
Câu 23: Anh chị hiểu như thế nào về ảnh hưởng của Internet tới cuộc sống và
quyền tự do cá nhân trên Internet?
1. Ảnh hưởng của Internet tới cuộc sống
Trong thời đại này, không một khía cạnh nào của đời sống không có sự tác
động của CNTT. Từ chiếc bút bạn viết, chiếc áo bạn mặc cho đến những con tàu vũ
trụ bay trên trời. CNTT đã tạo ra nhiều giá trị mới của đời sống. Những giá trị của
CNTT tác động tới đời sống là vô cùng to lớn và không thể kể hết trong một sớm một
chiều được. Một trong những tác động lớn nhất của CNTT tới cuộc sống của chúng ta,
đó chính là Internet.
22
Có thể nói, Internet đã trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống hiện đại. Mọi nơi,
mọi lúc, mọi người có thể sử dụng Internet. Cụm từ “vào mạng” đã trở nên quen thuộc
và trở thành thói quen của nhiều người khi mở máy vi tính. Internet đã và đang ảnh
hưởng rất lớn tới mọi mặt của cuộc sống.
- Về kinh tế: sự ra đời của thương mại điện tử đánh dấu một thời đại kinh tế mới,
tác động đến nhiều khía cạnh của kinh doanh hiện đại: Ngân hàng, marketing, sản
xuất, chiến lược kinh doanh, định vị và phân khúc thị trường, Thương mại điện tử có
những tác động hết sức mạnh mẽ do đặc thù của Internet là toàn cầu rất phù hợp với
các giao dịch thương mại quốc tế. Bên cạnh hình thức mua bán truyền thống, xuất
hiện những hình thức mua sắm mới. Sự ra đời của vatgia, chodientu, 5giay… đã thay
đổi thói quen mua sắm của người tiêu dùng. Thay vì ra chợ, bạn chỉ cần tạo một tài

khoản trên trang web và lụa chọn hàng hóa trực tuyến, so sánh giá cả, trao đổi, mặc
cả… tất cả diễn ra trong khoảng không gian màn hình máy tính của bạn.
- Về giáo dục: sự ra đời của những trang web dạy học trực tuyến, e – learning,
diễn đàn, ebook… đã tạo nên một môi trường giáo dục phong phú với nguồn kiến
thức rộng lớn. Người học được cung cấp những công cụ mới trực quan và sinh động
hơn rất nhiều. Internet cũng làm thay đối phương pháp học tập của con người, việc
học không chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà trường, trong phạm vi sách vở nữa. Mọi
người hình thành thói quen tìm kiếm thông tin qua các công cụ search, đọc ebook, trao
đổi qua các diễn đàn, và xây dựng thư viện online…
- Về văn hóa xã hội: một thời gian dài,Việt Nam chứng kiến sự bùng nổ của
mạng xã hội, điển hình là Blog và Facebook. Blog ra đời đẫ gây ra nhiều tranh cãi về
văn hóa internet cũng như quyền tự do cá nhân trên mạng. Sức lan tỏa thông tin qua
mạng xã hội là cực nhanh, do đặc điểm kết nối cộng đồng thành một mạng, một bài
viết có thể nhanh chóng được phát tán qua các link nhóm hay email. Blog mở ra một
kênh thông tin mới, thông tin của công dân, mà có người gọi đó là “nền báo chí công
dân”. Có thể còn tranh cãi về cách gọi này nhưng blog quả là nơi công dân bày tỏ
quan điểm, suy nghĩ trung thực của mình. Với tính năng liên kết cực nhanh của nó,
blog cùng với các forum, mailing list… đang trở thành những nguồn thông tin mở
đáng quan tâm. Có điều blog cũng đang bị biến dạng theo cái tôi cực đoan của mình.
Những trang blog lệch lạc giới tính, đưa những entry sex, tình dục lên trang nhật ký
của mình. Những hình ảnh khiêu dâm cũng đã xuất hiện, những quan niệm cực đoan
đã có… Tất nhiên đó là quyền của cá nhân. Nhưng chỉ là một số cá nhân thiếu văn
hóa, làm xấu đi hình ảnh blogger. Nhờ có internet, thông tin được cập nhật nhanh
chóng, không còn giới hạn các quốc gia, tin tức lan đi với tốc độ tên lửa, âm nhạc trở
nên không giới hạn. Điều này có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, nhưng xét chung, không
thể phủ nhận lợi ích mà internet mang lại cho cuộc sống.
- Internet trở nên phổ biến, đồng thời với việc nó gắn liền với các hoạt động trong
cuộc sống, giao dịch và thông tin qua mạng dần thay thế các hình thức truyền thống
(thư tín và fax). email trở thành công cụ trao đổi hàng đầu, yahoo messenger được cài
đặt trên mọi máy tính văn phòng, đầu phát wifi đặt khắp các tòa nhà cao tầng, các nhà

hàng, quán café… Điều đó cho thấy nhu cầu sử dụng internet của con người đã trở
thành tất yếu.
23
Câu 24: Quy định chung về ứng dụng CNTT.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc ứng dụng công nghệ thông tin
(CNTT) trong các cơ quan nhà nước nhằm đổi mới phương thức quản lý, quy trình
điều hành, nâng cao hiệu quả hoạt động, phục vụ nhân dân tốt hơn, Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã triển khai nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy ứng dụng CNTT
trong các cơ quan nhà nước, hướng tới phát triển chính phủ điện tử.
Nguyên tắc chung về hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin
1. Tổ chức, cá nhân có quyền tiến hành các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin
theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế - xã
hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh; hoạt động phòng, chống lụt, bão, thiên tai, thảm
họa khác, cứu hộ, cứu nạn và các hoạt động khác được Nhà nước khuyến khích.
3. Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động viễn thông, hoạt động phát thanh, truyền hình
trên môi trường mạng phải thực hiện các quy định của pháp luật về viễn thông, báo
chí và các quy định của Luật này.
Ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong trường hợp khẩn cấp
1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định huy động một phần hoặc toàn bộ cơ
sở hạ tầng thông tin để ưu tiên phục vụ cho việc ứng dụng công nghệ thông tin khi có
một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây: a) Phục vụ phòng, chống lụt, bão, hỏa
hoạn, thiên tai, thảm họa khác;
b) Phục vụ cấp cứu và phòng, chống dịch bệnh;
c) Phục vụ cứu nạn, cứu hộ;
d) Phục vụ quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống tội
phạm.
2. Chính phủ quy định cụ thể việc ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong các
trường hợp khẩn cấp.
Quản lý và sử dụng thông tin số

1. Tổ chức, cá nhân có quyền tự do sử dụng thông tin số vào mục đích chính đáng,
phù hợp với quy định của pháp luật.
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chịu trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo
đảm việc truy nhập và sử dụng thuận lợi thông tin số.
3. Việc cung cấp, trao đổi, truyền đưa, lưu trữ, sử dụng thông tin số phải bảo đảm
không vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 12 của Luật này và các quy định khác của
pháp luật có liên quan.
4. Tổ chức, cá nhân không được trích dẫn nội dung thông tin số của tổ chức, cá nhân
khác trong trường hợp chủ sở hữu thông tin số đã có cảnh báo hoặc pháp luật quy định
việc trích dẫn thông tin là không được phép.
5. Trường hợp được phép trích dẫn thông tin số, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm nêu
rõ nguồn của thông tin đó.
Truyền đưa thông tin số
1. Tổ chức, cá nhân có quyền truyền đưa thông tin số của tổ chức, cá nhân khác phù
hợp với quy định của Luật này.
2. Tổ chức, cá nhân truyền đưa thông tin số của tổ chức, cá nhân khác không phải chịu
trách nhiệm về nội dung thông tin được lưu trữ tự động, trung gian, tạm thời do yêu
24
cầu kỹ thuật nếu hoạt động lưu trữ tạm thời nhằm mục đích phục vụ cho việc truyền
đưa thông tin và thông tin được lưu trữ trong khoảng thời gian đủ để thực hiện việc
truyền đưa.
3. Tổ chức, cá nhân truyền đưa thông tin số có trách nhiệm tiến hành kịp thời các biện
pháp cần thiết để ngăn chặn việc truy nhập thông tin hoặc loại bỏ thông tin trái pháp
luật theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4. Tổ chức, cá nhân truyền đưa thông tin số của tổ chức, cá nhân khác không phải chịu
trách nhiệm về nội dung thông tin đó, trừ trường hợp thực hiện một trong các hành vi
sau đây:
a) Chính mình bắt đầu việc truyền đưa thông tin;
b) Lựa chọn người nhận thông tin được truyền đưa;
c) Lựa chọn và sửa đổi nội dung thông tin được truyền đưa.

Lưu trữ tạm thời thông tin số
1. Tổ chức, cá nhân có quyền lưu trữ tạm thời thông tin số của tổ chức, cá nhân khác.
2. Tổ chức, cá nhân lưu trữ tạm thời thông tin số của tổ chức, cá nhân khác không phải
chịu trách nhiệm về nội dung thông tin đó, trừ trường hợp thực hiện một trong các
hành vi sau đây:
a) Sửa đổi nội dung thông tin;
b) Không tuân thủ quy định về truy nhập hoặc cập nhật nội dung thông tin;
c) Thu thập dữ liệu bất hợp pháp thông qua việc lưu trữ thông tin tạm thời;
d) Tiết lộ bí mật thông tin.
Cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số
1. Cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số là dịch vụ cho thuê dung lượng thiết bị lưu trữ để
lưu trữ thông tin trên môi trường mạng.
2. Nội dung thông tin số lưu trữ không được vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 12
của Luật này.
3. Tổ chức, cá nhân cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số có trách nhiệm sau đây:
a) Thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc xác định danh sách
chủ sở hữu thuê chỗ lưu trữ thông tin số để thiết lập trang thông tin điện tử và danh
sách chủ sở hữu thông tin số được lưu trữ bởi tổ chức, cá nhân đó;
b) Tiến hành kịp thời các biện pháp cần thiết để ngăn chặn việc truy nhập thông tin số
hoặc loại bỏ thông tin số trái pháp luật theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền;
c) Ngừng cho tổ chức, cá nhân khác thuê chỗ lưu trữ thông tin số trong trường hợp tự
mình phát hiện hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông báo cho biết thông
tin đang được lưu trữ là trái pháp luật;
d) Bảo đảm bí mật thông tin của tổ chức, cá nhân thuê chỗ lưu trữ thông tin.
Công cụ tìm kiếm thông tin số
1. Công cụ tìm kiếm thông tin số là chương trình máy tính tiếp nhận yêu cầu tìm kiếm
thông tin số, thực hiện việc tìm kiếm thông tin số và gửi lại thông tin số tìm kiếm
được.
2. Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân phát triển, cung cấp công cụ

tìm kiếm thông tin số.
25

×