Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG EXIMBANK - THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.07 KB, 79 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
1
Trường đại học kinh tế quốc dân
Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế
Chuyên ngành quản trị kinh doanh quốc tế
  
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài:

HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG
EXIMBANK - THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
Giáo viên hướng dẫn : TS. Bùi Huy Nhượng
Sinh viên thực hiện : Bạch Quốc Trung
Lớp : KDQT B
Khóa : 46
Hệ : Chính quy

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
MỤC LỤC
KẾ T LUẬN 76
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1: Bảo lãnh trực tiếp Error: Reference source not found
Sơ đồ 2: Bảo lãnh đối ứng Error: Reference source not found
Sơ đồ 3: Xác nhận bảo lãnh Error: Reference source not found
Bảng 1: Tình hình nguồn vốn của Eximbank qua các năm Error: Reference source not
found
Bảng 2: Tình hình cho vay vốn của Eximbank qua các năm Error: Reference source not


found
Bảng 3 : B iểu phí của nghiệp vụ bảo lãnh Error: Reference source not found
Bảng 4: Doanh thu bảo lãnh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu Error: Reference source not
found
Bảng 5: Doanh thu các loại bảo lãnh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu Error: Reference
source not found
Biểu đồ 1: Bảo lãnh vay vốn xuất nhập khẩu từ 2005 - 2007 . . Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu từ 2005 - 2007 Error: Reference
source not found
Biểu đồ 3: Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước trong hoạt động xuất nhập khẩu Error:
Reference source not found
năm 2005 - 2007 Error: Reference source not found
Biểu đồ 4: Bảo lãnh trong thanh toán xuất nhập khẩu giai đoạn 2005 - 2007 Error:
Reference source not found
Biểu đồ 5: Bảo lãnh bảo đảm chất lượng hàng xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2005 - 2007
Error: Reference source not found
Biểu đồ 6: Bảo lãnh nộp thuế giai đoạn 2005 - 2007 Error: Reference source not found
Biểu đồ 7: Bảo lãnh hạn ngạch giai đoạn 2005 - 2007 . Error: Reference source not found
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quá trình hội nhập WTO đưa nước ta đến những cơ hội mới và thách
thức mới. Như Nhà nước đã dự báo, khi Việt Nam gia nhập WTO thì ngành chịu ảnh
hưởng nhiều nhất đấy là ngành Ngân hàng. Một loạt các ngân hàng mới đã được thành
lập, sự đổ xô vào đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng của các doanh nghiệp nước ngoài
đang khiến cho hoạt động của các ngân hàng trong nước trở nên khó khăn hơn. Mức
độ cạnh tranh gay gắt hơn không những trong các Ngân hàng với nhau mà còn là Ngân

hàng với các tổ chức Tài chính, các Công ty Bảo hiểm…
Ngoài các hoạt động chính của ngân hàng như cho vay hoặc gửi tiết kiệm thì
còn tồn tại các hoạt động ngoại hảng khác. Các hoạt đông này hiện nay đang ngày
càng đóng vai trò quan trọng góp phần nâng cao lợi nhuận cho các Ngân hàng đồng
thời đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Một trong các hoạt động ngoại bảng của
Ngân hàng hiện nay là hoạt động bảo lãnh.
Hoạt động bảo lãnh là một nghiệp vụ được các Ngân hàng thương mại thực
hiện khá lâu và góp phần làm đa dạng hóa các dịch vụ của Ngân hàng, nó giúp cho các
doanh nghiệp có thêm cơ hội phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh và tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp mở rộng quan hệ thương mại của mình. Hiện nay, nhu cầu được bảo
lãnh trong hoạt động kinh doanh nhất là kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp là
rất lớn trong khi sự đáp ứng của các Ngân hàng đối với nhu cầu này còn chưa cao. Các
doanh nghiệp thậm chí là ngay cả các Ngân hàng đang còn gặp rất nhiều vướng mắc
trong quá trình thực hiện nghiệp vụ này.
Ngân hàng Xuất nhập khẩu – Eximbank đã cho ra đời nghiệp vụ bảo lãnh từ lâu song
đối với các nghiệp vụ ngoại bảng khác như nghiệp vụ tín dụng thì nghiệp vụ bảo lãnh
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ngân hàng còn chưa được quan tâm đúng với tiềm năng của Ngân hàng và chưa đáp
ứng tốt nhu cầu bảo lãnh ngày càng nhiều của các doanh nghiệp. Ngân hàng Xuất nhập
khẩu – Eximbank hoạt động liên quan chủ yếu đến các doanh nghiệp có hoạt động gắn
nhiều với kinh doanh quốc tế nên ở đây chủ yếu ta sẽ nói đến nghiệp vụ bảo lãnh xuất
nhập khẩu. Chính vì vậy mà em đã lựa chọn đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp là “Hoạt
động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam – thực
trạng và các giải pháp hoàn thiện” nhằm có thể tìm ra được những tồn tại, nguyên
nhân của những tồn tại của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng từ đó có thể đưa ra một số
giải pháp giúp hoạt động hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu ngày càng tốt hơn.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở phát hiện ra các tồn tại và nguyên nhân của

các tồn tại trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng của Ngân hàng Xuất nhập khẩu –
Eximbank thời gian gần đây và từ đó đề ra được các giải pháp cụ thể để nâng cao hoạt
động bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và bảo lãnh ngân hàng nó chung.
Để thực hiện được mục tiêu trên thì nhiệm vụ của chuyên đề là:
- Hệ thống hóa lý luận về hoạt động bảo lãnh.
- Phân tích thực trạng hoạt đông bảo lãnh xuất nhập khẩu trong Ngân hàng Xuất
nhập khẩu – Eximbank trong thời gian gần đây.
- Đề xuất ra các giải pháp để hoàn thiện hơn nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng
Xuất nhập khẩu – Eximbank.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là vấn đề hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của Ngân
hàng Xuất nhập khẩu – Eximbank
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là hoạt động bảo lãnh nói chung và bảo lãnh xuất nhập
khẩu nói riêng của Ngân hàng Xuất nhập khẩu – Eximbank từ năm 2005 đến 2007.
5. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề của em còn được chia làm 3
phần:
Chương I: Tổng quan về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng
Eximbank Việt Nam
Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân
hàng Eximbank Việt Nam.
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH
NGÂN HÀNG
I.BẢO LÃNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA BẢO LÃNH NGÂN HÀNG

1. Khái niệm về bảo lãnh và bảo lãnh ngân hàng
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay thì hoạt động thương mại đang diễn ra
ngày càng mạnh mẽ, phục vụ cho nhu cầu ngày càng lớn của xã hội về các loại hàng
hoá, dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Hàng loạt các tổ chức được thành lập, các hiệp
định thương mại được ký kết nhằm thúc đẩy sự giao lưu kinh tế, hoạt động thương mại
phát triển. Các hàng rào thương mại được dỡ bỏ và dự đoán thương mại quốc tế sẽ còn
phát triển nhanh và mạnh hơn nữa. Tuy nhiên, điều này cũng ẩn chứa rất nhiều rủi ro
cho cac doanh nghiệp khi tham gia vào thương mại quốc tế do những biến động bất
thường về chính trị-kinh tế-xã hội trên toàn cầu. Khi thương mại mở rộng không biên
giới thì cũng kéo theo những rủi ro về thông tin không đầy đủ, làm xuất hiện sự thiếu
tín nhiệm, thiếu tin cậy giữa các doanh nghiệp. Đây là một cản trở rất lớn cho hoạt
động thương mại, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì
vậy rất cần có một sự đảm bảo để các giao dịch thương mại được diễn ra an toàn, tăng
độ tin cậy giữa các đối tác kinh doanh.
Do nhu cầu cần có đảm bảo trong giao dịch đã làm xuất hiện một loại giao dịch
mới, đó là giao dịch đảm bảo, dựa vào sự đảm bảo của một bên thứ ba có uy tín, tín
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nhiệm , có khả năng và tư cách để đảm bảo cho các quan hệ. Đó chính là hoạt động
bảo lãnh.
1.1 Khái niệm bảo lãnh
Phương thức bảo lãnh là bất cứ một sự bảo lãnh, một sự cam kết hay bất cứ một
sự cam kết thanh toán nào của trung gian tài chính hoặc của pháp nhân hay thể nhân
bằng văn bản là sẽ bồi thường một số tiền nhất định, nếu đến hạn mà người được bảo
lãnh không hoàn thành nghĩa vụ như quy định trên thư bảo lãnh
Theo luật Dân sự Việt Nam điều 336, khái niệm bảo lãnh được xác định “Bảo
lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là
người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người
được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc

thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
1.2 Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng chính là cam kết bằng văn bản của ngân hàng (bên bảo
lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và
hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay.
Cam kết bảo lãnh: Là văn bản bảo lãnh của tổ chức tín dụng, bao gồm:
- Thư bảo lãnh: là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng về
việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận
bảo lãnh.
- Hợp đồng bảo lãnh: Là thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và bên
nhận bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và các bên
liên quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã
cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Trong kinh doanh ngày nay, bảo lãnh ngân hàng luôn được xem như tấm Giấy
thông hành cho doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Việc này không
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
những tạo thuận lợi cho kế hoạch của doanh nghiệp mà các đối tác kinh doanh cũng sẽ
có cơ sở để tin tưởng doanh nghiệp hơn.
2.Đặc điểm:
Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập
Mặc dù nội dung của bảo lãnh được xây dựng trên cơ sở nội dung của hợp đồng
thương mại, hợp đồng vay vốn hay hợp đồng đấu thầu nhưng đặc trưng nổi bật của
bảo lãnh đó là nó độc lập và tách biệt với các quan hệ thương mại và vay nợ. Điều này
có nghĩa là thư bảo lãnh độc lập và tách rời khỏi cơ sở hình thành ra nó. Trong bất kỳ

một bảo lãnh nào cũng tồn tại ít nhất ba mối quan hệ của ba hợp đồng, và tính chất độc
lập của của nó được thể hiện rõ nét trong từng mối quan hệ giữa các bên liên quan.
Thứ nhất là quan hệ giữa người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh (người
thụ hưởng) trong hợp đồng thương mại, hợp đồng vay nợ hay đấu thầu. Đây là hợp
đồng đóng vai trò cốt yếu và là cơ sở cho việc xây dựng hai hợp đồng còn lại.
Thứ hai là quan hệ giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh
trong hợp đồng cung cấp dịch vụ hay tài trợ giữa khách hàng và ngân hàng.
Thứ ba là quan hệ giữa người thụ hưởng và ngân hàng phát hành bảo lãnh thể
hiện qua cam kết bảo lãnh của ngân hàng đối với khách hàng của mình (người được
bảo lãnh).
Như vậy các hợp đồng được hình thành xuất phát từ những mối quan hệ giữa
các đối tượng riêng biệt, đồng thời do được chi phối bởi các mục đích khác nhau nên
tính pháp lý cũng như quyền lợi của các bên liên quan hoàn toàn mang tính độc lập.
Mặc dù giữa các hợp đồng đều có sự ràng buộc theo quan hệ liên đới, mỗi hợp đồng
vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau, song ngân hàng với vai trò là người cung
cấp dịch vụ và cam kết thanh toán sẽ phải thự hiện nghiệp vụ bảo lãnh của mình trên
cơ sở độc lập về quyền và nghĩa vụ riêng biệt trong hai hợp đồng.
Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng
Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng nhưng lại được quản lý như
một nghiệp vụ tín dụng
Bản chất của bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Khi phát hành một
cam kết bảo lãnh, bảng cân đối tài sản của ngân hàng không hề bị thay đổi. Do vậy,
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nghiệp vụ bảo lãnh được coi là một hoạt động ngoại bảng. Tuy nhiên, trong trường
hợp bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng theo các điều khoản được nghi trong cam
kết bảo lãnh, ngân hàng buộc phải sử dụng nguồn vốn của mình để thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh. Nếu bên được bảo lãnh chưa hoàn trả ngay cho
ngân hàng, ngân hàng sẽ cấp một khoản tín dụng bắt buộc cho bên được bảo lãnh. Khi

đó, nghiệp vụ bảo lãnh sẽ tác động đến bảng cân đối tài sản của ngân hàng, ảnh hưởng
đến khả năng thanh khoản và các chỉ tiêu tài chính của ngân hàng. Bởi vây, tuy là một
hoạt động ngoại bảng, bảo lãnh vẫn phải được giám sát và quản lý một cách chặt chẽ
như các hình thức cấp tín dụng khác.
Bảo lãnh ngân hàng mang tính quốc tế và nội địa
So với nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ trong thập niên 30, hoạt động
bảo lãnh chỉ mới được áp dụng từ giữa những năm 60 bắt đầu từ thị trường nội địa của
Hoa Kỳ. Tuy nhiên, từ năm 1970, bảo lãnh đã được sử dụng rộng rãi trong giao dịch
quốc tế như là một công cụ đảm bảo hữu hiệu góp phần thúc đẩy mậu dịch giữa các
nước. Các đối tác làm ăn ở các quốc gia khác nhau thường sử dụng nghiệp vụ bảo lãnh
của ngân hàng như là một hình thức đảm bảo, hạn chế các rủi ro thường gặp do sự
thiếu thông tin, sự khác biệt về không gian, văn hoá, tôn giáo hay do những biến động
về môi trường chính trị và xã hội khác nhau. Hàng loạt các quy chế quốc tế về bảo
lãnh như URCG 325 (1978), URDG 458 (1992) lần lượt xuất hiện, góp phần đảm bảo
việc áp dụng thống nhất các tập quán trên trên cơ sở bình đẳng của các bên liên quan.
Cùng với sự phát triển của bảo lãnh quốc tế thì bảo lãnh cũng ngày càng phổ
biến trong thị trường nội địa vì tính đa dạng của nó. Nếu như tín dụng thư chỉ được sử
dụng trong lĩnh vực thương mại như là một phương tiện thanh toán an toàn cho cả hai
phía, thì bảo lãnh thư là một công cụ được sử dụng rất năng động, có thể đáp ứng các
nhu cầu về thương mại và phi thương mại, tài chính và phi tài chính Tại Việt Nam
hiện nay, hoạt động bảo lãnh đã thực sự phát huy lợi thế của mình trong mạng lưới
giao dịch đang diễn ra trên khắp đất nước. Nghiệp vụ bảo lãnh rất thông dụng không
chỉ trong hoạt động ngân hàng (bảo lãnh trả nợ vay, bảo lãnh rut quá số dư…) mà còn
trong các giao dịch ở mọi lĩnh vực khác như trong lĩnh vực xây dựng (bảo lãnh dự
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thầu, bảo lãnh duy tu), thuế (bảo lãnh trả thuế), hoặc hải quan (bảo lãnh hàng tạm
nhập, tái xuất hay tạm xuất tái nhập)
3.Chức năng của bảo lãnh ngân hàng

Chức năng phòng ngừa rủi ro
Đây là chức năng cơ bản của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Xuất phát từ sự thiếu tin
tưởng lẫn nhau giữa các đối tác, sự rủi ro do khách quan cũng như chủ quan, do đó bảo
lãnh ngân hàng có chức năng là công cụ bảo đảm cho các giao dịch diến ra.Tuy nhiên
chức năng này không hoàn toàn trùng khớp với chức năng phòng ngừa rủi ro trong
hoạt động bảo hiểm. Điều này được thể hiện rõ nét trong mục đích và hình thức của
bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng không bù đắp toàn bộ thiệt hại khi có rủi ro mà nó chỉ
trước hết tạo ra sự đảm bảo tín nhiệm giữa các đối tác trong giao dịch và cam kết đền
bù ở một mức độ cụ thể được ghi trong thư bảo lãnh.
Chức năng đảm bảo pháp lý
Đây chính là mục tiêu và là chức năng tối quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh,
đó là cung cấp một sự đảm bảo cho người thụ hưởng, không chỉ là bảo đảm về thanh
toán mà còn bảo đảm việc thực hiện hợp đồng và nhờ đó đảm bảo sự công bằng về
quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng: trong mối quan hệ dân sự cũng như
kinh tế, ai không thực hiện nghĩa vụ của mình thì người đó phải chịu hậu quả phát
sinh. Bảo lãnh tạo lập sự đảm bảo về nghĩa vụ tài chính và phi tài chính., trong đó
nghĩa vụ tài chính đó là người đi vay phải trả nợ cho ngân hàng theo hợp đồng tín
dụng, người mua phải trả tiền hàng cho người bán, chủ công trình phải trả tiền thi công
cho nhà thầu… còn nghĩa vụ phi tài chính đó là người bán phải giao hàng theo hợp
đồng thương mại cho người mua hay nghĩa vụ nhà thầu phải thực hiện đúng tiến độ
xây dựng.
Như vậy có thể nói bảo lãnh ngân hàng thực chất là hình thức đảm bảo pháp lý
trong giao dịch chứ không hoàn toàn chỉ mang chức năng thanh toán. Đặc biệt các thư
bảo lãnh dùng trong hợp đồng thi công, hợp đồng bảo hành sản phẩm, dự thầu công
trình… là những thoả thuận không mang tính chất mua bán hay thanh toán. Với chức
năng đảm bảo pháp lý này, bảo lãnh có tác dụng đem lại sự tín nhiệm cũng như an tâm
cho các nhà cung cấp vốn, nhà tài trợ trong giao dịch với đối tác.
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Chức năng thúc đẩy
Trong nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng chỉ đứng ra đảm bảo cho việc thực hiện
nghĩa vụ của các doanh nghiệp, tức là chức năng đảm bảo pháp lý. Và như vậy, bản
thân các doanh nghiệp sẽ tự mình quyết định cách thức thực hiện các nghĩa vụ đó, tính
toán sao cho có hiệu quả cũng như phải chịu trách nhiệm trước những hành vi vi phạm
của mình. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của n gười xin bảo lãnh,
buộc họ và các bên có liên quan phải nỗ lực trong việc thực hiện đúng các nghĩa vụ
theo yêu cầu của hợp đồng. Mặt khác, ngay cả đối với người được thụ hưởng bảo lãnh,
họ sử dụng bảo lãnh chỉ như là một công cụ để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng của
Người được bảo lãnh, hạn chế rủi ro nên cho dù họ có quyền yêu cầu ngân hàng phát
hành bảo lãnh thanh toán khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng, nhưng về thực
chất trước và sau khi ký kết, người thụ hưởng vẫn luôn mong muốn người được bảo
lãnh thực hiện đúng theo hợp đồng chứ không trông chờ vào một khoản bồi hoàn tài
chính từ phía ngân hàng phát hành bảo lãnh. Nên chức năng đảm bảo thực hiện hợp
đồng của bảo lãnh thường được thực hiện hơn chức năng đảm bảo tài chính.
Chức năng tài trợ
Chức năng này được thể hiện rõ nét trong việc cấp bảo lãnh cho người xin bảo
lãnh. Không phải bất cứ yêu cầu bảo lãnh nào cũng được ngân hàng chấp nhận, nó còn
phụ thuộc và nhiều điều kiện cụ thể. Do đó bảo lãnh ngân hàng có chức năng tài trợ
gián tiếp để các doanh nghiệp có đủ điều kiện thực hiện các giao dịch, được nhận các
khoản tiền ứng trước, nhận được các khoản tín dụng hàng hoá và tín dụng tiền tệ. Bên
cạnh đó, do bảo lãnh chủ yếu được sử dụng trong các hợp đồng thi công và thậm chí
một số hợp đồng buôn bán lớn, có tính phức tạp như các hợp đồng bảo lãnh liên quan
đến các công trình xây dựng lớn, hay các mua bán vật tư, thiết bị sản xuất theo phương
thức trả chậm với các đối tác quốc tế Hầu hết các hợp đồng này đều đòi hỏi phải có
một khoảng thời gian dài mới hoàn tất. Nên Người được bảo lãnh sẽ gặp nhiều rủi ro
và gặp nhiều rủi ro về tài chính, cho nên khi một ngân hàng đứng ra phát hành bảo
lãnh thanh toán hay bảo lãnh hoàn tiền ứng trước, bảo lãnh vay vốn cho Người được
bảo lãnh đồng nghĩa với việc ngân hàng cung cấp một công cụ tài trợ, giúp Người
được bảo lãnh có được khoản tài trợ ngắn hạn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sự tài trợ này cũng có thể được cung cấp trực tiếp do uy tín và quan hệ lâu dài
của khách hàng với ngân hàng, hoặc do sự chỉ định của chính phủ để doanh nghiệp có
thể thực hiện được các dự án lớn, phát triển các ngành mũi nhọn trong toàn bộ cơ cấu
nền kinh tế.
4.Vai trò của bảo lãnh
4.1 Đối với ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng ra đời làm phong phú hơn hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, là một trong những dịch vụ hiện đại được các ngân hàng thương mại không
ngừng hoàn thiện, mở rộng và phát triển đáp ứng được các yêu cầu tổng hợp cũng như
tính đặc thù cao của nền kinh tế. Ngày nay, bảo lãnh ngân hàng đã trở thành một
nghiệp vụ chủ yếu của các ngân hàng thương mại trên thế giới.
Từ khi ra đời và trong quá trình phát triển của mình, bảo lãnh ngân hàng luôn
cố gắng phát huy đầy đủ vai trò và các chức năng quan trọng của mình. Chính vì thế,
ngày nay nghiệp vụ bảo lãnh được coi là một trong các công cụ kiểm soát hữu hiệu,
điều tiết nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Bản thân các
ngân hàng thương mại ngày nay không còn xem bảo lãnh đơn thuần là tín dụng gián
tiếp mà là một nghiệp vụ đem lại cho ngân hàng các lợi ích thiết thực sau:
Thu phí dịch vụ
Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để thu phí dịch vụ theo phần trăm tính
trên doanh số bảo lãnh. Ngân hàng có thể thu phí một lần đối với các khoản bảo lãnh
ngắn ngày như bảo lãnh dự thầu, hoặc thu hàng quý đối với các khoản bảo lãnh dài
ngày như bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Nguồn vốn từ khoản ký quỹ
Luật pháp bắt buộc muốn được bảo lãnh thì khách hàng phải ký quỹ bảo lãnh.
Khoản này sẽ được gửi vào tài khoản phong toả tại ngân hàng bảo lãnh trong suốt thời
gian bảo lãnh, cho nên đối với ngân hàng thì đây là nguồn vốn khá ổn định mà thông
thường là được quy định không phải trả lãi.

Lãi cho vay ký quỹ
Do thông thường tiền khách hàng phải ký quỹ tại ngân hàng để được bảo lãnh
là khá lớn nên trong đó có thể có một phần là vốn tự có của khách hàng và phần lớn là
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khách hàng phải thế chấp tài sản để vay tiền ký quỹ bảo lãnh nên ngân hàng có thể vừa
cho vay ký quỹ tương đối an toàn, lại vừa thu được lãi vay.
Hoạt động an toàn
Nội dung của thư bảo lãnh thường có các điều kiện ràng buộc rõ ràng và minh
bạch, do đó ngân hàng có thể đảm bảo hoạt động của mình diễn ra an toàn, ràng buộc
khách hàng xin bảo lãnh phải thực hiện các dịch vụ thanh toán đồng thời thu được phí
dịch vụ cho ngân hàng.
4.2 Đối với doanh nghiệp
Đối với bên được hưởng bảo lãnh
Bảo lãnh có tác dụng đảm bảo cho doanh nghiệp an tâm khi tham gia vào các
giao dịch, đặc biệt là giao dịch quốc tế, giúp các doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và
chi phí, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Đồng thời bảo lãnh cũng đảm bảo bù đắp thiệt
hại nhanh nhất khi có rủi ro. Trong giao dịch bảo lãnh, người được hưởng bảo lãnh
luôn được ưu tiên thanh toán theo yêu cầu đầu tiên.
Đối với bên xin bảo lãnh
Trước hết bảo lãnh tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đủ tư cách tham gia đấu
thầu hoặc thực hiện hợp đồng, thúc đẩy sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bảo
lãnh ngân hàng còn giúp doanh nghiệp tìm được nguồn vốn để mua sắm trang thiết bị,
công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo cơ hội mở rộng thị trường ra nước
ngoài qua hoạt động thương mại quốc tế.
Hơn nữa, để được ngân hàng đồng ý bảo lãnh, doanh nghiệp phải có chế độ
hạch toán kế toán minh bạch, tình hình tài chính lành mạnh, vì ngân hàng coi việc cấp
bảo lãnh như một hình thức cấp tín dụng và doanh nghiệp phải thoả mãn những điều
kiện nhất định. Bảo lãnh ngân hàng có vai trò thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu

quả sản xuất, có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
II.PHÂN LOẠI BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1. Theo mối quan hệ giao dịch
1.1 Bảo lãnh trực tiếp
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng phát hành cam kết không
huỷ ngang, trực tiếp trả tiền cho người thụ hưởng hay nói cách khác chịu mọi trách
nhiệm và nghĩa vụ trực tiếp đối với người nhận bảo lãnh. Bảo lãnh trực tiếp thường
được ngân hàng người xin bảo lãnh phát hành. Trong trường hợp người nhận bảo lãnh
ở một nước khác, bảo lãnh sẽ được thông báo qua ngân hàng đại lý tại nước sở tại của
ngân hàng phát hành. Ngân hàng này chỉ đóng vai trò là ngân hàng thông báo và
chuyển nội dung thư bảo lãnh chứ không được coi là ngân hàng thanh toán, không
chịu trách nhiệm về nội dung thư bảo lãnh và các tranh chấp phát sinh nếu có sau này.
Sơ đồ 1: Bảo lãnh trực tiếp
Trường hợp đặc biệt của phương thức bảo lãnh trực tiếp là bảo lãnh phát hành trái
phiếu. Ngân hàng phát hành cũng có nghĩa vụ trực tiếp với công ty thực hiện phát
hành trái phiếu nhưng người yêu cầu bảo lãnh và người thụ hưởng là một. Ngân
hàng và công ty phát hành trái phiếu sẽ ký kết hợp đồng bảo lãnh thanh toán qua
trái phiếu đối với người mua. Nếu công ty không thu đủ số tiền cần huy động trong
lần phát hành trái phiếu, ngân hàng sẽ bù đắp. Loại hình bảo lãnh này hiện đang
được sử dụng phổ biến và thông dụng không chỉ trong giao dịch tại thị trường nội
địa mà cả trong giao dịch quốc tế. Tuy nhiên, bảo lãnh trực tiếp dễ gây rủi ro do
khoảng cách xa xôi và thủ tục đòi tiền phức tạp.
1.2 Bảo lãnh gián tiếp
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
Ngân hàng
phát hành
(Issuing bank)

Bên thụ hưởng
(Beneficiary)
Bên được
bảo lãnh
(Principal)
Ngân hàng
Thông báo
(Advising bank)
Thông
báo
(1) Hợp đồng
thương mại
(2) Yêu
cầu phát
hành
bảo lãnh
Bảo lãnh
(3) cam kết
bảo lãnh
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảo lãnh gián tiếp là một bảo lãnh mà trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát
hành bảo lãnh theo chỉ thị của một nhân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo
lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không
chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành mà chính ngân hàng
trung gian chịu trách nhiệm bồi hoàn. Cũng tương tự như bảo lãnh trực tiếp, ngân hàng
phát hành bảo lãnh có thể thông báo trực tiếp tới người hưởng thụ hay thông qua một
ngân hàng thông báo.
Ngân hàng thứ nhất (hay còn gọi là ngân hàng chỉ dẫn) đồng ý phát hành một
thư bảo lãnh theo chỉ thị của người xin bảo lãnh đến ngân hàng thứ hai thụ hưởng,

đồng thời chỉ thị cho ngân hàng thứ hai (ngân hàng phát hành bảo lãnh trực tiếp) phát
hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng. Quan hệ giữa ngân hàng thứ nhất và ngân
hàng thứ hai cũng tương tự như quan hệ giữa ngân hàng thứ nhất và người được bảo
lãnh. Trong hình thức bảo lãnh này, ngân hàng thứ hai là ngân hàng cam kết đảm bảo
trực tiếp và chịu nghĩa vụ tài chính với người nhận bảo lãnh. Người hưởng không
được quyền và không phải đòi tiền tại ngân hàng chỉ thị mà là tại ngân hàng phát hành.
Khi nhận được đòi tiền, ngân hàng phát hành thanh toán cho người thụ hưởng
và thu lại số tiền này từ tài khoản của ngân hàng chỉ thị theo cam kết trong bảo lãnh
đối ứng.
Sơ đồ 2: Bảo lãnh đối ứng
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
15
Ngân hàng phát hành
(Issuing bank)
Bên thụ hưởng
(Beneficiary)
Bên được bảo lãnh
(Principal)
Ngân hàng
Thông báo
(Advising bank)
Thông
báo
(1) Hợp
đồng thương
mại
Bảo lãnh
(4)Cam
kết bảo
lãnh

Ngân hàng chỉ thị
(Instructing bank)
(2) Yêu cầu phát hành
(3) Bảo lãnh đối ứng
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảo lãnh đối ứng được sử dụng chủ yếu trong trường hợp Bên thụ hưởng là
người nước ngoài, Ngân hàng phát hành là ngân hàng đại lý của Ngân hàng chỉ thị tại
quốc gia của Bên thụ hưởng. Bảo lãnh đối ứng cũng được sử dụng khi Ngân hàng phát
hành là do Bên thụ hưởng chỉ định, nhưng lại không có quan hệ với Bên được bảo
lãnh. Khi đó, Bên được bảo lãnh có thể yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành
một bảo lãnh đối ứng cho Ngân hàng phát hành.
1.3 Xác nhận bảo lãnh
Sau khi nhận được thư bảo lãnh từ Ngân hàng phát hành, ngân hàng phục vụ bên
thụ hưởng đóng thêm xác nhận đảm bảo khả năng thanh toán vào thư bảo lãnh trước
khi thông báo cho bên thụ hưởng.
Trong trường hợp Bên được bảo lãnh vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết, Ngân
hàng xác nhận sẽ thay mặt Bên thụ hưởng tiến hành truy đòi đối với Ngân hàng phát
hành và Ngân hàng phát hành sẽ bồi thường cho Bên thụ hưởng thông qua Ngân hàng
xác nhận. Nếu Ngân hàng phát hành không thực hiện được nghĩa vụ bảo lãnh thì Ngân
hàng xác nhận phải thực hiện thay và coi đây là một khoản cho vay bắt buộc đối với
Ngân hàng phát hành.

Sơ đồ 3: Xác nhận bảo lãnh
Với xác nhận bảo lãnh, Bên thụ hưởng sẽ được đảm bảo chắc chắn hơn bằng uy tín
và khả năng tài chính của hai ngân hàng: Ngân hàng phát hành và Ngân hàng xác
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
Ngân hàng
phát hành
(Issuing bank)


Bên thụ hưởng
(Beneficiary)
Bên được bảo lãnh
(Principal)
Ngân hàng
Xác nhận
(Confirming bank)
(4) Xác
nhận bảo
lãnh và
thông báo
(1) Hợp
đồng thương
mại
(2) Yêu
cầu phát
hành
bảo lãnh
(3) Tư bảo
lãnh
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nhận. Xác nhận bảo lãnh chủ yếu áp dụng trong trường hợp Bên thụ hưởng thiếu
thông tin về Ngân hàng phát hành hoặc khó khăn trong việc trực tiếp thực hiện
quyền truy đòi.
2. Theo tính chất bảo đảm
2.1 Bảo lãnh vô điều kiện
Bảo lãnh vô điều kiện hay còn gọi là bảo lãnh theo yêu cầu là dạng bảo lãnh có
tính chất độc lập với các giao dịch khác, kể cả hợp đồng là cơ sở để bảo lãnh được
phát hành. Do vậy, nó được goi theo thuật ngữ chung là Independent Guarantee.

Người phát hành bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ của mình ghi trong bảo lãnh ngay
khi nhận được yêu cầu (first demand, on demand) thông qua việc xuất trình một số
chứng từ do người nhận bảo lãnh hay còn gọi là người thụ hưởng bảo lãnh phát hành,
mà không được viện dẫn bất kỳ một lý do chủ quan hay khách quan nào. Loại bảo lãnh
này thường được sử dụng rất phổ biến vì sự thuận tiện và lợi thế cho người thụ hưởng
và phù hợp với tập quán và thông lệ giao dịch của ngân hàng thương mại trên thế giới.
Tuy nhiên, cũng vì vậy mà nó có một nhược điểm là có thể xảy ra gian lận, thậm chí
lừa đảo nếu người thụ hưởng là đối tác không trung thực gian dối do việc đòi bồi
thường mang tính chủ quan.
2.2 Bảo lãnh có điều kiện
Theo hình thức bảo lãnh này thì người hưởng thụ bảo lãnh nếu muốn được bồi
thường thiệt hại thì phải xuất trình chứng từ của phía thứ ba hoặc của toà án chứng minh sự
vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của người được bảo lãnh. Do có những điều kiện xác lập
chứng từ như vậy nên bảo lãnh có điều kiện về bản chất rất tương đồng với nghiệp vụ bảo
hiểm, theo đó người được bảo hiểm phải xuất trình các chứng từ chứng minh sự tổn thất thì
mới được bồi thường. Mặc dù các điều kiện này gây khó khăn cho người thụ hưởng do
việc bồi thường không được thực hiện ngay, mà phải qua các thủ tục pháp lý khác nhưng
phía người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành lại hài lòng vì nó đảm bảo tính khách
quan. Tuy nhiên, quan trọng và có ý nghĩa hơn là nó có tác dụng ngăn ngừa tối đa sự gian
lận hoặc lừa đảo của phía người nhận bảo lãnh, điều có thể xảy ra và đã xảy ra trên thế giới
và ngay cả ở Việt Nam.
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Do tính chất kém linh hoạt và không phù hợp với thông lệ giao dịch của ngân
hàng nên bảo lãnh có điều kiện ít được sử dụng trong nghiệp vụ ngân hàng. Người ta
cho rằng dạng bảo lãnh này không đúng với bản chất của bảo lãnh theo đúng nghĩa của
nó mà thuộc kiểu bảo đảm trong lĩnh vực bảo hiểm. Bảo lãnh có điều kiện hiện nay chỉ
được sử dụng nhiều ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi và rất ít được ưa chuộng tại Châu
Âu. Một số nước khác thì chấp nhận dạng bảo lãnh được pha trộn tính chất của hai loại

bảo lãnh vô điều kiện và bảo lãnh có điều kiện, miễn rằng các bên chấp nhận và ngân
hàng đồng ý phát hành.
3. Theo tính hiệu lực của bảo lãnh
Theo tính hiệu lực của bảo lãnh, bão lãnh được chia thành bảo lãnh theo món,
bảo lãnh theo hạn mức và bảo lãnh tuần hoàn:
- Bảo lãnh theo món là bảo lãnh do ngân hàng phát hàng theo hợp đồng bảo
lãnh ký kết từng lần. Theo đó hợp đồng bảo lãnh chỉ có hiệu lực một lần duy nhất. Bảo
lãnh theo món thường được áp dụng đối với khách hàng không có nhu cầu được bảo
lãnh thường xuyên.
- Bảo lãnh theo hạn mức là bảo lãnh do ngân hàng phát hành theo hợp đồng bảo
lãnh hạn mức đã được ký kết áp dụng trong một thời gian nhất định. Khi có nhu cầu
được bảo lãnh, khách hàng chỉ cần trình các giấy tờ cần thiết và ký kết với ngân hàng
một hợp đồng bảo lãnh nhỏ căn cứ theo hợp đồng bảo lãnh chính. Bảo lãnh theo hạn
mức được áp dụng với những khách hàng có nhu cầu bảo lãnh thường xuyên, chủ yếu
là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và doanh nghiệp xây lắp.
- Bảo lãnh tuần hoàn là loại bảo lãnh ngân hàng mà hiệu lực và giá trị của nó tự
động lặp lại sau một khoảng thời gian nhất định. Bảo lãnh tuần hoàn được áp dụng chủ
yếu với những khách hàng có nhu cầu bảo lãnh với giá trị ổn định theo một chu kỳ
nhất định ví dụ như bảo lãnh thanh toán để nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản
xuất…
4. Theo tính chất chuyển nhượng
Theo tính chất chuyển nhượng của bảo lãnh, có hai loại: bảo lãnh có thể chuyển
nhượng và bảo lãnh không thể chuyển nhượng:
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Bảo lãnh có thể chuyển nhượng là loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh có thể
chuyển quyền thụ hưởng cho một đối tượng khác không giới hạn.
- Bảo lãnh không thể chuyển nhượng là loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh
không được chuyển quyền thụ hưởng cho đối tượng khác.

Tính chất chuyển nhượng của bảo lãnh phải được quy định rõ ngay khi phát
hành bảo lãnh.
5. Theo đối tượng bảo lãnh
Cách phân loại này dựa trên tính chất của hợp đồng cơ sở giữa người được bảo
lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh.
5.1 Bảo lãnh dự thầu
Đây là cam kết của của tổ chức tín dụng với bên mời thầu, để bảo đảm nghĩa vụ
tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp, khách hàng phải nộp phạt do vi phạm
quy định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu
thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
Bảo lãnh dự thầu thường có giá trị 1%-5% giá trị hợp đồng với điều kiện thanh
toán là theo yêu cầu (on demand). Nếu người dự thầu hoạt động ở nước ngoài, chủ
công trình sẽ yêu cầu bảo lãnh dự thầu gián tiếp. Người thụ hưởng bảo lãnh (chủ công
trình) sẽ có quyền đòi tiền khi người dự thầu vi phạm cam kết dự thầu, ngay cả trường
hợp người dự thầu không cung cấp bảo lãnh thực hiện hợp đồng sau khi ký hợp đồng.
5.2 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu:
Trong hoạt động xuất nhập khẩu quốc tế, đây là cam kết của ngân hàng với bên
nhận bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng
theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp
đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu thanh toán bảo lãnh : không
thực hiện đúng tiến độ giao hàng, hay tiến độ xây dựng công trình và ngân hàng sẽ
thanh toán thay.
Hiện nay bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu được sử dụng rất phổ
biến tại Việt Nam do trong giao dịch thương mại, người mua nước ngoài lo ngại phía
Việt Nam không giao hàng hoặc giao hàng không đúng thời hạn quy định trong hợp
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đồng. Bên cạnh đó, trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì

nhu cầu đối với bảo lãnh dự thầu cũng ngày càng tăng do ngày càng nhiều các doanh
nghiệp Việt Nam cũng như nước ngoài tham gia đấu thầu các công trình mang tầm cỡ
quốc gia và quốc tế.
5.3 Bảo lãnh thanh toán trong hoạt động xuất nhập khẩu
Đây là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh, về việc sẽ thực hiện nghĩa
vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của mình khi đến hạn. Ngân hàng cam
kết sẽ chi trả tiền thi công công trình, phí sửa chữa thiết bị, tiền thuê máy móc, chuyên
gia, công nghệ hay tiền bán hàng hoá, tiền gia công cho người nhận bảo lãnh.
Bảo lãnh thanh toán thường có những điều kiện trả tiền mang tính khách quan
hơn là các bảo lãnh vô điều kiện khác. Nó yêu cầu người hưởng phải xuất trình hoá
đơn bán hàng cho người mua và có thể được xác thực bởi một bên thứ ba như hải quan
cửa khẩu. Thông thường bảo lãnh thanh toán bằng 100% giá trị hợp đồng. Thời hạn
hiệu lực của bảo lãnh thanh toán do các bên tự thoả thuận, thường kết thúc khi việc
thanh toán hoàn tất. Thời hạn và giá trị của bảo lãnh thanh toán có thể giảm dần theo
tiến độ thanh toán cho người hưởng.
5.4 Bảo lãnh vay vốn
Đây là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh, về việc sẽ trả nợ thay cho
khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn
nợ gốc và lãi đối với bên nhận bảo lãnh ngay khi bên này có yêu cầu.
Bảo lãnh vay vốn mang tính rủi ro cao cho ngân hàng bảo lãnh nên việc thực hiện
chúng rất phức tạp và đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng về phía ngân hàng. Ngân hàng cần phải
xem xét đến tính khả thi của dự án vay vốn, các điều kiện về tài sản cầm cố, thế chấp, mức
ký quỹ phù hợp. Có trường hợp ngân hàng bảo lãnh có thể yêu cầu ký quỹ dến 100% giá
trị thư bảo lãnh. Thời hạn hiệu lực do các bên tự thoả thuận. Giá trị bảo lãnh có thể gồm cả
nợ gốc lẫn lãi tuỳ thuộc yêu cầu của bên cho vay.
5.5 Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước
Đây là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ
hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD

20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng trước mà
không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ thì ngân hàng sẽ thực hiện thay.
Bảo lãnh này chỉ có hiệu lực khi hợp đồng cơ sở đã được thực hiện. Thời hạn
của bảo lãnh thường gắn liền với thời hạn của hợp đồng cơ sở và giá trị bảo lãnh có
thể giảm dần theo kỳ hạn trả nợ hoặc tiến độ giao hàng.
Bảo lãnh trả nợ vay thường được thực hiện trong hệ thống các ngân hàng
thương mại Việt Nam hay giữa các ngân hàng trong nước và nước ngoài nhằm mục
tiêu luôn đảm bảo nguồn tài trợ cho Việt Nam được hoàn trả đủ và đúng hạn
6. Các loại bảo lãnh khác
6.1 Thư tín dụng dự phòng
Thư tín dụng dự phòng là loại tín dụng chứng từ hoặc một thoả thuận tương tự,
dù được gọi hay miêu tả thế nào, theo đó ngân hàng cam kết với người thụ hưởng sẽ
trả một khoản tiền mà người yêu cầu mở tín dụng thư đã thanh toán hoặc ứng trước,
hay thanh toán một khoản nợ của người mở, hoặc bồi thường những thiệt hại do người
mở không thực hiện được nghĩa vụ của mình.
6.2 Bảo lãnh vận đơn
Mục đích của bảo lãnh này là nhằm bảo vệ những người có quyền lợi chính
đáng trước sự lợi dụng vận đơn. Trị giá bảo lãnh thường từ 100%-150% giá trị hàng
hoá để có thể bù đắp thiệt hại phát sinh. Bảo lãnh vận đơn gồm hai loại chính:
- Loại thứ nhất: người xuất khẩu là người đề nghị phát hành bảo lãnh. Ngân
hàng sẽ cam kết với nhà nhập khẩu bồi thường mọi thiệt hại phát sinh đối với người
này do việc vận hơn gốc không được xuất trình hoặc xuất trình không kịp thời.
- Loại thứ hai: người nhập khẩu là người đề nghị phát hành bảo lãnh. Ngân
hàng cam kết với người vận tải sẽ chịu bồi thường mọi thiêt hại nếu hàng hoá được
giao không có chứng từ cho một người không có quyền nhận hàng, do chứng từ thất
lạc hoặc đến chậm hơn tàu, hoặc chủ hãng vận tải được uỷ nhiệm nhận hàng không có
chứng từ.
6.3 Bảo lãnh sai sót chứng từ nhờ thu

Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Mục đích của loại bảo lãnh này là nhằm đền bù thiệt hại trong khuôn khổ
phương thức thanh toán nhờ thu do việc xuất trình giấy tờ, chứng từ không phù hợp
hoàn toàn với những điều khoản của hợp đồng mua bán hoặc số lượng chứng từ thiếu
không được bổ sung.
6.4 Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm
Là cam kết của của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách
hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký
kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và
phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ thì ngân hàng sẽ thực hiện thay.
6.5 Bảo lãnh hối phiếu
Là cam kết của ngân hàng sẽ trả tiền cho người hưởng lợi khi hối phiếu đến hạn
trả tiền mà người được bảo lãnh không thực hiện các trách nhiệm về tài chính của
mình như đã quy định. Với hình thức bảo lãnh này phải ghi rõ nội dung và kèm theo
chữ ký của người đại diện đứng ra bảo lãnh. Ngân hàng chịu trách nhiệm đến mức như
trách nhiệm của người được bảo lãnh đối với bên thụ hưởng trừ khi ngân hàng đã quy
định trong hối phiếu.
6.6 Bảo lãnh thuế quan
Trong nhiều trường hợp hàng hoá được nhập khẩu vào một nước nào đó
nhằm mục đích trưng bày tại triển lãm hay tham dự hội chợ trong một khoảng thời
gian xác định rồi sẽ tái xuất. Hay trong trường hợp một công ty thi công cần nhập khẩu
máy móc vào một nước nào đó để thi công nhưng sau khi thi công xong lại xuất khẩu
máy móc đó về bản quốc. Những hàng hoá hay máy móc đó theo quy định của hải
quan các nước thì sẽ không phải nộp thuế xuất nhậnp khẩu. Do vậy, hải quan nước mà
hàng hoá đó được tạm nhập, tái xuất sẽ yêu cầu chủ hàng phải có một bảo lãnh nhằm
đảm bảo rằng nếu quá thời hạn đăng ký mà hàng hoá hay máy móc đó không tái xuất
thì hải quan sẽ có quyền yêu cầu Người bảo lãnh thanh toán tiền thuế nhập khẩu và

tiền phạt
6.7 Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là một lĩnh vực hoạt động của ngân hàng
thương mại được phép hỗ trợ cho công ty phát hành chứng khoán của mình, hoặc chủ
sở hữu chứng khoán phát hành và phân phối chứng khoán bằng việc thoả thuận mua
bán chứng khoán để bán lại hoặc bán chứng khoán thay mặt người phát hành hay
người chủ sở hữu. Bởi vì có những công ty muốn phát hành chứng khoán của mình ra
thị trường nhưng quá trình này gặp khó khăn do uy tín của công ty chưa đủ để công
chúng tín nhiệm hay mạng lưới cung ứng của nó còn yếu. Ngân hàng sẽ căn cứ vào
mục đích của đợt phát hành cổ phiếu, khả năng tài chính, hiệu quả sử dụng vốn, loại
hàng hoá dự định sản xuất, quan hệ của công ty với ngân hàng để quyết định có bảo
lãnh hay không. Có các loại thoả thuận giữa ngân hàng và nhà phát hành chứng khoán
là: cam kết làm hết sức mình (best effort), cam kết hoặc là mua hết hoặc là không mua
gì hết (all or none), cam kết sẵn sàng hỗ trợ (stand by).
III.NỘI DUNG CỦA BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1. Trình tự phát hành bảo lãnh ngân hàng
Tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh khi có đủ các
điều kiện sau đây:
- Nghĩa vụ bảo lãnh đã đến hạn
- Bên nhận bảo lãnh có văn bản đề nghị tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh
- Các tài liệu chứng minh khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh, nếu cam kết bảo lãnh có đề
cập như là một điều kiện để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Tổ chức tín dụng kiểm tra các tài liệu, nếu phù hợp với cam kết bảo lãnh thì
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Sau khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, tổ chức tín dụng yêu
cầu khách hàng thực hiện việc bồi hoàn theo các bước sau:

Đối với trường hợp bảo lãnh thông thường
- Tổ chức tín dụng bảo lãnh thông báo cho khách hàng kèm các tài liệu liên quan,
yêu cầu khách hàng hoàn trả số tiền mà tổ chức tín dụng đã trả thay.
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Sau khi nhận được thông báo của tổ chức tín dụng khách hàng có nghĩa vụ hoàn
trả nợ hoặc có văn bản xác nhận nợ với tổ chức tín dụng về số tiền mà tổ chức
tín dụng đã trả thay. Sau 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, nếu khách
hàng chưa hoàn trả, hoặc chưa có văn bản xác nhận nợ thì tổ chức tín dụng hạch
toán ghi nợ cho khách hàng ( ngày hạch toán ghi nợ là ngày tổ chức tín dụng đã
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho khách hàng). Khách hàng phải chịu lãi suất nợ
quá hạn do các bên thỏa thuận nhưng không quá 150% lãi suất trong hợp đồng
giữa khách hàng và bên nhận bảo lãnh ( trong trường hợp bảo lãnh vay vốn)
hoặc lãi suất cho vay ngắn hạn mà tổ chức tín dụng đang thực hiện, kể từ ngày
tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với số tiền đã trả thay.
- Trường hợp vì lý do khách quan như thiên tai, hỏa hoạn, những khó khăn tài
chính tạm thời và những lý do khách quan khác hoặc việc trả nợ cho bên nhận
bảo lãnh không phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh, khách hàng chưa thực
hiện được nghĩa vụ đúng hạn đối với bên nhận bảo lãnh. Trên cơ sở đề nghị của
khách hàng trong văn bản xác nhận nợ, tổ chức tín dụng có thể xem xét định lại
kỳ hạn trả nợ và áp dụng lãi suất cho vay thông thường đối với số tiền mà tổ
chức tín dụng đã trả thay.
- Tổ chức tín dụng bảo lãnh có quyền thực hiện các biện pháp như phát mại tài
sản bảo đảm, trích tài khoản của khách hàng ( nếu có thỏa thuận trước), khởi
kiện ra cơ quan pháp luật và các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm khác theo quy
định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ và các
văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định này để thu hồi số tiền đã trả thay.
Đối với trường hợp bảo lãnh đối ứng
Sau khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng, bên phát hành bảo lãnh đối ứng có

quyền yêu cầu khách hàng hoàn trả cho mình số tiền bên phát hành bảo lãnh đối ứng
đã trả cho tổ chức tín dụng bảo lãnh. Trình tự thực hiện việc hoàn trả nợ hoặc nhận nợ
giữa bên phát hành bảo lãnh đối ứng và khách hàng thực hiện tương tự như đối với bảo
lãnh thông thường.
Đối với trường hợp xác nhận bảo lãnh
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sau khi bên xác nhận bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay cho bên được
xác nhận bảo lãnh, bên xác nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được xác nhận bảo
lãnh hoàn trả cho mình số tiền bên xác nhận bảo lãnh đã thanh toán cho bên nhận bảo
lãnh. Trình tự thực hiện việc hoàn trả nợ hoặc nhận nợ của bên được xác nhận bảo
lãnh đối với bên xác nhận bảo lãnh thực hiện tương tự như đối với bảo lãnh thông
thường.
Việc bảo lãnh chấm dứt trong các trường hợp sau:
- Nghĩa vụ bảo lãnh được tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện đầy đủ.
- Nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt theo quy định của pháp luật.
- Bên được bảo lãnh đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với bên nhận bảo
lãnh.
- Bên nhận bảo lãnh đồng ý hủy bỏ bảo lãnh theo các quy định của pháp luật.
- Việc bảo lãnh được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác do các bên thỏa
thuận.
- Thời hạn của bảo lãnh đã hết hiệu lực trong trường hợp bảo lãnh có quy đinh về
thời hạn hiệu lực của bảo lãnh.
- Tổ chức tín dụng bảo lãnh chấm dứt hoạt động thì nghĩa vụ bảo lãnh được thực
hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
Ngoài ra cần lưu ý xử lý trong một số trường hợp sau:
- Đối với trường hợp tổ chức tín dụng bảo lãnh cho một nghĩa vụ mà nhiều khách
hàng cùng tham gia thực hiện thì các bên tham gia có trách nhiệm hoàn trả nợ
hoặc nhận nợ với tổ chức tín dụng theo tỷ lệ tương ứng với phần nghĩa vụ của

mình trong nghĩa vụ chung. Nếu một trong các bên tham gia không thực hiện
được phần nghĩa vụ của mình thì tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu bất kỳ bên
nào trong số các bên tham gia phải thực hiện phần nghĩa vụ đó.
Trường hợp chỉ một tổ chức tín dụng trong số nhiều tổ chức tín dụng đồng bảo lãn
cho một nghĩa vụ của khách hàng được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh
của mình thì những tổ chức tín dụng khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của
Bạch Quốc Trung – KDQTB, K46, ĐH KTQD
25

×