Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tài liệu ôn thi Môn học Quan điểm, đường lối kinh tế chính trị LỚP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.82 KB, 15 trang )

Câu hỏi 1: Quan điểm, phương hướng và giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt
Nam trong thời gian đến:
1. Phần đặt vấn đề:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế, vừa là kết quả
của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn nhất định vừa là yếu tố cực kì quan trọng thúc đẩy
phát triển nền kinh tế xã hội quốc gia lên một trình độ mới. Để phục vụ cho việc xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện tại và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong một giai đoạn
dài, cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch của nó cần phải được xem xét tổng quát để rút ra các ưu nhược điểm, phát
hiện các điểm mạnh, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý
hiệu quả của nhà nước nện kinh tế của nước ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Nếu trước đây Nông nghiệp
đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và chiếm một tỷ lệ lao động vào nông nghiệp rất lớn, thì nay nền
kinh tế của ta đã có sự phát triển đồng đều hơn, tỷ trọng Công nghiệp và Dịch vụ trong tổng sản phẩm kinh tế
quốc dân đã chiếm một khối lượng đáng kể và đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
2. Phần nội dung của vấn đề:
2.1. Chuyển dịch cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Theo C.Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với quá trình phát triển
nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất. Mác đồng thời nhấn mạnh, khi phân tích cơ cấu, phải chú ý đến cả
hai khía cạnh là chất lượng và số lượng, cơ cấu chính là sự phân chia về chất và tỉ lệ về số lượng của những quá
trình sản xuất xã hội. Như vậy, cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỉ trọng
tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.
Phân tích cơ cấu phải theo 2 phương diện:
Phương diện thứ nhất, mặt vật chất kĩ thuật của cơ cấu, bao gồm:
Cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế phản ánh số lượng, vị trí, tỉ trọng các ngành, lĩnh vực, bộ phận
cấu thành nền kinh tế.
Cơ cấu theo quy mô, trình độ kĩ thuật, công nghệ của các loại hình tổ chức sản xuất phản ánh chất lượng
các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế
Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ phản ánh khả năng kết hợp, khai thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế-xã
hội của các vùng phục vụ cho mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Phương diện thứ hai, xét theo cơ cấu kinh tế về mặt kinh tế-xã hội, bao gồm:
Cơ cấu theo các thành phần kinh tế phản ánh khả năng khai thác năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh
của mọi thành viên xã hội


Cơ cấu kinh tế theo trình độ phát triển của quan hệ hàng hoá tiền tệ. Nó phản ánh khả năng giải quyết mối
quan hệ và sự tác động qua lại giữa các ngành, lĩnh vực và các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống
nhất.
2.2. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta thời gian đến:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo sự ổn định tạo sự cân đối trong phát triển ngành, lĩnh vực,
thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm khai thác tốt tiềm năng kinh tế trong và ngoài nước, đảm bảo chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải phát huy sức mạnh của mọi thành phần kinh tế. Trong đó, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức.
Trong Nghị Quyết Đại hội lần thức 11, Đảng ta cũng đã xác định: Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước
5 năm 2011 - 2015 là phải ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo
hướng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất
lượng, hiệu quả của nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền
kinh tế; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quyết định 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chiến lược phát triển
bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 Các định hướng ưu tiên nhằm phát triển bền vững trong giai đoạn
2011-2020 cũng đã xã định: Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, phát
huy thế mạnh của từng vùng; phát triển sản xuất nông sản hàng hóa có chất lượng và hiệu quả; gắn sản xuất với
thị trường trong nước và thị trường quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên (đất đai, nước, rừng, lao
động và nguồn vốn); nâng cao thu nhập trên một đơn vị hecta đất canh tác, trên một ngày công lao động; cải
thiện đời sống của nông dân; phát triển bền vững các làng nghề. Đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật
và công nghệ trong sản xuất, chế biến, bảo quản, đặc biệt là ứng dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 1
trồng, vật nuôi và quy trình sản xuất đạt năng suất, chất lượng cao. Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển
nông, lâm, ngư nghiệp trong từng vùng kinh tế và liên vùng theo hướng phát triển bền vững, gắn sản xuất với thị
trường, gắn vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến.

Phát triển nông thôn bền vững phải bao gồm 4 quá trình: công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đô thị hóa; kiểm
soát dân số; bảo vệ môi trường sinh thái. Chú trọng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân nông thôn xét trên các khía cạnh kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và dân chủ.
Quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa nông thôn phải theo các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, giảm thiểu sự cách
biệt giữa thành thị và nông thôn về mức sống vật chất và tinh thần.
- Phát triển bền vững các vùng và địa phương. Tập trung ưu tiên phát triển trước các vùng kinh tế trọng
điểm, có khả năng bứt phá và dẫn dắt sự phát triển, đồng thời chú ý tới việc hỗ trợ các vùng kém phát triển và có
điều kiện khó khăn hơn, nhằm tạo ra một sự cân đối nhất định trong phát triển không gian, từng bước thu hẹp
khoảng cách về xã hội và tiến tới giảm bớt sự chênh lệch về kinh tế giữa các vùng và địa phương. Các vùng phát
triển kinh tế trọng điểm sẽ đóng vai trò là đầu tàu, lôi kéo các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo có điều kiện khó khăn hơn. Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển,
phát huy lợi thế của từng vùng, tạo sự liên kết giữa các vùng.
2.3. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta thời gian đến:
Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải phát huy vai trò của ngành, lĩnh vực theo hướng
phát triển bền vững, cụ thể:
- Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công
nghiệp, dịch vụ. Thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo bước đột phá trong
phát triển kinh tế, đảm bảo chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phương hướng chuyển dich cơ cấu kinh tế ngành, lĩnh vực kinh tế:
+ Chuyển dich cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tạo bước chuyển mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh
tế nông thôn thúc đấy kinh tế nông nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân. Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển dịch mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và có hiệu quả
kinh tế cao; đẩy mạnh thâm canh cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao; đảm bảo vững chắc an ninh lương
thực, xây dựng vùng chuyên canh nông nghiệp và thủy sản quy mô lớn…
+ Chuyển dich cơ cấu kinh tế công nghiệp theo hướng hiện đại hóa trên cơ sơ phát huy sức mạnh tổng
hợp của các thành phần kinh tế. Phát huy các ngành công nghiệp mới có giá trị gia tăng cao, hạm lượng công
nghệ cao, đủ sức hội nhập quốc tế trong phát triển công nghiệp.
+ Chuyển dich cơ cấu ngành dịch vụ theo hướng hiện đại, nhằm đảm bảo phát triển dịch vụ truyền thống
phục vụ sản xuất và đời sống vừa tạo mở những dịch vụ mới; có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị gia tăng
cao, đảm bảo chủ động hội nhập quốc tế trong phát triển.

2.4. Những giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta thời gian đến:
2.4.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam:
Có thể nói, trong hơn 25 năm đổi mới, hội nhập và phát triển, nhất là trong 10 năm thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế -xã hội 2001-2010, Đảng ta đã có bước đổi mới rõ nét về tư duy phát triển, đã sớm nhìn nhận
vai trò của đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện nhất quán chủ trương dịch chuyển cơ cấu kinh tế trên nguyên tắc
phát huy tối đa các lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh quốc gia; tôn trọng các nguyên tắc thị trường và kiên
định bảo đảm định hướng XHCN; coi đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế như một phương thức để tận dụng có
hiệu quả các nguồn lực bên ngoài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, những
thành công của Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh tế là rất căn bản, đã trở thành nền tảng quan trọng, tạo thế
và lực mới cho đất nước để thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trong giai đoạn
tới.
Tuy nhiên, cùng với thời gian, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã nhận thức rất sâu sắc các hạn chế, bất
cập trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Cụ thể là:
Thứ nhất, cơ cấu lại nền kinh tế chưa gắn liền với đổi mới mô hình tăng trưởng trong khi bản thân mô
hình tăng trưởng kinh tế lại thiên về chiều rộng, dựa nhiều vào việc tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sử
dụng nhiều lao động ít kỹ năng, trong khi các nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu như: Đổi mới công nghệ, tổ
chức quản lý, năng suất lao động… chưa được coi trọng đúng mức.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế vẫn còn bất hợp lý cả về ngành, vùng lãnh thổ và thành phần kinh tế; không gian
kinh tế xét trên tổng thể quốc gia còn chưa đạt tới sự kết nối, phối hợp, bổ sung lẫn nhau một cách có hiệu quả;
môi trường kinh doanh chưa thật sự bình đẳng, tình trạng kém hiệu quả của khu vực doanh nghiệp Nhà nước còn
tương đối phổ biến.
Thứ ba, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chậm được hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ và hiệu
quả chưa cao. Các yếu tố của kinh tế thị trường chưa hình thành đầy đủ.
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 2
Thị trường hàng hóa trong nước chưa được khai thác hiệu quả; thị trường lao động chưa linh hoạt; thị
trường đất đai còn sơ khai; thị trường tài chính phát triển chưa cân đối, nhất là về thị trường vốn dài hạn; thị
trường khoa học -công nghệ phát triển chưa cao.
2.4.2. Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta thời gian đến:
Nhận thức được các hạn chế, bất cập trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, trong thời gian đến cần có
những giải pháp sau:

Một là, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, ngăn chặn suy giảm kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững.
Hai là, điều tra nắm vững tiềm năng thế mạnh của từng ngành, từng lãnh thổ, từng thành phần kinh tế,
nhằm khai thác tốt nguồn nội lực phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Đồng thời dự báo xu
thế phát triển của ngành kinh tế thế giới, dựa vào lợi thế trong nước tận dụng thời cơ, huy động nguồn lực bên
ngoài thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng hiện đại, bền vững.
Ba là, thực hiện tốt quy hoạch phát triển kinh tế ngành, kinh tế vùng và thành phần kinh tế. Nghiêm chỉnh
triển khai thực hiện tốt quy hoạch đã vạch ra.
Bốn là, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, chú trọng năng lực cạnh tranh quốc gia của từng
ngành, lĩnh vực; của từng loại hàng hóa – dịch vụ.
Năm là, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào từng ngành nghề, sản phẩm.
Sáu là, tăng cường đầu tư tài chính và điều chỉnh cơ cấu đầu tư đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành, vùng lãnh thổ và thành phần kinh tế.
Bảy là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng lãnh thổ
và thành phần kinh tế.
Tám là, tạo lập mối quan hệ giữa các thành ngành, thành phần, vùng kinh tế nhằm hỗ trợ tích cực cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chín là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật, chính sách; kết hợp giữa nhà nước và thị trường trong việc hoạch
định, chỉ đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2. Phần kết thúc vấn đề:
Việt Nam đang đi vào thời kỳ CNH, HĐH đất nước trùng với thời điểm thế giới đang diễn ra những thay
đổi lớn về chính trị và kinh tế. Xu thế hòa bình và hợp tác để phát triển giữa các nước ngày càng trở thành một
quy luật phổ biến trong quan hệ quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình chuyên môn hóa và hợp tác giữa các quốc gia làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hóa
ngày càng cao. Những tiến bộ của khoa học công nghệ, đặc biệt là ngành tin học, đã dẫn tới hình thành những
mạng lưới toàn cầu như “xa lộ thông tin”, “thương mại điện tử”. Đặc điểm này đòi hỏi các nước đều phải nỗ lực
hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa. Chúng ta cũng nhận thức rõ hội nhập khu
vực và quốc tế thực chất là cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế, củng cố an ninh chính trị, giữ
gìn bản sắc dân tộc. Quá triệt đặc điểm này là yếu tố quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng và
hiệu quả.

Câu hỏi 2: Đường lối, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta. Quan điểm, phương châm
và giải pháp để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế tốt ?
1. Phần đặt vấn đề:
Ngày nay quốc gia nào tách ra khỏi dòng thác của lịch sử là tự huỷ diệt mình. Tất cả các quốc gia, dù lớn,
dù nhỏ, mạnh hay yếu đều tìm cách để hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả nhất. Việt Nam đã và đang
bước vào nền kinh tế hội nhập với những lợi thế và thách thức, chúng ta hội nhập theo những quan điểm riêng
của mình. Do đó nắm vững các quan điểm của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế là hết sức cần thiết…
2. Phần nội dung của vấn đề:
2.1. Đường lối, quan điểm chung của Đảng ta về đổi mới đất nước và phát triển kinh tế:
Để tìm hiểu quan điểm của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế, trước tiên chúng ta phải nắm vững đường
lối, quan điểm chung của Đảng ta về đổi mới đất nước và phát triển kinh tế. Đặc biệt phải nắm vững quan điểm
về đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là:
Một là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế; Việt Nam muốn làm bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Hai là: Tiếp tục tạo môi trường hoà bình và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế -
xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ba là:
Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực theo
nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 3
công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe doạ vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi, giải quyết các bất
đồng và các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; chống mọi hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm đổi mới, đường lối đối ngoại Đại hội XI(1-2010) có những bổ
sung, phát triển phù hợp với tình hình mới.
Về mục tiêu của đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu: “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Cùng với lợi ích quốc
gia, dân tộc, Đại hội XI cũng khẳng định mục tiêu đối ngoại là “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở để xây dựng một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp với lợi ích
quốc gia, dân tộc và là điều kiện để thực hiện các lợi ích đó. Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia,

dân tộc” được nêu rõ trong phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng. Việc nêu rõ lợi
ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong văn kiện Đại hội XI của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng
định rõ hơn định hướng: Đảng ta hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân
tộc, từ đó tái khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc. Khẳng định
lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao
nhất của các hoạt động đối ngoại. Về hội nhập quốc tế, Đại hội XI chuyển từ chủ trương “chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” được thông qua tại Đại hội
X thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Với chủ trương này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong
lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội
2.2. Quan điểm chỉ đạo hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta:
Một là: Hội nhập kinh tế quốc tế là do yêu cầu nội sinh, do yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị.
Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với việc giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước.
Ở đây chúng ta cần hiểu rõ, cần có tư duy mới về kinh tế độc lập tự chủ. Kinh tế độc lập tự chủ khác với kinh tế
tự cung tự cấp. Độc lập tự chủ về kinh tế trong hội nhập là khẳng định mở cửa hội nhập để khai thác các mặt có
lợi cho sự phát triển kinh tế của ta từ nền kinh tế thế giới. Do đó muốn bảo đảm độc lập tự chủ phải mở cả về cơ
cấu kinh tế và cả về cơ chế kinh tế, phải đa phương hoá không để cho một nước nào, một nền kinh tế nào, một
tập đoàn nào giữ vị trí độc quyền, chi phối bất cứ một lĩnh vực, một sản phẩm thiết yếu nào của nền kinh tế
chúng ta. Phải tìm mọi cách tạo ra sự cạnh tranh giữa các đối tác và cũng đề phòng sự lợi dụng cạnh tranh của
các tổ chức kinh tế quốc tế với chúng ta. Muốn giữ được độc lập tự chủ trong hội nhập phải giữ vững ổn định
kinh tế, đối phó kịp thời với những tác động bất lợi từ bên ngoài. Bởi vậy cần xây dựng những sợi dây an toàn
cho nền kinh tế quốc gia: chẳng hạn như xây dựng và thực hiện các mối quan hệ hợp lý trong tỷ lệ tích luỹ tối
thiểu trong GDP, tỷ lệ vốn vay, tỷ lệ trả nợ hàng năm, tỷ lệ vay ngắn hạn và trung hạn, dài hạn, mức thâm hụt tối
đa trong cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế, tỷ lệ đầu tư trực tiếp của nước ngoài và đầu tư gián
tiếp của nước ngoài qua cổ phiếu và trái phiếu, bảo đảm an toàn lương thực. Muốn giữ vững độc lập tự chủ trong
hội nhập còn phải ra sức nâng cao năng lực làm chủ khoa học kỹ thuật, phải nhanh chóng đào tạo đội ngũ các
nhà kinh doanh giỏi và đội ngũ cán bộ hành chính thạo việc. Và điều cốt lõi là phải phát triển kinh tế, nâng cao
thu nhập và cải thiện đời sống cho toàn dân, thực hiện công bằng, xã hội Đây chính là nền tảng vững chắc nhất
bảo đảm cho chúng ta vừa hội nhập kinh tế quốc tế vừa giữ được quyền độc lập tự chủ.

Ba là: Chúng ta chủ động hội nhập, dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa
nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu
đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Ở đây chúng ta cần nắm
vững mối quan hệ biện chứng tuy hai nhưng là một của nội lực và ngoại lực. Nội lực là chính, là quyết định.
Nhưng muốn phát huy tốt nội lực thì phải có sự tham gia của ngoại lực. Ngoại lực tham gia càng nhiều, càng
mạnh thì càng xuất hiện nhiều và nhanh các khả năng tối đa để phát huy “nội lực”. Và ngược lại để tranh thủ
được ngoại lực nhất thiết phải biết động viên tối đa nội lực.
Bốn là: Chúng ta phải nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu thị trường, xây dựng đồng bộ thị trường trong
nước (thị trường hàng hoá, thị trường nhân lực, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản), để đủ sức hội nhập
với khu vực và hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác.
Năm là: Song song với việc xây dựng sự phát triển đồng bộ thị trường, chúng ta phải nhanh chóng xây
dựng các doanh nghiệp vững mạnh. Doanh nghiệp là đội quân xung kích vô cùng quan trọng trong quá trình hội
nhập kinh tế. Doanh nghiệp được nói tới ở đây là bao gồm các doanh nghiệp, các công ty, tổng công ty của tất cả
các thành phần kinh tế ở tất cả các lĩnh vực sản xuất hàng hoá thiết bị, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, tiếp thị và
nhân lực.
Sáu là: Chúng ta phải chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, tích cực tham gia đàm phán
thương mại, tham gia các diễn đàn, các tổ chức, các hiệp định định chế quốc tế một cách chọn lọc với những
bước đi tỉnh táo và thích hợp.
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 4
Về các nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành các hoạt động đối ngoại, trên cơ sở khẳng định lại các nguyên tắc
của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ Đổi mới, Đại hội XI nêu: “Bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc
lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”, “tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế,
Hiến chương Liên hợp quốc”.
2.3. Phương châm hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta:
Tại các Văn kiện của Đại hội khẳng định: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn,
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điểm mới trong phương châm đối ngoại
của Đại hội XI là “hội nhập quốc tế” và “thành viên có trách nhiệm”.
Thực tiễn những năm qua cho thấy chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng qua các Đại hội VIII, IX,
X và XI đã thường xuyên được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam và

thích ứng với tình hình quốc tế. Chính vì vậy, quá trình thực hiện chính sách đối ngoại chủ động hội nhập quốc tế
từ năm 1996 đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng. Nhờ đó, nước ta đã ra khỏi thế đối đầu thù địch,
mở rộng, phát triển quan hệ song phương và đa phương với khu vực và thế giới, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, thu hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên
tiến; góp phần đưa đất nước có những bước phát triển mới; thế và lực của Việt Nam ngày càng được nâng cao
trên thương trường và chính trường quốc tế./.
2.4. Giải pháp cơ bản để Việt Nam hội nhập KTQT đạt kết quả tốt:
- Thứ nhất, xây dựng chiến lược phát triển, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mục tiêu của giải
pháp này là tăng cường sức mạnh của nền kinh tế. Do đó, nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
- Thứ hai, tổ chức lại doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Doanh nghiệp là chủ thể thực hiện hội nhập, là động lực hết sức quan trọng và then chốt. Do đó, yêu cầu
cấp bách là phải đẩy mạnh sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng những doanh nghiệp và ngành nghề
mới có có hàm lượng khoa học và công nghệ cao, đi đôi với sắp xếp, cải tạo các doanh nghiệp hiện có về kinh tế,
kỹ thuật.
- Thứ ba, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường, kiện toàn hệ thống pháp luật.
- Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ.
- Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với các hoạt động hội nhập kinh tế quốc
tế. Đây là biện pháp có ý nghĩa quyết định đảm bảo hội nhập đúng hướng và thành công.
Đồng thời phải tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, các ngành nhằm tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo
thực hiện nghiêm túc những nguyên tắc, mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Phần kết thúc vấn đề:
Trong một thế giới toàn cầu hóa, những tiến bộ của VN cần phải được đặt trong khung cảnh của một cuộc
tranh đua,VN tiến trong khi các nước cũng tiến, riêng trong khu vực Đông Á, có thể các nước láng giềng còn đi
nhanh hơn. Vì vậy cần hiểu rõ những thách thức, khó khăn cũng như những lợi ích của việc hội nhập kinh tế để
có thể đưa ra những đường lối, biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả của quá trình hội nhập.
Câu hỏi 3. Tính tất yếu của việc phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Các giải
pháp để phát triển kinh tế thị trường.
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung bao cấp, mọi chức năng kinh tế xã hội của nền kinh tế
đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Nhưng kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng
(12/1986) đến nay, theo đường lối đổi mới, chúng ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định

hướng XHCN. Điều đó có ý nghĩa to lớn được thể hiện qua những thành quả mà chúng ta đã đạt được như: kinh
tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao Với những thành tựu đó cho phép chúng ta vững tin
về con đường đã lựa chọn để tiếp tục điều chỉnh và bổ sung nhận thức, làm cho quan niệm về XHCN ngày càng
cụ thể cả về đường lối, chủ trương, chính sách sao cho ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và cơ sở thực
tiễn.
Kinh tế thị trường như chúng ta đã biết, là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất và tái
sản xuất xã hội gắn chặt với quan hệ hàng hoá - tiền tệ, với quan hệ cung- cầu… Trong nền kinh tế thị trường,
nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá: mọi hoạt động đều phải tính đến quan
hệ hàng hoá hay ít nhất cũng phải sử dụng quan hệ hàng hoá như là mắt xích trung gian.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế dựa trên sản xuất- trao đổi hàng hóa ở trình độ cao (chủ nghĩa tư bản).
Cần lưu ý rằng sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường không phải là một. Có nền kinh tế hàng hóa chưa phải là
nền kinh tế thị trường, ví dụ sản xuất hàng hóa giản đơn. Và cũng không phải cứ có quan hệ hàng hóa - tiền tệ là
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 5
có kinh tế thị trường: trước chủ nghĩa tư bản đã có quan hệ tiền tệ. Hay như Liên Xô và các nước Đông Âu trước
đây, Việt Nam trước đổi mới, Trung Quốc trước cải cách mở cửa tuy có quan hệ tiền- hàng, nhưng không phải
kinh tế thị trường. Nhưng đã là kinh tế thị trường thì có quan hệ hàng hóa- tiền tệ. Kinh tế thị trường có mục đích
là ''lợi nhuận" đôi khi bất chấp thủ đoạn để đạt mục đích. Kinh tế thị trường có mặt tốt là làm tăng năng suất lao
động, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường (đó là các qui luật như: qui
luật giá trị qui luật giá trị thặng dư, có tranh theo kiểu ''cá lớn nuốt cá bé''), thương trường là chiến trường nên có
thua người thắng, có người phất lên nhanh chóng và cũng có người khánh kiệt, bần cùng.
Còn nội hàm của định hướng xã hội chủ nghĩa có những dấu hiệu như hợp tác, nhân đạo; lợi nhuận chỉ là
phương tiện để đạt được mục đích vì loài người. Nền sản xuất theo định hướng XHCN cần phải:
- Khuyến khích làm giàu chính đáng đồng thời tích cực xóa đói, giảm nghèo (vì nghèo thì không phải chủ
nghĩa xã hội);
- Phát triển kinh tế song song với thực hiện các chính sách, phúc lợi xã hội, bảo đảm công bằng và an
sinh xã hội, chú trọng phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa, làm cho khoảng cách giữa thành thị và nông thôn
ngày càng gần lại;
- Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo có một trong những chức năng là điều tiết định hướng nền kinh
tế: chủ yếu tầm vĩ mô, ví dụ như ở các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, ngân hàng, các nguồn lực

Định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là quá trình phát triển phải nhắm tới một đích (dù xa và cho dù
thời gian khá dài) là xã hội xã hội chủ nghĩa, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Chính theo nghĩa này của ''định hướng xã hội chủ nghĩa'', nhà hoạt động chính trị Khả Tri Chính, ủy viên Trung
ương Đảng cộng sản Nhật Bản nói: ''con đường thông qua kinh tế thị trường đi tới chủ nghĩa xã hội là có tính
phổ biến trong phạm vi toàn thế giới''. Về vấn đề này, và theo nghĩa này của định hướng xã hội chủ nghĩa, Văn
kiện đại hội XI của Đảng cộng sản Việt Nam có ghi rõ: ''Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta
là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc''
.
Xung quanh khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa'' có không ít quan điểm hoài nghi.
Những quan điểm còn hoài nghi đó cho rằng không thể gắn kinh tế thị trường vào với chủ nghĩa xã hội, vì kinh
tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội không có kinh tế thị trường. Tuy nhiên quan điểm đó đã
ngộ nhận là đã đồng nhất hai khái niệm khác nhau: ''định hướng xã hội chủ nghĩa'' và ''xã hội chủ nghĩa''. Theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì, chủ nghĩa xã hội-giai đoạn đầu của hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa
khi được xây dựng xong thì cơ sở kinh tế của nó chỉ còn hai hình thức sở hữu: toàn dân và tập thể, do vậy không
còn kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó, tuy vẫn còn hai hình thức sở hữu khác nhau: nhà nước và tập thể
và do đó còn cần trao đổi trên cơ sở tính toán giá trị “định hướng xã hội chủ nghĩa” là quá trình hướng tới những
tiêu chí của chủ nghĩa xã hội chứ bản thân nó chưa phải chủ nghĩa xã hội, mà đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần.
Trước Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, do mắc sai lầm chủ quan duy ý chí, muốn có ngay chủ
nghĩa xã hội, chúng ta đã vi phạm qui luật khách quan là qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã rập khuôn theo mô hình Liên
Xô (một nước đi lên chủ nghĩa xã hội với một xuất phát điểm cao hơn nước ta rất nhiều), thủ tiêu kinh tế thị
trường với nền kinh tế đóng kín – chỉ quan hệ trong phe xã hội chủ nghĩa. Kết quả là: kinh tế suy thoái nghiêm
trọng, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh một dấu mốc lớn
trong nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đó thực sự là một Đại hội
ĐỔI MỚI. Tại Đại hội này Đảng ta đã xác định kinh tế thị trường là thành tựu của văn minh nhân loại mà chúng
ta cần sử dụng để xây dựng chủ nghĩa xã hội: ''Trong nhận thức cũng như trong hành động chúng ta chưa thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta đang tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và

sử dụng đúng qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất''. Tuy
nhiên, từ Đại hội VI đến Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa'' vẫn chưa được sử dụng. Chỉ đến Đại hội IX, Đảng ta mới lựa chọn mô hình kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa: ''Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển hàng hóa nhiều thành phần nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội''
3
. Và cũng chính tại Đại hội IX, Đảng cũng nhấn mạnh mục đích của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là: ''phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng
quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối''
4
. Tại sao chúng ta cần kinh tế thị
trường? Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải sử dụng kinh tế thị trường là vì nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng nền sản xuất xã hội của chủ nghĩa tư bản mà trong đó kinh
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 6
tế thị trường là nền tảng thì phải sử dụng để phát triển lực lượng sản xuất, làm tăng sự giàu có cho xã hội, mà chủ
nghĩa xã hội đích thực phải là một xã hội giàu có và ở trình độ cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Thành tựu của hơn 20 năm đổi mới vừa qua ở nước ta đã có tác dụng làm cho chúng ta quen dần với các
quan hệ hàng hoá. Hàm lượng kinh tế trong các hoạt động xã hội ngày càng được chú ý. Thế nên trong bước
chuyển sang cơ chế thị trường này đương nhiên chúng ta không tránh khỏi những sai lầm, , nhưng dẫu sao nó
cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của quan hệ thị trường đối với đời sống kinh tế - xã hội. Về thực
chất của bước nhảy này, một số nhà nghiên cứu cho rằng: ở Việt Nam dù nền kinh tế thị trường chỉ mới vừa
được hình thành, còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được Nhà nước điều tiết một cách có ý thức
theo định hướng XHCN, song cũng đã tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để lại ở đó những
dấu ấn của mình…
Trên thực tế, các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam, trong tiến trình phát triển của mình, đều gặp
phải những khó khăn trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội Đó là sự thách thức đối với bất kỳ nền kinh
tế nào. Đây cũng là một tất yếu, cho nên chúng ta phải chấp nhận những mặt trái của kinh tế thị trường. Vấn đề
là để từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền sản xuất xã hội, chúng ta phải có chính sách và biện

pháp cho phù hợp với từng lĩnh vực như giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, hay lĩnh vực bảo vệ
môi trường, đặc biệt là các vấn đề xã hội đang nổi cộm hiện nay như phân hoá giàu nghèo, gia tăng tệ nạn xã
hội, vấn đề xuống cấp về đạo đức…Tuy nhiên, đây cũng là bài toán khó, không thể được giải quyết ngay trong
một sớm một chiều.
Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc chúng ta bước đầu sử dụng thị trường như là một
công cụ, một phương thức, trên thực tế đã đem lại những kết quả tích cực cả về phương diện thực tiễn và cả về
phương diện nhận thức. Một hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta là sản xuất hàng
hoá cùng với “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường”, đã được hiểu là không
đối lập với CNXH. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại “một cơ hội để các cộng đồng mở cửa tiếp
xúc với bên ngoài”, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở
nước ta .
Tuy nhiên nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, thì chúng ta hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái
của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát
triển xã hội, nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không
nhất thiết đi liền với tiến bộ xã hội. Do vậy, trong quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng
CNXH với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì kinh tế nhất thiết phải có
sự quản lý chặt chẽ của nhà nước theo định hướng XHCN.
Các giải pháp:
- Thực trạng: Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kém phát triển mang nặng
tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường. Đây thể hiện thực
trạng nền kinh tế yếu kém của nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường. Điều đó được biểu hiện :
+ Cơ sở vật chất, kĩ thuật còn ở trình độ thấp bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được
trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại thì vẫn còn nhiều ngành kinh tế máy móc cũ kĩ, công nghệ lạc hậu, lao
động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản
xuất của nước ta còn thấp so với khu vực và thế giới.
+ Kết cấu hạ tầng đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc… vẫn còn lạc hậu, chưa phát
triển dẫn đến sự giao lưu giữa các vùng , các dịa phương bị chia cắt, tách biệt nhau nên không thể khai thác hết
được tiềm năng, thế mạnh của các vùng, các địa phương.
+ Do cơ sở vật chất kĩ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém phát triển, chuyển dịch
cơ cấu chậm. Nông nghiệp vẫn chiếm phần lớn lực lượng lao động, khoảng 70%, nhưng chỉ sản xuất khoảng

26% GDP, các ngành công nghệ cao chiếm tỉ trọng thấp.
+ Kả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp còn yếu ở thị trường trong nước cũng như thị trường nước
ngoài. Do cơ sở vật chất, kĩ thuật và công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp. Do đó, khối lượng hàng hoá
nhỏ bé, chủng loại hàng hoá chưa nhiều, chất lượng hàng hoá chưa cao, giá cả cao, vì thế khả năng cạnh tranh
yếu.
- Giải pháp:
+ Thực hiện nhất quán lâu dài, chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước.
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường: thị trường hàng hóa dịch vụ, thị trường tài chính,
thị trường sức lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ.
+ Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 7
+ Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Câu hỏi 4: Nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc?
Đảng ta đã khẳng định nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền văn hoá yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là nền
văn hoá mang tính dân chủ và nhân văn sâu sắc, tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đồng thời, đây cũng là nền văn hoá hiện đại, hiện đại về nội
dung, hình thức thể hiện cũng như hiện đại về cơ sở vật chất kỹ thuật để chuyển tải nội dung. Tính chất tiên tiến
phải thống nhất hữu cơ với tính chất dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc là sự thống nhất giữa nội dung và hình
thức của nền văn hoá, thống nhất giữa trình độ tư duy, cách cảm nhận, cách suy nghĩ, triết lý sống, ý chí và bản
lĩnh, cốt cách, nhân cách, phẩm chất của nền văn hoá với hình thức biểu hiện bên ngoài của nó.
Bản sắc văn hóa dân tộc không phải nhất thành bất biến mà nó mang tính lịch sử - cụ thể, luôn luôn tự đổi
mới trên cơ sở loại bỏ những yếu tố tiêu cực và lạc hậu, sáng tạo và xây dựng các giá trị văn hóa mới thích ứng
với yêu cầu biến đổi của thời đại. Vì vậy, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc phải gắn liền với mở rộng giao lưu
quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc phải đi
liền với việc chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục tập quán, lề thói cũ.

Để xây dựng thành công nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đã chỉ ra mười nhiệm vụ
cụ thể như sau:
Nhiệm vụ thứ nhất: Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Xây dựng con người Việt Nam hiện đại đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới là nhiệm vụ trọng
tâm của quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa hiện nay. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng đã nhấn mạnh: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung,
tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành
nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
.
Xây dựng con người và các thế hệ gắn bó với sự nghiệp cách mạng là một quá trình lâu dài, khó khăn và
phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực của từng cá nhân, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, gắn liền với các thiết chế
và thể chế văn hóa của đất nước. Vì vậy, cần phải huy động sức mạnh tổng hợp và toàn diện của các nguồn lực
văn hóa để giáo dục và xây dựng con người, bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, tạo điều kiện và
cơ hội cho con người phát triển toàn diện và cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển đất nước.
Nhiệm vụ thứ hai: Xây dựng môi trường văn hóa.
Môi trường văn hóa là môi trường chứa những giá trị văn hóa và những quan hệ văn hóa của con người từ
quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Môi trường văn hóa là nơi đồng thời diễn ra các hoạt động văn hóa
từ hoạt động sáng tạo, sản xuất, bảo quản, lưu giữ, truyền bá, thưởng thức và đánh giá các giá trị văn hóa. Môi
trường văn hóa được hiện diện bằng sự tồn tại của các giá trị văn hóa vật thể, các giá trị văn hóa phi vật thể, các
hoạt động văn hóa cá nhân và cộng đồng trong những mối quan hệ đa dạng và sinh động, từ hành vi của cá nhân
tới gia đình, họ hàng, làng xóm và cộng đồng xã hội cùng với sự ứng xử của họ với quá khứ, hiện tại và tương
lai, với con người và tự nhiên.
Môi trường văn hóa chính là hệ sinh thái văn hóa, nuôi dưỡng đời sống tinh thần của xã hội. Xây dựng
môi trường văn hóa góp phần ổn định chính trị - xã hội, tạo bầu không khí tinh thần lành mạnh làm tiền đề để
xây dựng con người, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh. Đảng ta đã nhấn mạnh: "Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể,
cơ quan, xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội ), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn,

miền núi ) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của
các tầng lớp nhân dân Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ
sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hoá trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức
văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn hóa, nghệ thuật"
9
. Xây dựng
nếp sống văn minh, gia đình văn hóa; xây dựng trường học, cơ quan, đơn vị văn hóa; xây dựng làng bản, khối
phố văn hóa là những nội dung quan trọng để xây dựng môi trường văn hóa ở cơ sở.
Nhiệm vụ thứ ba: Phát triển sự nghiệp văn học và nghệ thuật.
Văn học, nghệ thuật là bộ phận tinh tế và nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng vươn tới các giá trị
Chân - Thiện - Mỹ của nhân dân. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp văn học, nghệ thuật là sáng tạo
những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ sâu sắc, có ý
nghĩa giáo dục, bồi dưỡng tinh thần, tình cảm, nhân cách và bản lĩnh cho các thế hệ công dân hiện nay. Khuyến
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 8
khích các tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, phong cách sáng tạo, đáp ứng mọi nhu cầu tinh thần lành mạnh
của nhân dân. Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ nghệ sĩ trước nhân dân, dân tộc và thời đại. Đồng thời bài trừ
các khuynh hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính. Đấu tranh chống lại các khuynh hướng sáng tác trái với đường
lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ nghệ thuật cho nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh,
thiếu niên, nhi đồng. Khuyến khích các hoạt động văn nghệ quần chúng, tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng
tạo, hưởng thụ các giá trị nghệ thuật cao của dân tộc và nhân loại.
Nhiệm vụ thứ tư: Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa.
Di sản văn hóa là tài sản, của cải quý báu kết tinh sự sáng tạo lâu dài của dân tộc do lịch sử để lại, bao
gồm các di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa còn là cơ sở để liên kết cộng đồng,
là nền tảng để sáng tạo các giá trị văn hóa mới, là tiền đề để mở rộng giao lưu văn hóa với các dân tộc khác trên
thế giới. Di sản văn hóa không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của nhân dân, góp phần khẳng định niềm tự
hào dân tộc, mà còn là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng
qua hệ thống di sản văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thế hệ trẻ hiện nay. Vì vậy, đầu tư cho việc
bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, nâng cao trách nhiệm của nhân dân đối với việc bảo vệ và phát huy
vai trò của di sản văn hóa dân tộc là công việc vừa cơ bản, vừa cấp bách, cần phải được tiến hành nghiêm túc,
kiên trì và thận trọng.

Nhiệm vụ thứ năm: Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Phát triển khoa học và công
nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực, nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo. Giáo dục và
đào tạo cần tập trung bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tinh thần tự hào dân
tộc, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng khoan dung, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập
nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề
nghiệp, quan tâm với hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ.
Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và các nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà quản lý và kinh
doanh giỏi. Có chính sách tốt trong việc sử dụng nhân lực và nhân tài để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa.
Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ cũng được coi là chìa khoá cho sự phát triển. Do
đó, cần tăng cường tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực phát
triển đất nước. Phát huy vai trò của khoa học xã hội và nhân văn trong việc tổng kết thực tiễn và đi sâu nghiên
cứu những vấn đề lớn của đất nước, khu vực và toàn cầu, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, phát huy nhân tố con người và văn hóa Việt Nam. Khoa học tự nhiên chú trọng việc nghiên
cứu thực tiễn, nghiên cứu cơ sở khoa học của việc phát triển công nghệ trọng điểm, khai thác tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường, dự báo phòng tránh thiên tai. Khoa học và công nghệ tập trung nâng cao năng suất,
chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, bảo vệ môi trường và an ninh quốc
phòng. Coi trọng việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ tự động hoá vào trong sản xuất và dịch vụ. Mở rộng giao lưu và hợp tác khoa học giữa các địa
phương, các ngành trong nước và quốc tế. Các địa phương, các ngành cần chú trọng xây dựng các luận cứ khoa
học cho các dự án, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, có cơ chế để phát huy vai trò dân chủ của nhân
dân tham gia đóng góp vào các chương trình, dự án này. Mặt khác, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng
dẫn người lao động sử dụng đúng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất, tránh tình trạng
lạm dụng hoặc thiếu hiểu biết khi sử dụng những thành tựu này (thuốc trừ sâu, thuốc kích thích, các chất độc hại
gây ô nhiễm môi trường và gây độc hại cho người tiêu dùng).

Nhiệm vụ thứ sáu: Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
Các phương tiện thông tin đại chúng bao gồm sách, báo, tạp chí, các đài phát thanh và truyền hình ở
Trung ương và địa phương…, đóng vai trò to lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội tới nhân dân và phản ánh nguyện vọng của nhân dân
đối với Đảng và Nhà nước, góp phần to lớn vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh phát triển chiến lược truyền thông quốc gia, các địa phương, các ngành, các cấp ở
cơ sở cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, tạo điều kiện để phát triển mạnh mạng lưới thông tin văn
hóa ở cơ sở. Phấn đấu đến năm 2010, hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện phát thanh, truyền hình
đến mỗi gia đình. Phát triển các điểm văn hóa kết hợp với hệ thống bưu cục khắp các xã trên phạm vi cả nước.
Dùng tiếng nói dân tộc và chữ viết của các dân tộc trên các phương tiện thông tin đại chúng ở vùng đồng bào dân
tộc. Sớm phát hiện và xử lý kiên quyết đối với việc tuyên truyền các thông tin phản động và phản văn hóa.
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 9
Nhiệm vụ thứ bảy: Bảo tồn và phát huy, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số.
Nước ta gồm có 54 dân tộc anh em từng đoàn kết, gắn bó với nhau trong quá trình xây dựng, phát triển
đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ phận tạo nên nền
văn hóa Việt Nam đa dạng và phong phú trong sự thống nhất; bổ sung và hỗ trợ, tạo điều kiện để mỗi dân tộc
phát triển bình đẳng trong cộng đồng quốc gia Việt Nam. Vì vậy, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc không thể không chú ý tới nhiệm vụ hết sức quan trọng là bảo tồn, phát huy và phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa dân tộc, các giá trị văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong mỹ tục của các dân tộc; tôn
tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; khai thác các kho tàng văn hóa cổ truyền. Tiếp thu tinh
hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của nhân loại. Đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hóa độc
hại”.
Cần nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức và những nhà quản lý người dân tộc, khuyến khích họ công tác tại địa
phương mình. Tăng cường công tác điều tra, sưu tầm, tôn tạo, bảo vệ và phát huy các công trình văn hóa mới,
xây dựng lối sống, tác phong, phong tục và tập quán mới phục vụ yêu cầu phát triển hiện nay, mở rộng hợp tác
giao lưu, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc để cùng tiến bộ.
Nhiệm vụ thứ tám: Chính sách văn hóa đối với tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và đang tồn tại cùng dân tộc trong

quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng
và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo pháp luật. Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật
và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng, có giá trị định hướng để đoàn kết, gắn bó các tôn giáo vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở những vùng đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, có những đặc điểm
văn hóa khác nhau, cần nêu cao tinh thần công bằng, bác ái, hướng thiện của các tôn giáo vào sự nghiệp xây
dựng cuộc sống tốt đẹp của cộng đồng. Đồng thời chăm lo phát triển kinh tế và văn hóa, nâng cao trình độ dân
trí, trình độ khoa học-công nghệ, hỗ trợ đồng bào xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn
hóa. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của đồng bào theo các tôn giáo khác nhau với nhân dân, với Tổ quốc và với
sự nghiệp đổi mới hiện nay. Kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để phá hoại sự nghiệp đổi mới.
Nhiệm vụ thứ chín: Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa.
Giao lưu, hợp tác quốc tế là một yêu cầu tất yếu để xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để thực hiện nhiệm vụ này, công tác quản lý nhà nước về văn hóa cần chú trọng
các nội dung chính sau:
- Làm tốt việc giới thiệu văn hoá đất nước và con người Việt Nam với thế giới, để nhân dân thế giới hiểu
biết, chia sẻ, đồng cảm và ủng hộ nhiều hơn nữa sự nghiệp đổi mới của Việt Nam.
- Tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học tiến bộ của nước ngoài; phổ biến những kinh
nghiệm tốt về xây dựng và phát triển văn hoá của các nước trên thế giới.
- Chú trọng giúp đỡ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn và bảo vệ văn hóa dân tộc, hiểu biết
hơn về đất nước và sự nghiệp đổi mới, tạo điều kiện để họ tham gia vào xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc.
Mở rộng giao lưu văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phải gắn liền với việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, phát triển văn hóa Việt Nam lên tầm cao mới để góp phần đóng góp cho nền văn hóa
nhân loại. Đồng thời phải nâng cao cảnh giác, chống xu hướng “lai căng” và sự xâm nhập các loại sản phẩm
phản văn hóa, đồi trụy, phản động vào đời sống tinh thần của nhân dân.
Nhiệm vụ thứ mười: Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá.
Thể chế văn hoá là hệ thống các quy định về quản lý, xây dựng và phát triển văn hoá, bao gồm:
- Hệ thống tổ chức, bộ máy cán bộ trên lĩnh vực văn hoá.
- Cơ chế hoạt động và phối hợp của các tổ chức văn hoá.

- Hệ thống chính sách văn hoá.
- Hệ thống các thiết chế văn hoá từ Trung ương đến cơ sở xã, phường.
Cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý có hiệu quả của cơ quan nhà nước ở các cấp, phát huy
vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội và của nhân dân trong việc xây dựng đời sống văn hóa. Ở cấp cơ sở,
nhiệm vụ củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá cần tập trung giải quyết một số nội dung sau:
- Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các thiết chế hiện có.
- Thực hiện chủ trương "Nhà nước và nhân dân cùng làm" và xã hội hóa các hoạt động văn hoá.
- Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa ở cơ sở như nhà văn hóa, thư viện, trạm phát thanh,
truyền hình, trạm bưu điện văn hóa, sân chơi, sân thể thao, trung tâm văn hóa giải trí cho thanh, thiếu niên
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 10
- Thực hiện nghiêm túc các văn bản luật pháp về văn hóa, thông tin mà Nhà nước ban hành. Củng cố
nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý văn hóa ở cấp xã, phường; giải quyết tốt các chế độ, chính sách cho hoạt
động văn hóa ở cơ sở và đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Trước mắt cần tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời
sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng và Nhà nước, trong các đoàn thể quần
chúng và gia đình. Để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này, cần thực hiện tốt các nội dung sau:
- Kiên quyết loại bỏ các phần tử thoái hóa, biến chất về đạo đức ra khỏi tổ chức Đảng và cơ quan nhà
nước. Nghiêm trị tội phạm. Ngăn ngừa và đẩy lùi các hoạt động phản văn hóa, các sản phẩm văn hóa độc hại.
- Xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi hủ tục, tệ nạn cờ bạc, ma tuý,
mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng.
- Cải thiện văn hóa ở những vùng đời sống còn quá khó khăn, nhất là những vùng sâu, vùng xa, vùng
biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu thiết yếu về văn hóa tinh thần cho nhân dân.
Những nhiệm vụ trên đây phải được tiến hành đồng bộ, thường xuyên và phải được cụ thể hoá ở từng giai
đoạn, từng địa phương. Ở đây, sự gương mẫu của đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể
chính trị - xã hội là điều kiện cơ bản để thực hiện thành công những nhiệm vụ quan trọng này.
Câu hỏi 5: Nội dung cơ bản của định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam?
a. Phát triển bền vững – con đường tất yếu của Việt Nam
- Thực trạng phát triển bền vững ở Việt Nam những năm qua
Những thành tựu:
Qua hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn trong phát

triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
+ Về kinh tế:
Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và tương đối ổn định.
Ngành nông nghiệp không những bảo đảm an ninh lương thực vững chắc cho đất nước mà còn đưa Việt
Nam vào danh sách những nước xuất khẩu gạo hàng đầu của thế giới. Công nghiệp đã được cơ cấu lại và dần dần
tăng trưởng ổn định. Các ngành dịch vụ đã được mở rộng và chất lượng phục vụ đã được nâng lên, đáp ứng nhu
cầu tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống dân cư. Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải phát triển nhanh, đáp ứng
khá tốt cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Du lịch đã có bước phát triển khá, nhiều trung tâm du lịch được
nâng cấp, trùng tu, cải tạo, các loại hình du lịch phát triển đa dạng, đặc biệt trong những năm gần đây đã tập
trung khai thác nâng cao giá trị nhân văn và bản sắc văn hoá dân tộc trong các tuyến du lịch, làm cho du lịch
càng thêm phong phú, hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước. Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển
nhanh, mạng lưới viễn thông trong nước đã được hiện đại hoá về cơ bản. Do sản xuất phát triển và thực hiện các
chính sách điều tiết tài chính, tiền tệ có hiệu quả, môi trường kinh tế vĩ mô đã ổn định, tạo điều kiện cho thu hút
đầu tư và nâng cao mức sống nhân dân.
+ Về xã hội:
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển xã hội. Đầu tư của Nhà nước cho các lĩnh
vực xã hội ngày càng tăng, hiện chiếm trên 25% vốn ngân sách nhà nước, trong đó đặc biệt ưu tiên đầu tư cho
xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, giáo dục-đào tạo, dạy nghề, y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phòng
chống các tệ nạn xã hội, khoa học-công nghệ, bảo vệ môi trường cũng như các dịch vụ xã hội cơ bản khác.
Một hệ thống luật pháp đã được ban hành đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp hơn với yêu cầu
đổi mới của đất nước trong tình hình mới. Nhiều chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển xã hội đã, đang
được triển khai thực hiện và đạt hiệu quả xã hội cao. Đời sống nhân dân ở cả thành thị và nông thôn đã được cải
thiện rõ rệt. Công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu được dư luận trong nước và thế giới đánh
giá cao. Các chỉ tiêu xã hội được cải thiện hơn rất nhiều. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng
cao, chỉ số phát triển giới (GDI) cũng tăng cao.
+ Về môi trường:
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhằm khắc phục những hậu quả môi trường do chiến tranh để lại. Nhiều
chính sách quan trọng về quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường đã được xây dựng và
thực hiện trong những năm gần đây. Hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được hình thành ở cấp

Trung ương và địa phương. Công tác quản lý môi trường, giáo dục ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường cho
mọi tổ chức, cá nhân ngày càng được mở rộng và nâng cao chất lượng. Công tác giáo dục và truyền thông về môi
trường đang được đẩy mạnh. Nội dung bảo vệ môi trường đã được đưa vào giảng dạy ở tất cả các cấp học trong
hệ thống giáo dục quốc dân.
Những hạn chế, yếu kém:
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 11
Bên cạnh những thành tựu nói trên, trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngành và địa
phương, tính bền vững của sự phát triển vẫn chưa được quan tâm đúng mức và vẫn còn một số tồn tại chủ yếu
sau đây:
+ Về kinh tế:
Nguồn lực phát triển còn thấp nên những yêu cầu về phát triển bền vững ít có đủ điều kiện vật chất để
thực hiện. Đầu tư được tập trung chủ yếu cho những công trình mang lại lợi ích trực tiếp, còn rất ít đầu tư cho tái
tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Số nợ hiện nay của Việt Nam so với các nước khác
chưa thuộc loại cao và chưa tới giới hạn nguy hiểm, song nó đang tăng lên nhanh chóng và sẽ có nguy cơ đe doạ
tính bền vững của sự phát triển trong tương lai, nhất là khi vốn vay chưa được sử dụng có hiệu quả. Xu hướng
giảm giá các sản phẩm thô trên thị trường thế giới gây ra nhiều khó khăn cho tăng trưởng nông nghiệp ở Việt
Nam. Các mục tiêu phát triển của các ngành có sử dụng tài nguyên thiên nhiên còn mâu thuẫn nhau và chưa
được kết hợp một cách thoả đáng.
+ Về xã hội:
Sức ép về dân số tiếp tục gia tăng, tình trạng thiếu việc làm ngày một bức xúc, tỷ lệ hộ nghèo còn cao
vẫn là những trở ngại lớn đối với sự phát triển bền vững. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Số lượng và chất
lượng lao động kỹ thuật (về cơ cấu ngành nghề, kỹ năng, trình độ) chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao
động. Khoảng cách giàu nghèo và phân tầng xã hội có xu hướng gia tăng nhanh chóng trong nền kinh tế thị
trường. Một số tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm, căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, tham nhũng còn chưa được
ngăn chặn có hiệu quả, gây thất thoát và tốn kém các nguồn của cải, tạo ra nguy cơ mất ổn định xã hội và phá
hoại sự cân đối sinh thái.
+ Về môi trường:
Do chú trọng vào phát triển kinh tế, nhất là tăng trưởng GDP, ít chú ý tới hệ thống thiên nhiên, nên hiện tượng
khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây nên suy thoái môi trường và làm mất cân đối
các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến. Tuy các hoạt động bảo vệ môi trường đã có những bước tiến bộ đáng

kể, nhưng mức độ ô nhiễm, sự suy thoái và suy giảm chất lượng môi trường vẫn tiếp tục gia tăng. Quản lý nhà
nước về môi trường mới được thực hiện ở cấp Trung ương, ngành, tỉnh, chưa hoặc có rất ít ở cấp quận huyện và
chưa có ở cấp phường xã.
- Mục tiêu, quan điểm và nguyên tắc phát triển bền vững của Việt Nam
+ “Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần
và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên;
phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ
môi trường”.
Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp
ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh
để lại gánh nặng nợ nần lớn cho các thế hệ mai sau.
Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội là đạt được kết quả cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi
người đều có cơ hội được học hành và có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng cách giàu
nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và
nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong một xã hội, duy trì và phát huy được tính đa dạng và bản
sắc văn hoá dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần.
Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi
trường sống; bảo vệ được các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa
dạng sinh học; khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường.
+ Quan điểm: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường"; "Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường,
bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".
+ Nguyên tắc: Để đạt được mục tiêu nêu trên, trong quá trình phát triển chúng ta cần thực hiện những
nguyên tắc chính sau đây:
Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững. Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm của giai đoạn phát triển. Thứ ba, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố
không thể tách rời của quá trình phát triển. Thứ tư, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công
bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai. Thứ năm, khoa

học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và
bền vững đất nước. Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành
và địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân. Thứ
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 12
bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền
vững đất nước. Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với bảo
đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
b. Những lĩnh vực hoạt động cần ưu tiên nhằm thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam
- Những lĩnh vực ưu tiên nhằm phát triển bền vững về kinh tế
+ Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao không ngừng tính hiệu quả, hàm
lượng khoa học-công nghệ và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường.
+ Thay đổi mô hình và công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng theo hướng sạch hơn và thân thiện với môi
trường, dựa trên cơ sở sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên không tái tạo lại được, giảm tối đa chất thải độc
hại và khó phân huỷ, duy trì lối sống của cá nhân và xã hội hài hòa và gần gũi với thiên nhiên
+ Thực hiện quá trình "công nghiệp hóa sạch", nghĩa là ngay từ ban đầu phải quy hoạch sự phát triển
công nghiệp với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường; tích cực
ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm công nghiệp, xây dựng nền "công nghiệp xanh".
+ Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững.
+ Phát triển bền vững vùng và xây dựng các cộng đồng địa phương phát triển bền vững.
- Những lĩnh vực ưu tiên nhằm phát triển bền vững về xã hội:
+ Tập trung nỗ lực để xóa đói, giảm nghèo, đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Tiếp tục giảm mức tăng dân số và tạo thêm việc làm cho người lao động.
+ Định hướng quá trình đô thị hóa và di dân nhằm phát triển bền vững các đô thị, phân bố hợp lý dân cư
và lao động theo vùng.
+ Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí và trình độ nghề nghiệp, phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp phát triển đất nước
+ Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, cải thiện điều kiện lao
động và vệ sinh môi trường sống.
- Những lĩnh vực ưu tiên nhằm khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường.
+ Chống tình trạng thoái hóa đất, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất.

+ Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.
+ Khai thác và sử dụng hợp lý, bền vững tài nguyên khoáng sản.
+ Bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo
+ Bảo vệ và phát triển rừng.
+ Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp
+ Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại.
+ Bảo tồn đa dạng sinh học.
+ Thực hiện các biện pháp làm giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến
đổi khí hậu, phòng và chống thiên tai.
c. Tổ chức thực hiện phát triển bền vững:
- Hoàn thiện vai trò lãnh đạo của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện phát triển bền vững.
Phát triển thể chế. Hoàn chỉnh hệ thống chính sách và văn bản quy phạm pháp luật về phát triển bền vững
thông qua việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các văn bản hiện hành phục vụ việc hoàn thiện thể chế phát triển bền
vững, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Tăng cường năng lực quản lý sự phát triển bền vững
Sử dụng các công cụ tài chính phục vụ cho phát triển bền vững.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá phát triển bền vững.
Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức cho mọi người dân về phát triển bền vững.
Xây dựng Định hướng chiến lược phát triển bền vững của ngành và địa phương.
- Huy động toàn dân tham gia thực hiện phát triển bền vững.
Tiếp tục đổi mới pháp luật, thể chế nhằm phát huy hơn nữa sáng kiến và tinh thần làm chủ của nhân dân
trong việc quản lý xã hội và cộng đồng.
Thúc đầy hoạt động của các nhóm xã hội chính nhằm thúc đẩy phát triển bền vững: Phụ nữ, Thanh, thiếu
niên, Nông dân, Công nhân và công đoàn, Các nhà doanh nghiệp, Đồng bào các dân tộc ít người, Giới trí thức,
các nhà khoa học.
- Hợp tác quốc tế để phát triển bền vững.
Tiếp tục thực hiện các chính sách đổi mới, thu hút sự tham gia của các cá nhân và tổ chức quốc tế trong
việc thực hiện Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. Tăng cường hợp tác quốc tế trong các ủy
ban của Liên hiệp quốc về phát triển bền vững. Tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế
quốc tế, giáo dục-đào tạo, khoa học công nghệ, đặc biệt là chuyển giao các công nghệ sản xuất sạch và thân thiện

với môi trường. Tham gia tích cực vào các hoạt động bảo vệ môi trường toàn cầu. Tăng cường hợp tác với các
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 13
nước trong khu vực về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Chủ động tham gia các hệ thống quan trắc môi
trường và nghiên cứu khoa học quốc tế để thu thập các thông tin về môi trường và phát triển bền vững. Hợp tác
chặt chẽ với các nước tài trợ, các tổ chức quốc tế nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn viện trợ chính thức cho mục
đích phát triển bền vững.
Câu hỏi 6: Tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc nhiệm vụ và phương châm hoạt động đối ngoại của Đảng
và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay ?
Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra khi đất nước ta bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ 21. Ðại
hội Ðảng đã thông qua ba văn kiện quan trọng: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 và Báo cáo chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa X tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng.
Ba văn kiện quan trọng này nêu quan điểm, phương hướng cơ bản chỉ đạo cả lâu dài, trung hạn và ngắn
hạn về đường lối đối ngoại, tạo thành một thể thống nhất. Cương lĩnh nêu những định hướng, nguyên tắc lớn,
mang tầm chiến lược cho cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược cụ thể hóa đường lối đối ngoại
nhằm phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020. Phần đối ngoại trong Báo cáo Chính
trị đề cập nhiều định hướng cụ thể cho các hoạt động đối ngoại năm năm tới. Từ Báo cáo Chính trị đến Chiến
lược và Cương lĩnh, đường lối đối ngoại của Ðảng được đề cập phù hợp với nhiệm vụ đối ngoại trong từng giai
đoạn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, nhưng thống nhất về mục tiêu, nguyên tắc, phương châm và những định
hướng lớn, lâu dài. Nội dung của phần đối ngoại trong các văn kiện đó hợp thành Ðường lối đối ngoại Ðại hội
XI.
Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm đổi mới, đường lối đối ngoại Ðại hội XI có những bổ sung, phát
triển phù hợp với tình hình mới, thể hiện ở những nội dung chính dưới đây:
Tư tưởng chỉ đạo: về mục tiêu của đối ngoại, văn kiện Ðại hội XI nêu: 'Vì lợi ích quốc gia, dân tộc'. Cùng với lợi
ích quốc gia dân tộc, Ðại hội XI cũng đặt mục tiêu đối ngoại là 'vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh'. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở cơ bản để xây dựng một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp lợi ích
quốc gia dân tộc và là điều kiện cần để thực hiện các lợi ích đó.
Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại 'vì lợi ích quốc gia, dân tộc' được nêu rõ trong phần đối ngoại của
Cương lĩnh và Báo cáo Chính trị tại Ðại hội Ðảng. Nói như vậy không có nghĩa Ðảng ta chưa từng xác định mục

tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Từ khi Ðảng ra đời, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn luôn là mục tiêu
phấn đấu của Ðảng ta. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI đã khẳng định 'Lợi ích cao nhất của Ðảng và
nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế' . Nghị quyết
Trung ương 8, khóa IX nhấn mạnh 'bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc' là một trong những mục tiêu then chốt của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc .
Tuy nhiên, việc nêu rõ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong văn kiện Ðại hội XI của Ðảng
có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định rõ hơn định hướng: Ðảng ta hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại
trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc, từ đó tái khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và
lợi ích của dân tộc. Khẳng định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là Ðại hội đặt lợi
ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Nói cách khác, bảo đảm lợi ích quốc
gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Ðảng đến ngoại
giao nhân dân, đều phải tuân thủ.
Về các nguyên tắc:
Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động đối ngoại bao gồm:
Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà
bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Các nguyên tắc trên là sự cụ thể hoá nguyên tắc bao trùm, xuyên suốt đường lối đối ngoại đổi mới là giữ
vững hoà bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt trong
xử lý các tình huống phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, vị trí của nước ta cũng như diễn biến của tình hình quốc tế,
phù hợp với đặc điểm của từng đối tác mà ta có quan hệ, trong bất kỳ tình huống nào cũng tránh không để rơi
vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc, củng cố hoà bình, an ninh, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển. Phải tuân
thủ khi tiến hành các hoạt động đối ngoại, tái khẳng định các nguyên tắc của đường lối, chính sách đối ngoại thời
kỳ đổi mới, Ðại hội XI nêu: 'Bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển', 'tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc'. Bên cạnh
những nguyên tắc nhất quán này, văn kiện Ðại hội XI, phần định hướng giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên
giới, lãnh thổ, ranh giới trên biển và thềm lục địa với các nước liên quan, nêu thêm nguyên tắc giải quyết các vấn
đề tồn tại trên cơ sở các 'quy tắc ứng xử của khu vực'.
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 14
Về nhiệm vụ của công tác đối ngoại, văn kiện Ðại hội XI nêu rõ: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ

vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Phục vụ các mục tiêu quốc gia về phát triển,
an ninh và nâng cao vị thế đất nước là nhiệm vụ nhất quán trong đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới.
Ðiểm mới trong phần đối ngoại của văn kiện Ðại hội XI là xác định rõ hơn khía cạnh an ninh khi nêu rõ nhiệm
vụ “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ”. Ðộc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ là cơ sở tồn tại của một quốc gia. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ luôn
luôn là một trong những nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Việc nêu rõ điều này trong nhiệm vụ đối ngoại là
nhằm đáp ứng những phát triển mới của tình hình, đồng thời khẳng định vai trò của đối ngoại trong sự nghiệp
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Về phương châm của đường lối đối ngoại
Những phương châm đối ngoại bao gồm: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, coi đó là lợi ích cao nhất, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo
khả năng thực tế của ta. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, phù hợp với từng đối
tượng, trên từng vấn đề và ở từng thời điểm; cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, đấu tranh để hợp tác, tránh trực diện
đối đầu, tự đẩy mình vào thế cô lập; Chú trọng hợp tác khu vực (bao gồm các nước láng giềng có chung biên
giới, các nước trong khu vực Đông Nam Á và các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương); đồng thời
mở rộng quan hệ với tất cả các nước, trong đó có quan hệ với các nước lớn; chủ động tham gia các tổ chức đa
phương khu vực và toàn cầu; Kết hợp chặt chẽ quan hệ ngoại giao của Nhà nước với quan hệ đối ngoại của Đảng
và ngoại giao nhân dân.
Các văn kiện của Ðại hội khẳng định:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế. Ðiểm mới trong phương châm đối ngoại của Ðại hội XI là 'hội nhập quốc tế' và 'thành
viên có trách nhiệm'.
Về hội nhập quốc tế, Ðại hội XI chuyển từ chủ trương 'Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác' được thông qua tại Ðại hội X sang 'chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế'. Với chủ trương này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng
ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội
Thực tiễn những năm qua cho thấy chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng qua các Đại hội VIII, IX, X và

XI đã thường xuyên được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam và thích
ứng với tình hình quốc tế. Chính vì vậy, quá trình thực hiện chính sách đối ngoại chủ động hội nhập quốc tế từ
năm 1996 đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng. Nhờ đó, nước ta đã ra khỏi thế đối đầu thù địch, mở
rộng, phát triển quan hệ song phương và đa phương với khu vực và thế giới, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
thu hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến;
góp phần đưa đất nước có những bước phát triển mới; thế và lực của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên
thương trường và chính trường quốc tế.
Với những bước phát triển mới trong đường lối đối ngoại Ðại hội XI, chúng ta càng tin tưởng chắc chắn
rằng, sự nghiệp đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Ðảng sẽ tiếp tục thu được những thắng lợi mới. Tuy nhiên, để
đường lối sớm đi vào cuộc sống, cần phải có nỗ lực vượt bậc trong tất cả các khâu, từ cụ thể hóa đường lối thành
chính sách đến xây dựng và triển khai chiến lược, kế hoạch, đề án đối ngoại.
Tài liệu tham khảo Môn Quan điểm, đường lối_Lớp TCCT-HC K22 Trang 15

×