Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

17 luật hợp tác xã 2003 những điều cần bàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.65 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 2
CHƯƠNG I: NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA LUẬT HỢP TÁC
XÃ 2003
3
1. Làm rõ bản chất HTX và chính sách nhà nước đối với HTX
theo tư duy mới
3
2. Mở rộng đối tượng được tham gia xã viên HTX 5
3. Đơn giản hóa thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh 5
4. Bỏ quy định về Điều lệ mẫu và bổ sung những nội dung quan
trọng quy định về Điều lệ HTX
6
5. Tách chức năng quản lý với chức năng điều hành HTX 7
6. Làm rõ tài sản và vốn không chia trong HTX 8
7. Làm rõ vị trí, chức năng của Liên minh HTX 8
8. Làm rõ quản lý nhà nước đối với HTX 9
9. Làm rõ các chính sách của Nhà nước đối với HTX 9
CHƯƠNG II: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA LUẬT HỢP TÁC XÃ
2003 ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỢP TÁC XÃ Ở VIỆT NAM
11
1. Mục tiêu của Luật Hợp tác xã 2003 11
2. Chuyển đổi các “hợp tác xã kiểu cũ” sang “hợp tác xã kiểu
mới”
11
Kết luận 17
1
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế hợp tác nói chung và hợp tác xã nói riêng là những hình thức tổ
chức kinh tế-xã hội ra đời một cách khách quan trong quá trình phát triển của


nền kinh tế. Trong điều kiện của Việt Nam, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các
hợp tác xã được xem là bộ phận quan trọng nhất của thành phần kinh tế tập
thể, một trong hai thành phần kinh tế cơ bản của nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính sách chung của Đảng và Nhà nước, do vậy, đặc biệt khuyến khích
phát triển các hợp tác xã nói chung và kinh tế hợp tác nói riêng.
Trong khuôn khổ bài viết này em xin tập trung phân tích “Những ảnh
hưởng của Luật Hợp tác xã 2003 đến sự phát triển của hợp tác xã ở Việt
Nam”.
Thực tế, để có thể hiểu được vấn đề một cách thấu đáo cần phải phân
tích sâu hơn lý do vì sao kinh tế hợp tác và các hợp tác xã lại được đặc biệt
coi trọng ở Việt Nam cả trên phương diện lý thuyết, đặc biệt là từ góc độ kinh
tế-chính trị, và lịch sử. Bên cạnh đó, cũng cần phải phân tích bối cảnh chung
của kinh tế hợp tác, của hợp tác xã và của phong trào hợp tác trên thế giới
hiện nay.
Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian, em chỉ xin tập trung phân tích
Luật Hợp tác xã 2003, khung thể chế cơ bản điều tiết hoạt động kinh tế hợp
tác và hợp tác xã hiện nay ở Việt Nam và những tác động của nó tới khu vực
nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Để nghiên cứu đề tài này, bài viết tập trung vào nghiên cứu những vấn
đề sau:
Thứ nhất: Những nội dung mới của Luật Hợp tác xã 2003
Thứ hai: Những ảnh hưởng của Luật hợp tác xã 2003 đến sự phát triển
của Hợp tác xã ở Việt Nam
2
CHƯƠNG I: NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA LUẬT HỢP TÁC XÃ 2003
1. Làm rõ bản chất HTX và chính sách nhà nước đối với HTX theo tư
duy mới
Một trong những nội dung mới, quan trọng trong Luật HTX sửa đổi là
định nghĩa về HTX. Trong Luật năm 1996 HTX được định nghĩa là "tổ chức

kinh tế tự chủ", nhưng tổng kết 6 năm thi hành luật cho thấy các HTX, nhất là
HTX trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn đang còn bị các cơ quan quản lý nhà
nước xem như các tổ chức vừa là công cụ của chính quyền cơ sở, vừa là tổ
chức nặng tính xã hội, có nghĩa vụ phục vụ chính quyền và cộng đồng theo ý
muốn chủ quan của họ.
Luật HTX 2003 đã quy định: "Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do
các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp
vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này HTX hoạt động như một
loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn
vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật".
Theo định nghĩa này, HTX được tổ chức theo các nguyên tắc riêng về
tính tự nguyện, dân chủ và bình đẳng về lợi ích và trách nhiệm của mỗi đối
tượng tham gia HTX, đồng thời làm rõ bản chất HTX là một loại hình doanh
nghiệp, có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính của
mình và bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác trong quá trình hoạt
động.
Như vậy sẽ tạo ra cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước đối với HTX
và chính các xã viên HTX đổi mới nhận thức về loại hình tổ chức kinh tế này,
xóa bỏ tư tưởng coi HTX nặng về tổ chức xã hội, là bộ phận, là cánh tay của
bộ máy công quyền (nhất là đối với các cấp chính quyền huyện, xã ở nông
thôn trong quan hệ với HTX nông nghiệp).
3
Định nghĩa mới còn xác định rõ điều kiện tồn tại và phát triển của HTX
là HTX phải biết tự khẳng định mình là tổ chức kinh tế tự chủ, biết hoạt động
nhanh nhạy, biết cạnh tranh để tồn tại trong cơ chế thị trường.
Trong quan hệ nội bộ, HTX là tổ chức mang tính tập thể và cộng đồng
cao theo các nguyên tắc đặc thù mà Luật HTX quy định: Các đối tượng tham
gia là xã viên HTX đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ; Đại hội xã
viên có quyền quyết định cao nhất, tại đó từng xã viên có quyền tự chủ cùng

nhau quyết định những vấn đề quan trọng nhất của HTX, mỗi người một
phiếu biểu quyết không phụ thuộc vào mức vốn góp; xã viên HTX cùng nhau
xây dựng HTX trên cơ sở cùng góp vốn, góp sức dưới nhiều hình thức theo
quy định của Điều lệ từng HTX. Việc góp vốn vào HTX không mang mục đích
thu lời mà là trách nhiệm của xã viên tạo ra kinh tế tập thể ban đầu khi HTX
mới thành lập Khi HTX hoạt động có lãi thì sau khi trích nộp thuế, lãi phải
được ưu tiên trích lậ p quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự phòng,số còn lại mới
được trích lập các quỹ khác và chia theo vốn góp xã viên, theo công sức đóng
góp, theo mức sử dụng của xã viên đối với dịch vụ do HTX tạo ra; xã viên khi
ra HTX chỉ được rút phần vốn góp của mình và những quyền lợi khác theo
quy định của Điều lệ.
Để làm rõ quyền tự chủ của HTX về những nội dung trên đây Luật HTX
sửa đổi đã quy định: HTX có quyền lựa chọn ngành, nghề sản xuất, kinh
doanh mà pháp luật không cấm; Điều lệ từng HTX sẽ phải cụ thể hóa nhiều
nội dung quan trọng mà Luật quy định những nội dung đó thuộc thẩm quyền
của HTX, do HTX tự quyết định theo tình hình cụ thể của HTX, dựa trên ý chí
và nguyện vọng của xã viên; HTX có quyền thành lập doanh nghiệp riêng
thuộc sở hữu của HTX hoạt động theo luật tương ứng
Tuy nhiên, do khu vực kinh tế HTX là khu vực có nhiều người nghèo
tham gia nên khả năng cạnh tranh thấp, vì vậy, Luật quy định Nhà nước sẽ có
một số chính sách riêng phù hợp với từng giai đoạn phát triển để hỗ trợ HTX
4
khắc phục khó khăn có thể tham gia thị trường, phát triển, mang lại lợi ích
cho đông đảo những người lao động nghèo tham gia HTX.
2. Mở rộng đối tượng được tham gia xã viên HTX:
Luật năm 1996 quy định đối tượng tham gia HTX chỉ là "những người
lao động", như vậy có phần hạn chế các đối tượng khác như các tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội và cán bộ, công chức cũng muốn tham gia đóng góp phát
triển HTX, trong khi bản chất của loại hình tổ chức kinh tế này là mang tính
xã hội cao và mở rộng sự tham gia của các chủ thể trong xã hội.

Luật HTX 2003 đã quy định vấn đề này theo hướng mở rộng đối tượng
tham gia HTX, bao gồm cả cá nhân, pháp nhân và cán bộ công chức. Theo
quy định này HTX có thể kết nạp xã viên là những người lao động, các pháp
nhân (các tổ chức kinh tế, xã hội có tư cách pháp nhân), các hộ gia đình và cả
những cán bộ, công chức đang làm việc trong các cơ quan hành chính và cơ
quan sự nghiệp.
Để làm rõ sự tham gia của từng loại đối tượng Luật sửa đổi quy định:
Hộ gia đình, pháp nhân khi tham gia phải cử người đại diện cụ thể có đủ điều
kiện, tiêu chuẩn như đối với cá nhân theo Điều lệ của HTX; đối với cán bộ,
công chức đang làm việc, nếu tham gia HTX thì chỉ với tư cách là xã viên
bình thường, không trực tiếp tham gia quản lý và điều hành HTX.
Các quy định mang tính mở rộng đối tượng, đồng thời làm rõ điều kiện
tham gia của từng đối tượng trên vừa bảo đảm được nguyên tắc dân chủ, tự
nguyện, tạo điều kiện cho HTX thu hút thêm nguồn lực trong xã hội vào phát
triển HTX, đồng thời vẫn tôn trọng quyền tự chủ của từng HTX trong việc ra
quyết định kết nạp các đối tượng này vào HTX.
3. Đơn giản hóa thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh:
Để tạo thuận lợi cho HTX trong đăng ký kinh doanh (ĐKKD) Luật HTX
2003 quy định còn bốn thủ tục là: (1) Đơn xin đăng ký kinh doanh (2) Điều lệ
5
HTX; (3) Số lượng xã viên, danh sách Ban quản trị, Ban Kiểm soát; (4) Biên
bản đã thông qua tại hội nghị thành lập HTX.
Đồng thời, Luật HTX 2003 quy định: Sáng lập viên báo cáo bằng văn
bản với UBND xã, phường nơi HTX dự định đặt trụ sở về việc thành lập
HTX, đồng thời tiến hành ngay việc tuyên truyền, vận động những cá nhân,
hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu tham gia và làm các thủ tục cần thiết để
thành lập mà không cần phải chờ sự cho phép của UBND xã, phường nơi
HTX dự định đặt trụ sở chính.
Để tạo thuận lợi trong khi đăng ký, Luật HTX 2003 quy định HTX tự
quyết định nơi đăng ký kinh doanh ở cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh

hoặc huyện tuỳ theo điều kiện cụ thể của HTX.
Những đổi mới trên đây trong Luật HTX sửa đổi sẽ tạo ra sự thông
thoáng và bình đẳng giữa HTX và DN trong ĐKKD, giảm bớt những thủ tục
và quy định không cần thiết mà vẫn bảo đảm tính chặt chẽ trong ĐKKD.
4. Bỏ quy định về Điều lệ mẫu và bổ sung những nội dung quan trọng
quy định về Điều lệ HTX:
Luật sửa đổi đã bỏ quy định Chính phủ ban hành Điều lệ mẫu cho từng
ngành riêng (Điều 4 Luật HTX năm 1996), đồng thời bổ sung một số nội
dung cụ thể tại Điều quy định về Điều lệ HTX (Điều 12 Luật HTX 2003) để
giúp HTX thuận lợi hơn khi HTX xây dựng Điều lệ của mình, những bổ sung
thêm là: điều kiện, thủ tục, cách thức tham gia vào hợp tác xã của các đối
tượng; về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của xã viên; nguyên tắc và đối
tượng đóng bảo hiểm xã hội theo chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc; mức
vốn góp tối thiểu, điều kiện trả lại vốn góp; thể thức quản lý và sử dụng phần
tài sản, vốn không chia của hợp tác xã; nguyên tắc trả công, chia lãi theo vốn
góp, theo công sức đóng góp của xã viên và theo mức độ sử dụng dịch vụ của
hợ p tác xã; xử lý các khoản lỗ; cơ cấu tổ chức quản lý hợp tác xã; chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Ban quản trị, Trưởng Ban
quản trị, Chủ nhiệm hợp tác xã, Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm soát và các
6
bộ phận giúp việc cho hợp tác xã; người đại diện theo pháp luật của hợp tác
xã; chế độ xử lý vi phạm Điều lệ và nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ;
thể thức sửa đổi Điều lệ.
Ngoài ra, để giúp HTX dễ dàng trong xây dựng Điều lệ, Luật quy định
Chính phủ ban hành ba loại Mẫu hướng dẫn HTX viết Điều lệ, đó là Mẫu
hướng dẫn HTX nông nghiệp, Mẫu hướng dẫn Quỹ tín dụng nhân dân và
Mẫu hướng dẫn các HTX phi nông nghiệp. Các mẫu này sẽ được thiết kế với
các chỉ dẫn cụ thể, ngắn gọn, dễ hiểu và mang tính hướng dẫn để HTX tham
khảo khi viết Điều lệ.
5. Tách chức năng quản lý với chức năng điều hành HTX:

Để đáp ứng nhu cầu của một bộ phận HTX đã phát triển ở trình độ cao,
hoạt động đa dạng, phức tạp, Luật HTX 2003 đã quy định trong HTX phải
tách rõ chức năng quản lý với chức năng điều hành, nhưng không nhất thiết
phải tổ chức hai bộ máy riêng biệt. Việc quyết định bố trí một bộ máy thực
hiện cả hai chức năng hay tách riêng thành hai bộ máy để thực hiện từng
chức năng là do Hội nghị thành lập HTX hoặc Đại hội xã viên HTX tự quyết
định. Luật không quy định cụ thể loại nào tổ chức một bộ máy và loại nào tổ
chức hai bộ máy.
Trường hợp HTX quyết định không tổ chức riêng bộ máy quản lý và bộ
máy điều hành thì người đứng đầu bộ máy vừa quản lý vừa điều hành HTX là
Chủ nhiệm HTX. Chủ nhiệm phải là xã viên HTX và do Đại hội xã viên bầu.
Trường hợp HTX quyết định tổ chức riêng bộ máy quản lý và bộ máy
điều hành thì Luật quy định bộ máy quản lý là Ban quản trị với người đứng
đầu là Trưởng ban quản trị. Bộ máy điều hành là Ban chủ nhiệm với người
đứng đầu là Chủ nhiệm HTX. Trong trường hợp này HTX có thể thuê Chủ
nhiệm giữ chức năng điều hành HTX.
Những đổi mới trên đây sẽ tạo khung pháp lý rộng rãi cho HTX tự quyết
định lựa chọn mô hình tổ chức quản lý cho phù hợp với trình độ phát triển của
7
mình, đáp ứng được tình hình phát triển HTX hiện nay với nhiều trình độ, quy
mô và khả năng quản lý khác nhau.
Đối với Liên hiệp HTX, Luật quy định phải tách rõ hai bộ máy quản lý
và điều hành. Bộ máy quản lý là Hội đồng quản trị, người đứng đầu là Chủ
tịch HĐQT. Bộ máy điều hành là Ban giám đốc, người đứng đầu là Giám đốc
hoặc Tổng Giám đốc.
6. Làm rõ tài sản và vốn không chia trong HTX:
Luật HTX 2003 đã quy định HTX phải hình thành vốn và tài sản chung
không chia được hình thành từ các nguồn vốn do Nhà nước trợ cấp, quà biếu,
tặng của các tổ chức, cá nhân và trích một phần từ quỹ phát triển sản xuất của
HTX.

Khi giải thể, HTX không chia cho xã viên vốn và tài sản chung do Nhà
nước trợ cấp mà chuyển giao cho chính quyền địa phương quản lý; đối với
vốn và tài sản chung của HTX được hình thành từ các nguồn vốn của HTX và
công sức của xã viên, quà biếu, tặng của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước thì do Đại hội xã viên quyết định.
Quy định này đã làm rõ yêu cầu các HTX phải quan tâm đến bộ phận
vốn và tài sản thuộc sở hữu tập thể, tạo ra sức mạnh kinh tế chung và chất kết
dính giữa các xã viên HTX trong nhiều năm hoạt động mà lâu dài.
7. Làm rõ vị trí, chức năng của Liên minh HTX:
Trong Luật năm 1996, Liên minh HTX được quy định là tổ chức "phi
chính phủ". Về bản chất, Liên minh HTX đúng là tổ chức phi chính phủ
Tuy vậy quy định này đã gây ra tâm lý không thuận đối với nhiều HTX, Liên
hiệp HTX về việc tham gia tổ chức Liên minh, dẫn đến hạn chế sức hút của
Liên minh HTX.
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Liên minh HTX hoạt động, Luật
HTX 2003 quy định "Liên minh HTX là tổ chức kinh tế - xã hội", "Nhà nước
tạo điều kiện để Liên minh HTX ở trung ương và địa phương hoạt động theo
8
quy định của pháp luật", và "Chính phủ quy định cụ thể mối quan hệ công tác
giữa liên minh HTX với chính quyền các cấp" theo đó Liên minh HTX sẽ tiếp
tục được đổi mới trở thành tổ chức Hiệp hội của các HTX và Liên hiệp HTX
trong tương lai.
8. Làm rõ quản lý nhà nước đối với HTX:
Để tăng cường và làm rõ vai trò quản lý của Nhà nước đối với HTX,
Luật HTX 2003 quy định rõ các nội dung cụ thể về quản lý nhà nước đối với
HTX, trong đó có nội dung rất quan trọng là tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và
nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý HTX; quy định Chính phủ thống nhất
quản lý chung về Nhà nước đối với HTX; các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND
các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm thực hiện quản lý nhà nước đối với HTX.

9. Làm rõ các chính sách của Nhà nước đối với HTX:
Các chính sách khuyến khích phát triển đã được quy định tại Điều 5 Luật
năm 1996 và Chính phủ đã cụ thể hoá bằng Nghị định 15/CP của Chính phủ
ngày 21-2-1997, nhưng hầu như chưa được thực hiện trong thực tế.
Để nâng cao hiệu lực của các chính sách này, Luật HTX 2003 quy định
rõ chính sách nhà nước đối với HTX, gồm:
Nhà nước ban hành và thực hiện các chính sách, các chương trình hỗ
trợ phát triển HTX về đào tạo cán bộ; phát triển nguồn nhân lực; đất đai; tài
chính; tín dụng; xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển HTX; áp dụng khoa học, công
nghệ; tiếp thị và mở rộng thị trường; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Riêng chính sách bảo hiểm xã hội cho xã viên và người lao động trong
HTX được quy định theo hướng: HTX có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội theo
chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc của Nhà nước cho xã viên là cá nhân và
người lao động làm việc thường xuyên cho HTX, nhưng để phù hợp với điều
kiện của các HTX, Luật HTX 2003 quy định:Đại hội xã viên sẽ quyết định đối
9
tượng cụ thể được đóng bảo hiểm xã hội theo chính sách bảo hiểm xã hội bắt
buộc của Nhà nước.
Riêng đối với các HTX nông nghiệp, Luật HTX 2003 quy định: "Chính
phủ quy định cụ thể chính sách ưu đãi phù hợp với đặc thù và trình độ phát
triển trong từng thời kỳ".
Những quy định này sẽ làm căn cứ để Chính phủ nghiên cứu, ban hành
các chế độ cụ thể của từng chính sách phù hợp với điều kiện cụ thể của đất
nước trong từng giai đoạn.
Tóm lại, Luật HTX 2003 lần này đã làm rõ hơn bản chất và các nguyên
tắc HTX; vừa nâng cao địa vị pháp lý của HTX để bình đẳng với các loại hình
DN khác trong tham gia thị trường để phát triển, vừa bảo đảm những đặc thù
riêng trong thành lập, tổ chức, quản lý và phân phối kết quả sản xuất, kinh
doanh.
10

CHƯƠNG II: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA LUẬT HỢP TÁC XÃ 2003
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỢP TÁC XÃ Ở VIỆT NAM
1. Mục tiêu của Luật Hợp tác xã 2003
Luật Hợp tác xã 2003 là sự kế tiếp của Luật Hợp tác xã đã được ban
hành lần đầu tiên năm 1996, và nó có hai mục tiêu chính:
(1) Củng cố, kiện toàn các hợp tác xã vốn được thành lập từ trong thời kì
kinh tế kế hoạch hóa tập trung còn sót lại hiện nay, cụ thể là chuyển đổi các
hợp tác xã này sang hình thức “hợp tác xã kiểu mới”;
(2) Xây dựng một khung thể chế nhằm điều tiết các hoạt động kinh tế
hợp tác đa dạng đang ngày càng phát triển trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường, đặc biệt là các tổ chức kinh tế hợp tác do người dân thành lập dưới
nhiều hình thức và cấp độ khác nhau trong mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội.
Mục đích cuối cùng của Luật Hợp tác xã 2003, cũng như nhiều chính
sách khác có liên quan, là khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác nói chung
và các hợp tác xã nói riêng. Mục đích này được khẳng định cả trên phương
diện chính trị-các quan điểm, đường lối chỉ đạo, định hướng của Đảng- và
trên phương diện luật pháp của nhà nước. Tuy nhiên, giữa mục đích và
phương tiện (những quy định trong luật) còn có những điểm bất cập. Mặt
khác, như phân tích dưới đây sẽ cho thấy, giữa hai mục tiêu nói trên có sự tác
động qua lại lẫn nhau và không phải lúc nào đó cũng là những tác động
“hướng tâm”.
2. Chuyển đổi các “hợp tác xã kiểu cũ” sang “hợp tác xã kiểu mới”
Các hợp tác xã “kiểu cũ” ở đây là những hợp tác xã được thành lập và
còn sót lại từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Do đặc điểm hoạt động,
những hợp tác xã còn lại chủ yếu là các hợp tác xã nông nghiệp, còn các loại
hình hợp tác xã khác (hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp,
hợp tác xã thương mại, v.v…) hầu hết đều đã tan rã. Kể từ sau khi kinh tế gia
đình chính thức được tái thừa nhận về mặt pháp lý (quan trọng nhất là với
11
Nghị quyết 10 năm 1988 và sau đó là Luật đất đai 1993, 2003), thì cơ sở kinh

tế-xã hội của các hợp tác xã này gần như không còn gì và vai trò của chúng
cũng bị suy giảm về cơ bản. Những hợp tác xã này có hai xu hướng biến đổi:
(1) Tiếp tục đi vào sa sút và đi đến giải thể;
(2) Một số khác vì nhiều lý do, cả tích cực (cải tiến tổ chức, quản lý,
năng lực sản xuất kinh doanh, v.v ) lẫn tiêu cực (tồn đọng trong giải quyết nợ
vốn, tài sản với xã viên và nhà nước, v.v ) thì vẫn tiếp tục tồn tại.
Thực ra trong nội dung của Luật Hợp tác xã 2003, cũng giống như luật
năm 1996, không hề có một quy định nào nói đến việc chuyển đổi các “hợp
tác xã kiểu cũ” sang “hợp tác xã kiểu mới”. Tuy nhiên, bằng nhiều hình thức
và cách hiểu khác nhau trong đó quan trọng nhất chính là các nghị quyết
mang tính định hướng của Đảng về vai trò của kinh tế tập thể, của kinh tế hợp
tác và của mô hình “hợp tác xã kiểu mới”, đã làm hình thành nên một “phong
trào” chuyển đổi các hợp tác xã kiểu cũ sang các hình thức hợp tác xã kiểu
mới theo luật hợp tác xã. Vậy thực chất của việc chuyển đổi này là gì? Mặc
dù trong tay chúng tôi còn thiếu những nghiên cứu đánh giá có tính tổng thể
về hoạt động chuyển đổi này song dựa trên những nghiên cứu đã có mà chúng
tôi tiếp cận được, dựa trên các số liệu được công bố chính thức của các cơ
quan chức năng và trên cơ sở phân tích có thể rút ra một số nhận xét và câu
hỏi sau đây:
- Thứ nhất, chúng ta đều biết rằng hầu như tất cả những hợp tác xã được
thành lập trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa trước đây đều là những “hợp tác
xã toàn xã”, nghĩa là tất cả các gia đình trong một xã đều là thành viên của
hợp tác xã. Điều này đặc biệt phổ biến ở miền Bắc và miền Trung, những nơi
mà các đợt cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong khu vực nông
nghiệp đã được tiến hành một cách “triệt để” nhất, với việc hình thành nên
các “hợp tác xã bậc cao”. Việc ra nhập các hợp tác xã toàn xã này trong giai
đoạn trước đây, như chính các cơ quan quản lý thừa nhận và các nghiên cứu
đã chỉ ra, là trái với nguyện vọng của người nông dân, chủ yếu dựa trên việc
12
tập thể hóa một cách gượng ép, nếu không muốn nói là “cưỡng bức”, tư liệu

sản xuất của hộ gia đình. Phân tích dưới góc độ khoa học, thì việc hợp tác hóa
đã không xuất phát từ nhu cầu hợp tác của người nông dân, nhu cầu hợp tác
này lại do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định (nếu ta coi
quan hệ hợp tác là một hình thức của quan hệ sản xuất) chứ không phải do các
quyết định mang tính hành chính xuất phát từ các mục tiêu chính trị quyết
định.
Như vậy, nếu đặt ra việc tiếp tục duy trì những hợp tác xã toàn xã này thì
vấn đề cơ bản cần phải xét đến là:
(1) Xác định xem chúng có xuất phát từ nhu cầu hợp tác của người dân
hay không. Muốn biết được điều này thì không có cách nào khác là phải hỏi
chính người nông dân và các nhóm xã hội khác ở nông thôn bởi hợp tác xã là
tổ chức của họ, được xây dựng nên vì họ và bởi chính họ.
(2) Xác định xem nhu cầu hợp tác của người dân ở từng địa bàn cụ thể
đã đạt đến mức độ/trình độ nào để từ đó có hình thức và cấp độ tổ chức hợp
lý, chứ không phải là việc thay đổi hình thức tổ chức thuần túy dựa trên quy
mô như cũ. Chỉ cần một phép tính cơ bản về quy mô kinh tế-xã hội trung bình
của một xã (chẳng hạn theo đơn vị là hộ gia đình) và phân tích tính chất phát
triển của hoạt động sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay sẽ thấy được
ngay mức độ tương thích giữa nhu cầu hợp tác với hình thức và quy mô tổ
chức quan hệ kinh tế hợp tác mà chúng ta đang duy trì.
- Thứ hai, cho dù là đã chuyển đổi sang “hợp tác xã kiểu mới” thì câu
hỏi đặt ra là cơ sở kinh tế-xã hội của các hợp tác xã này là gì? Nói cách khác,
trong khi hầu như tất cả các tư liệu sản xuất đã được giao về cho hộ gia đình
(dù còn ở mức hạn chế) thì những hợp tác xã này sẽ hoạt động trên cơ sở gì?
Các văn bản, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nêu rất rõ mục tiêu hoạt
động của các hợp tác xã này: làm các dịch vụ đầu vào và đầu ra cho kinh tế hộ
gia đình. Nói cách khác, đó là các hợp tác xã dịch vụ. Có thể thấy rất rõ hai
13
điểm hạn chế sau đây liên quan đến chức năng của hợp tác xã mà chúng ta
đang hướng tới:

(1) Nếu chỉ làm dịch vụ thì rõ ràng là chưa thấy hết, chưa phát huy đầy
đủ vai trò của kinh tế hợp tác nói chung và hợp tác xã nói riêng. Bởi lẽ bản
chất của kinh tế hợp tác nói chung và các hợp tác xã nói riêng không chỉ dừng
lại ở việc làm dịch vụ.
(2) Mặt khác, các hợp tác xã này sẽ cạnh tranh như thế nào với các loại
hình kinh tế khác để có thể cung cấp được những dịch vụ có tính cạnh tranh
cao trong điều kiện của nền kinh tế thị trường? Một hợp tác xã nếu được xây
dựng mà không xuất phát từ chính nhu cầu thiết thân của những thành viên
của nó, và lại không được tổ chức ở một quy mô hợp lý thì khó có thể hoạt
động dịch vụ được hiệu quả cho chính các thành viên của nó chứ chưa nói cho
cộng đồng nói chung.
Vậy vì sao những "hợp tác xã kiểu cũ” này vẫn được khuyến khích
chuyển đổi sang hình thức “hợp tác xã kiểu mới? Ai được hưởng lợi từ chính
sách này và đặc điểm, mức độ hưởng lợi từ chính sách đó ra sao? Theo em ở
đây có ba giả định:
- Thứ nhất, đứng về phía người dân và các hộ gia đình, có thể nói rằng
việc duy trì hay không duy trì các hợp tác xã kiểu cũ (hay đã được chuyển đổi
sang kiểu mới) này trong giai đoạn hiện nay không có ảnh hưởng gì nhiều lắm
đến đời sống của họ. Lý do là hầu như tất cả mọi tư liệu sản xuất đã được trả
về cho hộ gia đình, và chính hộ gia đình phải tự lo mọi khâu sản xuất từ đầu
vào cho đến đầu ra. Hợp tác xã không còn có khả năng quyết định các hoạt
động kinh tế của hộ gia đình. Nhưng cũng sẽ không hề bất ngờ nếu người dân
tại các vùng hợp tác xã toàn xã này vẫn cứ đăng ký là thành viên của hợp tác
xã. Tại sao lại như vậy? Tâm lý của người dân ở chỗ này là: Nếu như sự tồn
tại hay không của hợp tác xã không có ảnh hưởng gì nhiều đến đời sống của
họ, thì họ vẫn có thể hi vọng nhận được một “cái gì đó” từ các hợp tác xã này
nếu như vẫn còn là thành viên hợp tác xã. Nói cho chính xác thì người ta vẫn
14
hi vọng nhận được cái gì đó từ nhà nước thông qua hợp tác xã. Không ai dại
gì ra khỏi hợp tác xã, nếu như việc đó cũng không mang lại điều gì, trong khi

lại vẫn có thể nhận được hỗ trợ điều gì đó khi đăng ký là thành viên hợp tác
xã. Chính ở điểm then chốt này mà chúng ta phải đặt câu hỏi về bản chất thực
sự của những hợp tác xã kiểu cũ (hay đã được chuyển đổi thành hợp tác xã
kiểu mới) này? Đó là hợp tác xã với tư cách là một tổ chức kinh tế-xã hội của
người dân, trước hết là của nông dân, hay một hình thức quản lý và hỗ trợ của
nhà nước? Chức năng nào trong số các chức năng kinh tế, chức năng xã hội
hay chức năng hành chính mới là chức năng cơ bản của hợp tác xã? Không trả
lời được câu hỏi này, không thể có hợp tác xã thực sự.
- Thứ hai, đứng về phía chính quyền và các tổ chức, đoàn thể ở các địa
phương, việc duy trì các hợp tác xã kiểu cũ và/hoặc chuyển đổi chúng về mặt
hình thức sang hợp tác xã kiểu mới góp phần củng cố tổ chức kinh tế-xã hội ở
địa phương (theo nghĩa quản lý chặt hơn) và, cũng như người dân, duy trì một
kênh nhận được sự hỗ trợ của nhà nước nhiều hơn. Đương nhiên, đây chỉ là
một giả thuyết song chúng tôi cũng cho rằng nó có thể là môt hiện tượng phổ
biến. Liệu có điểm gì khác biệt nếu như chúng ta thay đổi tên gọi của các hợp
tác xã này hoặc chuyển giao các chức năng chính mà chúng đang đảm nhiệm
(thủy lợi, điện, thu thuế, quản lý đất sản xuất, thủy lợi nội đồng, v.v ) cho
những bộ phận quản lý hoặc chuyên môn khác ở cấp địa phương (như khuyến
nông, thủy nông, phòng thuế, phòng địa chính v.v )? Chúng tôi cho là không.
- Thứ ba, đứng về phía nhà nước, có thể vẫn còn có sự nhầm lẫn giữa
mục đích phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã, với tư cách là một hình thức
tổ chức của kinh tế tập thể, với cách thức xây dựng hình thức tổ chức kinh tế
tập thể này. Thay vì để cho người dân tự quyết định đâu là hình thức và cấp
độ tổ chức kinh tế hợp tác phù hợp với nhu cầu, năng lực của họ thì chúng ta
vẫn duy trì một hệ thống tổ chức kinh tế hợp tác mà bản thân chúng vốn giả
định rằng năng lực và nhu cầu hợp tác của các thành viên đã đạt đến một trình
15
độ nhất định, mặt khác, việc thành lập các hợp tác xã trước đây là không xuất
phát từ nguyện vọng của người dân.
Cũng có thể giả định rằng đang tồn tại một sự lúng túng trong việc xây

dựng một mô hình lý thuyết về kinh tế hợp tác phù hợp với điều kiện của nền
kinh tế thị trường và trong việc giải quyết các vấn đề về hệ thống tổ chức kinh
tế-xã hội trong nông nghiệp, nông thôn mà thời kì kinh tế kế hoạch hóa trước
đây để lại. Một cách tất yếu, giải pháp cho tình thế “lưỡng nan” này là phải cố
gắng “chuyển đổi” và duy trì hệ thống hợp tác xã kiểu cũ sang “kiểu mới” vừa
để tránh tạo một khoảng trống quá lớn về mặt thể chế trong khu vực nông
nghiệp, nông thôn, nông dân và cũng là để “thỏa mãn” cho những vấn đề lý
thuyết gặp phải trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường “định hướng xã hội
chủ nghĩa” của khu vực này. Em cho rằng đây chính là nguyên nhân cơ bản
dẫn đến hiện tượng “mục tiêu kép” của các luật hợp tác xã như đã nói ở trên.
Nhưng hệ quả của thực trạng này, nếu chúng ta thẳng thắn nhìn nhận, là
nó đang góp phần duy trì một cách dai dẳng hơn những “ấn tượng” không
mấy thiện cảm của người dân nói chung và người nông dân nói riêng về mô
hình hợp tác xã của thời kì tập thể hóa trước đây, về kinh tế tập thể, v.v…
Những “ấn tượng” này còn tồn tại bởi cơ sở “tồn tại xã hội” của chúng vẫn
tiếp tục được duy trì-những hợp tác xã kiểu mới được chuyển đổi mà không
thực sự xuất phát từ nhu cầu hợp tác của người nông dân, không giúp ích
được gì nhiều cho kinh tế hộ gia đình. Điều này, đến lượt nó, chắc chắn sẽ có
ảnh hưởng tiêu cực đến chính mục tiêu xây dựng kinh tế hợp tác và hợp tác xã
như là những hình thức chủ yếu của thành phần kinh tế tập thể mà chúng ta
đang cố gắng tạo dựng. Những ảnh hưởng này không dễ gì tính toán được và
dường như chưa có nghiên cứu nào phân tích khía cạnh này.
16
KẾT LUẬN
Luật Hợp tác xã đã được Quốc hội thông qua ngày 18-11-2003. Với 10
chương, 52 điều, Luật mang một số nội dung mới về bản chất, chính sách, đối
tượng, quản lý nhà nước với hợp tác xã.
Luật Hợp tác xã đã được Quốc hội thông qua ngày 18-11-2003. Với 10
chương, 52 điều, Luật mang một số nội dung mới về bản chất, chính sách, đối
tượng, quản lý nhà nước với hợp tác xã.

So với Luật HTX năm 1996, Luật HTX năm 2003 đã sửa đổi 39 điều, 4
điều bổ sung, bỏ 7 điều và giữ nguyên 9 điều. Luật có những nội dung đổi
mới, ảnh hưởng của Luật hợp tác xã đến sự phát triển của hơp tác xã Việt
Nam là rất lớn, việc chuyển đổi hợp tác xã “kiểu cũ” sang hợp tác xã “kiểu
mới” đã góp phần nâng cao vai trò của Hợp tác xã trong sự phát triển của các
thành phần kinh tế Việt Nam. Việc nghiên cứu đề tài ảnh hưởng của Luật
hợp tác xã 2003 đến sự phát triển Hợp tác xã ở Việt Nam đã đem lại những
nhận định cụ thể hơn về vấn đề này.
17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
1. Luật hợp tác xã 2003
2. Luật hợp tác xã 1996
3. Nghị định số 02/CP ngày 02/01/1997 quy định về quản lý nhà nước đối
với hợp tác xã
4. Nghị định số 15/CP ngày 21/02/1997 về chuyển đổi đăng ký hợp tác xã
và tổ chức hoạt động của liên hiệp hợp tác xã
5. Nghị định số 177/2004/NĐ-CP ngày 12/10/2004 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật hợp tác xã năm 2003
6. Nghị định số 87/2005/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh hợp tác xã
II. Các tài liệu chuyên khảo
7. Giáo trình Luật thương mại – Trường đại học Luật Hà Nội xuất bản năm
2007
III. Các trang Web
8. vietlaw.org.vn
9. dangkykinhdoanh.net
10. issi.gov.vn
11. kinhdoanh.com.vn
18

×