Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Luận văn Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.35 KB, 67 trang )

Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kì một chế độ xã hội nào, thuế luôn luôn là một công cụ thể hiện quyền lực của Nhà nước
và là nguồn tài chính chủ yếu. Với xu thế nhất thể hóa các khu vực và toàn cầu hóa nhằm khai thác tối đa
lợi thế so sánh của mỗi quốc gia nói riêng và khu vực nói chung, đã đặt các nhà hoạch định chính sách
kinh tế, tài chính trước những thách thức lớn lao đòi hỏi phải cải cách toàn diện.
Nghị Quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định “Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận
lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển” và “Hoàn thiện hệ
thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ… Điều chỉnh chính sách thuế
theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Cụ thể hoá
Nghị quyết đại hội Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt
ra yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỷ trọng các nguồn thu trong nuớc cho phù
hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ lệ thu từ thuế trực thu”. Việc ban hành
kịp thời Luật này là góp phần thể chế hoá chính sách thuế của Đảng.
Để đạt được mục tiêu gia nhập vào WTO, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tất cả các chính
sách thuế hiện hành đều đã được thay đổi theo hướng giảm nghĩa vụ thuế. Chẳng hạn từ năm 2000 đến
nay, thuế chuyển quyền sử dụng đất được giảm tới 25 lần, thuế trước bạ giảm 50%. Hiện nay ngành thuế
cũng đã xóa bỏ trên 300 loại phí không cần thiết, một số loại như phí đường bộ, hàng hải giảm tới 30%-
40%. Theo tính toán ban đầu, khi cắt giảm các loại thuế và chi phí này, Nhà nước bị thất thu trên 1.000 tỷ
đồng. Hiện ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào 3 khoản thu chủ yếu gồm xuất nhập khẩu chiếm 25% ngân
sách, tương đương khoảng 60.000 tỷ đồng mỗi năm. Số thu từ xuất khẩu dầu thô cũng vào khoảng 25%.
Như vậy còn khoảng 50% ngân sách Nhà nước là các khoản thu nội địa, nhưng khoản thu nội địa này
cũng đang một ngày giảm do chính sách thuế liên tục được thay đổi để thực hiện theo cam kết. Tính đến
thời điểm này đã có tới trên 1.000 dòng thuế được cắt giảm. Chính vì thế để bù đắp cho sự giảm sút này
Chính phủ cần quan tâm hơn đến thuế trực thu. Tuy nhiên, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cũng
nên giảm dần tới mức tương ứng với các nước trong khu vực nhằm khuyến khích hoạt động sản xuất kinh
doanh. Vì vậy, chính phủ đã có những biện pháp đối với thuế TNCN nhằm tạo thêm nguồn thu cho ngân
sách từ loại thuế này.


Ở nước ta hiện nay, quản lý thuế nói chung và quản lý thuế TNCN nói riêng còn nhiều hạn chế kể từ
việc ban hành pháp luật thuế đến tổ chức thực hiện cũng như thanh tra thuế. Nếu như chúng ta không sớm
khắc phục những hạn chế này thì mục tiêu đặt ra khi ban hành luật sẽ gặp phải rất nhiều bất lợi. Chính vì
thế, công tác quản lý TNCN ở Việt Nam cần phải được hoàn thiện để đáp ứng những yêu cầu trong xu thế
hội nhập và phát triển nhanh chóng hiện nay.
Xuất phát từ thực tế trên của Việt Nam, trên giác độ quản lý để góp phần đẩy mạnh công tác quản lý
thuế thu nhập cá nhân, nhằm chống lại nạn thất thu thuế thu nhập cá nhân và tăng ngân sách nhà nước, đó
cũng chính lá lí do mà em chọn làm nghiên cứu đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu
nhập cá nhân” để viết luận văn tốt nghiệp cuối khóa của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Với mục tiêu khái quát lại các vấn đề liên quan đến thuế TNCN mà em đã được học, cũng như tìm
thêm công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam trong những năm qua, những khó khăn, tồn tại
chủ quan lẫn khách quan mà các cơ quan quản lí thuế gặp phải, qua đó có một số đề xuất nhằm tìm ra
những tồn tại và nguyên nhân trong công tác quản lí hiện nay đồng thời đưa ra một số giải pháp nâng cao
hiệu quả quản lí. Hy vọng qua bài viết này, giúp người đọc hiểu thêm về thuế TNCN cũng như công tác
quản lí thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 1 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đầu tiên người viết sẽ nên lên khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân, từ đó đi sâu nghiên cứu vào
thực trạng trong công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân từ khi luật thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực đến
nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài này, người viết sử dụng chủ yếu là phương pháp phân tích và tổng hợp, các
phương pháp định tính, định lượng, các công cụ thống kê, và sưu tầm các tài liệu liên quan.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục đề tài tham khảo, và phụ lục, những nội dung chính
của đề tài được trình bài trong ba chương:
* Chương I: Những vấn đề chung về thuế thu nhập cá nhân và công tác quản lý về thuế thu nhập cá

nhân.
* Chương II: Nội dung công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân.
* Chương III: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở nước ta.
Để hoàn thành được luận văn này, em đã nhận được sự giúp đỡ hết sức tận tình của cô Ts.Lê Nguyệt
Châu. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Cô, đã hướng dẫn em trong thời gian qua.
Do thời gian và vốn kiến thức còn nhiều hạn hẹp nên chắc chắn không thể tránh được những thiếu
sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến từ quý thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn!
CHƯƠNG 1
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 2 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÍ THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1. Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân
1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà
nước. Thuế xuất hiện khi trong xã hội xuất hiện sản phẩm thặng dư cùng với sự phân chia giai cấp, Thuế
được giai cấp thống trị dùng như một công cụ để tạo ra nguồn thu chủ yếu cho mọi nhu cầu chi tiêu của
bộ máy nhà nước nói chung hay của giai cấp thống trị nói riêng. Vì thế, Thuế được xem như một phạm
trù vừa có tính lịch sử vừa là một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của Nhà nước trong quá trình tồn
tại và phát triển của mình. Giai cấp thống trị- vua chúa sử dụng thuế như một công cụ kinh tế quan trọng
nhằm huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, qua tiến trình tiến triển của lịch sử, hiện nay thuế vẫn
được sử dụng với đúng mụch đích của nó nhưng bản chất của Thuế ở các nước lại không giống nhau, nó
tùy thộc vào bản chất Nhà nước và cách thức sử dụng nguồn thu từ thuế. Do đó, cũng tồn tại nhiều khái
niệm khác nhau về thuế do quan điểm về Thuế ở các nước khác nhau như:
Thuế là một khoản thu của nhà nước đối với các tổ chức và mọi thành viên trong xã hội, Thuế là khoản
thu có tính bắt buộc và không hoàn trả trực tiếp theo luật định.
Marx viết
(1)
“Thuế là cở sở kinh tế của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền

hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu của nhà nước".
Các nhà nguyên cứu kinh tế khác cho rằng
(2)
“Thuế là hình thức phân phối thu nhập tài chính của Nhà
nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào quyền lực chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm thặng
dư của xã hội một cách cưỡng chế và không hoàn lại”.
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa về Thuế khác nhau nhưng chúng ta cũng nhận thấy những điểm tương
đồng sau: Thuế là khoản thu mang tính bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi có
những điều kiện nhất định. Thuế mang tính bắt buộc và không mang tính hoàn trả trực tiếp, ngang giá.
Một phần thuế nộp vào ngân sách Nhà nước được trả về với người dân một cách gián tiếp dưới nhiều hình
thức khác nhau như trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội và quỹ tiêu dùng khác.
Trên cơ sở nhưng khái niệm về Thuế, chúng ta có thể rút ra khái niệm về thuế TNCN theo pháp luật hiện
hành như sau: “Thuế thu TNCN là loại thuế chủ yếu đánh vào thu nhập của cá nhân nhằm thực hiện công
bằng xã hội, động viên một phần thu nhập của cá nhân vào ngân sách nhà nước và có thể được sử dụng để
điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc khuyến khích làm việc hay nghỉ ngơi, thông qua việc thu hay
không thu thuế đối với các khoảng thu nhập từ kinh doanh, đầu tư,…
(3)
. Thuế này được coi là loại thuế
đặc biệt vì có lưu ý đến hoàn cảnh của các cá nhân có thu nhập phải nộp thuế thông qua việc xác định
miễn, giảm thuế hoặc khoản miễn trừ đặc biệt.
Thuế TNCN đầu tiên được áp dụng tại Hà Lan vào năm 1797, sau đó là Anh Quốc vào năm 1799.
Lúc đầu Anh Quốc đưa vào thực hiện như một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc
chiến tranh chống Pháp và được chính thức áp dụng vào năm 1942, một số nước tư bản phát triển khác
cũng áp dụng thuế này như Ðức (1899), Hoa Kỳ (1903), Pháp (1916). Các nước Châu Á như: Thái Lan áp
dụng năm 1939, Philipin năm 1945, Hàn Quốc năm 1948, In-đô-nê-xia năm 1949, Trung quốc năm 1984;
Những nước Đông Âu thuộc các nền kinh tế chuyển đổi như Rumani năm 1990, Nga năm 1991, Ba Lan
năm 1992
(1)
Nguồn: Hệ thống chính sách thuế Việt Nam hiện hành, Tác giả- Pts Nguyễn Thị Kim Tuyển, Pts Phan
Mỹ Hạnh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1998.( từ trang 267-305).

(2)
Nguồn: Phát biểu của chủ tịch ủy ban Thuế của chính phủ Nhật bản, trên www.vibonline.com.vn
(3)
Giáo trình luật tài chính 2, Ts Lê Nguyệt châu, tr. 22
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 3 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Hiện nay trên thế giới đã có khoảng 180 nước áp dụng thuế TNCN. Ưu điểm của cách này là đơn
giản, dễ thực hiện, đảm bảo thu kịp thời vào ngân sách Nhà nước. Nhưng có nhược điểm là chưa đảm bảo
yêu cầu phân phối lại thu nhập quốc dân qua thuế sao cho có hiệu quả, đáp ứng được sự công bằng xã hội
và nhất là đối với những cá nhân có nhiều người phụ thuộc.
1.1.2. Đặc điểm thuế thu nhập cá nhân
- Thuế TNCN là thuế trực thu, đánh vào thu nhập chính đáng của từng cá nhân. Do là thuế trực thu nên
nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế.
Người nộp thuế cũng là người chịu thuế, người chịu thuế TNCN không có khả năng chuyển giao gánh
nặng thuế sang cho các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế.
- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh
thuế, không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở nước ngoài.
Thứ hai, đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm tất cả
công dân của nước sở tại và những người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên
nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo mức độ quy định của pháp luật thuế TNCN.
- Thuế TNCN là một hình thức động viên mang tính bắt buộc trên nguyên tắc theo luật định. Phân phối
khoản thu nhập qua thuế TNCN gắn với quyền lực, sức mạnh của Nhà nước.
- Thuế thu nhập cá nhân là khoản đóng góp không hoàn trả trực tiếp cho người nộp. Nó vận động một
chiều, không phải là khoản thù lao mà người nộp thuế phải trả cho Nhà nước do được hưởng các dịch vụ
Nhà nước cung cấp.
- Thuế TNCN luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Hầu hết các quốc gia đều gắn chính
sách thuế TNCN với một số chính sách xã hội khác (như phúc lợi công cộng, chăm sóc sức khỏe…).
Thuế TNCN có diện thu thuế rất rộng, tất cả các cá nhân có thu nhập bao gồm: công dân nước sở tại

và người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên tại nước đó và hầu như tất cả số thu
nhập có được của các cá nhân đều phải tính thuế không kể nguồn thu nhập phát sinh trong nước hay ngoài
nước. Chính vì vậy, khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách của thuế TNCN rất cao.
Việc đánh thuế TNCN thường áp dụng theo nguyên tắc thuế suất lũy tiến từng phần. Đặc điểm này
xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế TNCN là điều tiết mạnh người có thu nhập cao, góp phần thực hiện
công bằng xã hội. Do vậy, việc sử dụng thuế suất lũy tiến từng phần sẽ đáp ứng được nhu cầu đó vì phần
thu nhập tăng thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế suất càng cao.
Xét về góc độ kinh tế, thuế TNCN có tính trung lập cao hơn so với các loại thuế khác vì việc tăng
hay giảm thuế TNCN hầu như không kéo theo những biến đổi về cơ cấu kinh tế.
1.1.3. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân
Trước bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và những sự biến đổi lớn của điều kiện kinh tế -
xã hội ở nước ta hiện nay, việc ban hành Luật thuế TNCN ở nước ta là hết sức cần thiết và có vai trò quan
trọng về nhiều mặt. Là một bộ phận của hệ thống thuế nên thuế TNCN vừa mang vai trò chủ yếu của thuế
nói chung, vừa có các vai trò riêng mà các loại thuế khác không có được.
1.1.3.1 Đối với nền kinh tế- xã hội
* Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước
Thuế TNCN là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành thuế nói chung nên cũng góp một
phần quan trọng để tạo nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế TNCN được tính với diện rộng, khả năng tạo
nguồn thu cho ngân sách rất lớn. Bên cạnh đó, thuế TNCN tác động trực tiếp vào thu nhập của dân cư mà
người dân của bất kỳ quốc gia nào cũng đều mong muốn và cố gắng có thu nhập ngày càng cao để nâng
cao đời sống vật chất tinh thần. Thuế TNCN luôn có sự gia tăng nhanh chóng cùng với sự tăng lên của
thu nhập bình quân đầu người.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 4 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

* Góp phần thực hiện công bằng xã hội
Trong mỗi quốc gia, thu nhập của mỗi cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như khả năng và
trình độ lao động, vị trí công tác, quyền sở hữu về tài sản của cá nhân đó. Tuy nhiên, các yếu tố nói trên
của mỗi cá nhân thường không giống nhau nên đã tạo ra sự khác nhau về thu nhập của mỗi người. Chính
sự khác nhau ấy là nguồn gốc tạo ra sự phân cực giàu nghèo, là sự bất bình đẳng trong xã hội. Để giải

quyết vấn đề này, các nước đã dùng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau trong đó thuế TNCN được
xem như một công cụ hữu hiệu để điều tiết bớt thu nhập của những người có thu nhập cao, đảm bảo công
bằng xã hội.
* Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm
Thuế TNCN là một công cụ rất cần thiết để thực hiện việc kiểm soát thu nhập của các tầng lớp dân
cư, thực hiện công bằng xã hội và quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để kiểm soát thu nhập dân cư, nhà
nước phải sử dụng đồng thời cả hai cơ chế quản lý quỹ tiền lương, tiền công, chế độ báo cáo quyết toán
kinh doanh…và cơ chế kê khai nộp thuế TNCN, tuy ban đầu có thể chưa chính xác, nhưng sẽ là căn cứ để
thống kê thu nhập dân cư phục vụ chương trình mục tiêu nghiên cứu quốc gia, hoạch định chính sách phát
triển phù hợp khi tính tuân thủ pháp luật, pháp chế xã hội được nâng lên.
Thông qua các cơ chế và công cụ quản lý đó mà nhà nước sẽ có giải pháp tăng cường hoặc giảm bớt
điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư làm cho tổng cầu xã hội giảm hoặc tăng, từ đó có tác dụng co
hẹp hay kích thích kinh tế phát triển. Đó chính là vai trò quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế mà chính sách
thuế thu nhập cá nhân góp phần tác dụng đáng kể.
* Góp phần phát hiện thu nhập bất hợp pháp
Thực tế đã chứng minh nhiều khoản thu nhập của một số cá nhân nhận được từ việc thực hiện các
hành vi bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng những kẽ hở của pháp luật mà nhà nước không kiểm soát
được như tham ô, nhận hối lộ, buôn bán hàng quốc cấm, trốn tránh thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của
nhà nước và công dân Những hành vi này ảnh hưởng rất xấu đến đời sống kinh tế – xã hội của mỗi quốc
gia. Phải kết hợp hữu hiệu nhiều biện pháp để ngăn chặn và chống lại những hành vi trên, một trong số
các biện pháp ngăn chặn đó thì phải kể đến vai trò của thuế TNCN.
1.1.3.2 Đối với hệ thống thuế
* Góp phần khắc phục nhược điểm của một số loại thuế khác
Một số thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đều có nhược điểm là có tính luỹ
thoái và ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu vì khi tiêu thụ cùng một lượng hàng hoá mọi
người không phân biệt giàu nghèo và đều phải chịu thuế như nhau. Nếu tính thuế thu nhập cá nhân theo
phương pháp luỹ tiến từng phần sẽ góp phần khắc phục được nhược điểm này
* Góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp thường tồn tại cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế TNCN Giữa hai loại thuế
này luôn luôn tồn tại mối quan hệ gắn bó với nhau. Thuế TNCN còn góp phần khắc phục sự thất thu thuế

thu nhập doanh nghiệp khi có sự thông đồng giữa các doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với cá nhân.
Trong trường hợp doanh nghiệp kê khai cao hơn thực tế những chi phí phải trả cho các cá nhân để làm
giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp hòng trốn thuế thu nhập doanh nghiệp thì các cá nhân nhận
được những khoản trả nói trên sẽ phải nộp thêm thuế thu nhập cá nhân đối với phần thu nhập nhận được
kê khai tăng thêm đó. Thu nhập của doanh nghiệp tăng thường kéo theo sự tăng lên của thuế TNCN và
thuế thu nhập doanh nghiệp.
* Góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế
Xây dựng và phát triển, hoàn thiện chính sách thuế TNCN là góp phần hoàn thiện hệ thống chính
sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập với kinh tế thế giới. Việc ban hành Luật thuế
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 5 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

TNCN là bước thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng về lĩnh vực tài chính tiền tệ đồng thời là bước
đi phù hợp lộ trình cải cách thuế theo mục tiêu chiến lược Chính phủ đã hoạch định.
Nhận thức đúng vai trò vị trí hiện tại cũng như hướng phát triển hoàn chỉnh của chính sách thuế
TNCN, quán triệt đầy đủ nội dung yêu cầu của Luật thuế thu nhập cá nhân mới ban hành để tuyên truyền,
giáo dục pháp luật thuế, vận động toàn dân hiểu biết, chấp hành là nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ
chức, cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức, công dân theo quy định của Luật Quản lý thuế, ban hành
ngày 29/11/2006.
Tóm lại, Thuế TNCN đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, ngày càng
trở thành nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Dù không phải là mục tiêu chủ yếu, song thực
hiện phát triển chính sách thuế trực thu nói chung, thuế TNCN nói riêng chính là là việc tạo lập và phát
triển nguồn thu vững chắc cho ngân sách nhà nước. Cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế ngày càng
cao, hội nhập và phát triển, thu nhập quốc dân đầu người ngày càng lớn thì khả năng huy động nguồn thu
cho ngân sách nhà nước thông qua thuế thu nhập cá nhân sẽ ngày càng tăng và sẽ ngày một dồi dào. Tuy
nhiên, vì công tác quản lý thuế TNCN còn nhiều hạn chế nên những vai trò này vẫn chưa thực sự được
phát huy ở những nước chậm phát triển.
1.1.4. Giới thiệu khái quát về Luật thuế thu nhập cá nhân
Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao (Income Tax on high - Income earner) và đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Ðể

cho phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ đó đến
nay đã có 05 lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: lần thứ nhất vào
ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày
30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2001).
Sau hơn ba năm chuẩn bị kỹ lưỡng với hàng trăm cuộc hội thảo và sau gần một năm công bố rộng rãi
để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, ngày 20/11/2007, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hoà XHCH
Việt nam khoá XII đã thông qua Luật thuế TNCN. Luật này sẽ có hiệu lực thi hành từ 1/1/2009, gồm 35
điều 4 chương, là một văn bản luật được soạn thảo “công phu” nhất từ trước đến nay, phản ánh khá đầy
đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân với nhiều điểm mới so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao (gồm 34 điều 8 chương) và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay như:
Quy định cụ thể về đối tượng nộp thuế là cá nhân kinh doanh đang nộp thuế thu nhập doanh nghiệp,
cá nhân có thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công và một số
thu nhập theo Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành sẽ được điều chỉnh theo
Luật thuế thu nhập cá nhân. Ngoài ra, có bổ sung thêm với đối tượng nộp thuế là cá nhân có thu nhập
chịu thuế từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng tài sản, thu nhập từ thừa kế, quà tặng. Sự
thay đổi này, trước hết đảm bảo tính công bằng trong điều tiết thu nhập bởi đã là cá nhân có thu nhập chịu
thuế thì dù thu nhập từ bất kì nguồn nào cũng đều được đối xử như nhau, tức là đều chịu thuế TNCN.
Thêm vào đó, việc điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế TNCN thực hiện theo
phương pháp luỹ tiến sẽ đảm bảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư. Điều này rất có ý nghĩa đối với các hộ
kinh doanh nhỏ ở Việt Nam vì theo quy định trước đây họ phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế
suất chung bằng với các doanh nghiệp (thông thường là những đơn vị kinh doanh có quy mô lớn).
Về đối tượng nộp thuế, còn một điểm mới nữa là việc định nghĩa rõ hơn đối tượng cư trú (đối tượng
phải nộp thuế TNCN cho Việt Nam đối với toàn bộ thu nhập, kể cả thu nhập phát sinh ở Việt Nam và
nước ngoài). Nếu như trước đây, đối tượng cư trú chỉ là cá nhân có mặt ở Việt Nam từ 183 ngày trở lên
trong năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ khi đến Việt Nam thì Luật thuế TNCN đã bổ
sung thêm một điều kiện nữa được coi là cư trú ở Việt Nam, đó là “cá nhân có nơi ở thường xuyên tại
Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 6 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân


có thời hạn”
(4)
. Quy định như vậy làm cho việc xác định đối tượng nộp thuế được thuận lợi hơn, bao quát
hết các đối tượng nộp thuế và mở rộng đối tượng nộp thuế một cách hợp lý.
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu nhập được phân chia thành thu nhập
thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Tuy nhiên, Pháp lệnh không định nghĩa rõ thế nào là thu
nhập thường xuyên, thế nào là thu nhập không thường xuyên. Do vậy, trong thực tế, việc tính thuế gặp
khá nhiều khó khăn. Đồng thời, việc tính thuế đối với từng loại thu nhập không hợp lý, không phù hợp
với thông lệ quốc tế. Luật thuế thu nhập cá nhân đã khắc phục được hạn chế này với việc phân loại thu
nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu nhập. Theo đó, thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ kinh
doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển
nhượng bất động sản; thu nhập khác (bao gồm: thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ bản quyền, thu nhập
từ thừa kế, quà tặng, thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại). Đây là cơ sở để tính thuế phù hợp
với từng loại thu nhập. Từ cách phân loại này, việc áp dụng thuế suất được quy định theo hai hướng: đối
với thu nhập từ kinh doanh và tiền lương, tiền công thì áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần; đối với
các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến toàn phần.
Một số khoản thu nhập trước đây không quy định (mặc nhiên được coi là thu nhập không chịu thuế)
được quy định trong Luật thuế TNCN gồm: thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại, thu nhập từ
quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các cơ sở kinh doanh, bất động sản hoặc tài sản khác phải đăng
ký sở hữu hoặc sử dụng (tuy nhiên, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản của cá nhận chỉ có nhà ở, đất
ở duy nhất được miễn thuế), thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các cuộc thi có thưởng và các
hình thức trúng thưởng khác (trước đây chỉ tính đối với trúng thưởng xổ số và khuyến mại). Tất nhiên,
những khoản thu nhập này chỉ bị đánh thuế khi thu nhập phát sinh lớn (từ trên 10 triệu đồng cho một hợp
đồng hoặc một lần phát sinh). Liên quan đến thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng, kế thừa, quà tặng, có
một quy định đáng chú ý là Luật thuế thu nhập cá nhân quy định miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển
nhượng, thừa kế, quà tặng giữa vợ với chồng; cha mẹ đẻ; cha mẹ nuôi; mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi; cha
chồng mẹ chồng với con dâu; cha vợ mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội,
cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau. Một số khoản thu nhập trước đây tạm thời chưa thu thuế như thu
nhập từ đầu tư vốn (gồm lãi cho vay, lợi tức cổ phần và thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác);
thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán. Tuy nhiên, phần thu nhập từ

lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng (ngân hàng, các quỹ tín dụng và các tổ chức tín dụng khác) và lãi từ
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được miễn thuế thu nhập cá nhân. Việc miễn thuế này nhằm mục đích thu
hút khoản tiền nhàn rỗi nhỏ lẻ trong dân cư vào các kênh tín dụng, để từ đó sử dụng vốn của nền kinh tế
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến khích sử dụng có hiệu quả mọi đồn vốn của xã hội.
Trên cơ sở kế thừa các khoản thu nhập không thuộc diện chịu thuế của Pháp lệnh thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao, Luật thuế TNCN đã bổ sung các khoản thu nhập sau vào diện miễn thuế từ thu
nhập như thu nhập từ tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn lương làm việc ban
ngày, làm việc trong giờ; lương hưu; tiền thưởng cho cá nhân về việc phát hiện, khai báo cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật; học bổng nhận từ ngân sách Nhà nước và từ các tổ
chức trong và ngoài nước theo quy định của Chính phủ; thu nhập từ viện trợ, từ thiện với điều kiện các
quỹ từ thiện này phải được Nhà nước cho phép thành lập hoặc công nhận hoạt động vì mục đích nhân đạo
không nhằm mục đích thu lợi nhuận; thu nhập từ lãi trái phiếu chính phủ. Đối với khoản đóng góp từ
thiện nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế nhưng chỉ áp dụng đối với thu nhập từ tiền
lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh; không áp dụng đối với cá khoản thu nhập khác. Với quy định
này, Luật đã khuyến khích mọi công dân trong xã hội tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Đồng
(4)
Luật thuế thu nhập cá nhân,ngày 01 tháng 01 năm 2009, điều 2 điểm b
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 7 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

thời, đây cũng chính là một khoản "chi tiêu qua thuế" của nhà nước, thể hiện ở chỗ một khoản thu lẽ ra
được nộp về ngân sách Nhà nước bây giờ được chuyển sang cho đối tượng thụ hưởng khoản đóng góp từ
thiện. Chẳng hạn như, một người có thu nhập từ kinh doanh trước thuế của một năm 360 triệu đồng (thu
nhập bình quân tháng 30 triệu đồng) thực hiện góp quỹ ủng hộ đồng bào lụt 10 triệu đồng. Khi đó, 10
triệu đồng này được giảm trừ vào thu nhập chịu thuế. Với biểu thuế như sẽ được trình bày dưới đây, số
thuế nhà nước giảm thu khi cho cá nhân này giảm trừ vào thu nhập tính thuế là 2 triệu đồng. Có thể hiểu
trong trường hợp này, coi như Nhà nước đã sử dụng ngân sách góp vào quỹ ủng hộ đồng bào bão lụt 2
triệu đồng, còn cá nhân này thực ra chỉ ủng hộ 8 triệu đồng. Việc bổ sung một số khoản thu nhập miễn
thuế nêu trên thể hiện sự ưu đãi của nhà nước đối với một số đối tượng được hưởng thu nhập trong những
trường hợp gặp khó khăn và thể hiện chính sách khuyến khích của nhà nước đối với một số hoạt động có

lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nhằm tăng cường lao động sản xuất…
Áp dụng giảm trừ gia cảnh cho bản thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng, cho mỗi người phụ
thuộc mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1.6 triệu đồng/tháng và mở rộng áp dụng đối với
cá nhân có thu nhập từ kinh doanh trước khi xác định nghĩa vụ thuế. Việc giảm trừ cho người phụ thuộc
được thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp
thuế. Những người phụ thuộc được giảm trừ khá rộng, bao gồm: con chưa thành niên, con đang học đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, con tàn tật không có khả năng lao động; các cá nhân khác không
có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng thấp hơn mức quy định của Chính phủ hoặc không có nơi nương tựa
mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng (gồm cha, mẹ, vợ chồng, cô, dì, chú, bác, cháu…). Đây
chính là vấn đề được ủng hộ của đông đảo nhân dân nhiều nhất, xuất phát từ cơ sở là, thay vì áp dụng
mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng nộp thuế (có tính riêng đối với người Việt Nam và
người nước ngoài cư trú tại Việt Nam) thì chuyển sang áp dụng giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn
cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng
nộp thuế được công bằng hơn.
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, áp dụng chịu thuế theo thu nhập thường
xuyên, tính thuế theo biểu thuế luỹ tiến từng phần với bốn mức thuế suất, thấp nhất là 10% và cao nhất là
40%. Đối với Luật thuế thu nhập cá nhân thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng cho thu nhập
từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công, mức thuế suất thấp nhất còn 5% và mức thuế suất cao nhất là
35%, với số lượng bậc thuế nâng lên thành bảy bậc áp dụng chung cho cả người Việt Nam và người nước
ngoài (cụ thể như bảng 1)
Bậc thuếThu nhập tính thuế/năm (triệu
đồng)
Thu nhập tính thuế/tháng (triệu đồng)Thuế suất (%)
1 Đến 60 Đến 5 5
2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10
3 Trên 120 đến 240 Trên 10 đến 20 15
4 Trên 240 đến 420 Trên 20 đến 35 20
5 Trên 420 đến 660 Trên 35 đến 55 25
6 Trên 660 đến 960 Trên 55 đến 80 30
7 Trên 960 Trên 80 35

Bảng 1 : Biểu thuế lũy tiến từng phần.
Với biểu thuế mới này, tuy việc tính toán có phức tạp hơn (do tăng số lượng bậc thuế) nhưng lại đảm
bảo công bằng hơn trong điều tiết thu nhập do chênh lệch về thuế suất giữa các bậc thuế giảm đi. Việc hạ
thuế suất cao nhất và thấp nhất xuống thể hiện tinh thần mở rộng diện đánh thuế nhưng mức độ điều tiết
cũng giảm đi, huy động sự đóng góp của nhiều người nhưng với mức độ vừa phải. Mặc khác, việc giảm
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 8 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

mức thuế suất cao nhất sẽ góp phần khuyến khích người lao động tích cực lao động và sản xuất, kinh
doanh; khuyến khích người dân làm giầu chính đáng.
Đối với các khoản thu nhập còn lại. Luật thuế thu nhập cá nhân quy định biểu thuế luỹ tiến toàn phần
(như bảng 2):
Loại thu nhập tính thuế Thuế suất (%)
1 Thu nhập từ đầu tư vốn 5
2 Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại 5
3 Thu nhập từ trúng thưởng 10
4 Thu nhập từ thừa kế, quà tặng 10
5 Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản
Trường hợp không xác định được thu nhập tính thuế thì áp dụng thuế suất
tính trên gía bán
25
2
6 Thu nhập từ chuyển nhượng vốn
Đối với chuyển nhượng chứng khoán áp dụng thu thuế theo từng phần
20
0.1
Bảng 2: Biểu thuế lũy tiến toàn phần.
Ngoài ra, Luật còn quy định thuế suất cụ thể cho từng loại thu nhập áp dụng đối với cá nhân không cư
trú với các mức thuế suất từ 0.1% đến 20% tính trên toàn bộ thu nhập phát sinh ở Việt Nam (không được
trừ chi phí).

Có thể nói, Luật thuế TNCN có rất nhiều điểm đổi mới phù hợp với thực tiễn và khoa học so với Pháp
lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
1.2 Khái quát về công tác quản lý thuế
1.2.1 Khái niệm về quản lý thuế thu nhập cá nhân
Trước hết ta tìm hiều về quản lý thì quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý
một cách có tổ chức, có hướng đích nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
Về phương thức tác động và hiệu lực thì quản lý dựa vào pháp luật và các thể chế, quy chế, nguyên
tắc, mô hình đã định trước.
Về nội dung chức năng, quản lý bao gồm các việc như xây dụng kế hoạch xắp xếp tổ chức, chỉ đạo
điều hành và kiểm soát tiến trình hoạt động.
Về phạm vi tác động và hình thức thể hiện: quản lý là một phạm trù rộng, để tiến hành quản lý, chủ
thể quản lý phải tiến hành đồng bộ rất nhiều chức năng, trong đó có chức năng lãnh đạo.
Như vậy quản lý thuế TNCN là sự tác động có chủ đích của các cơ quan chức năng trong bộ máy nhà
nước đối với quá trình tính và thu thuế thu nhập cá nhân, để thay đổi quá trình này nhằm tạo nguồn thu
cho ngân sách và đạt được các mục tiêu nhà nước đặt ra.
1.2.2 Nội dung công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân
Công tác quản lý thuế TNCN là một phần quan trọng của quản lý tài chính Nhà nước, Công tác này
cần được nhìn nhận ở tầm vĩ mô và phải bao gồm toàn bộ các công việc thuộc các lĩnh vực lập pháp và
hành pháp, tư pháp về thuế TNCN. Nội dung của công tác quản lý thuế TNCN bao gồm :
1.2.2.1. Quản lý các đối tượng nộp thuế, tính thuế và các khoản được khấu trừ theo quy định
a. Xác định đối tượng nộp thuế
Thuế TNCN thuộc loại thuế trực thu nên đối tượng chịu thuế cũng đồng thời là đối tượng nộp thuế.
Xác định đối tượng nộp thuế là một trong những nội dung quan trọng của thuế TNCN, từ đó mới có thể
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 9 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

vận dụng cách tính thuế cho phù hợp. Khi tiến hành xác định đối tượng nộp thuế, người ta thường dựa
vào hai tiêu thức là “nơi cư trú” và “nguồn phát sinh thu nhập”.
Theo tiêu thức “nơi cư trú", một cá nhân được xác định là cư trú ở một nước phải nộp thuế tại đó đối
với mọi khoản thu nhập phát sinh từ khắp nơi trên thế giới, còn một cá nhân được xác định là không cư

trú ở một nước chỉ phải nộp thuế cho phần thu nhập phát sinh tại nước đó.
Theo tiêu thức “nguồn phát sinh thu nhập” lại quy định: một cá nhân phải nộp thuế thu nhập cá nhân
ở một nước đối với mọi khoản thu nhập của cá nhân phát sinh tại nước đó.
Hiện nay, đa số các nước tính thuế TNCN theo tiêu thức “nơi cư trú”. Tuy nhiên, khái niệm thế nào
là một cá nhân cư trú tại một nước lại được định nghĩa khác nhau trong luật thuế TNCN của các nước.
Rất có nhiều nước quy định cá nhân cư trú là người định cư tại nước đó hoặc những người đến nước đó
không thường xuyên nhưng tổng số ngày ở tại nước đó vượt quá 183 ngày trong một năm (năm dương
lịch hay năm tài chính). Tuy nhiên, một số nước lại đưa ra những định nghĩa về cá nhân cư trú cụ thể hơn
và có điểm khác với định nghĩa nêu trên.
Chẳng hạn như Nhật Bản đưa ra một định nghĩa tương đối phức tạp, trong đó có 3 khái niệm khác
nhau là cá nhân cư trú thường xuyên, cá nhân cư trú không thường xuyên và cá nhân không cư trú. Cụ thể
là :
+ Cá nhân cư trú thường xuyên là cá nhân định cư thường xuyên ở Nhật Bản liên tục từ 1 đến 5 năm
trở lên .
+ Cá nhân cư trú không thường xuyên là cá nhân không có ý định cư trú thường xuyên tại Nhật nhưng
có nơi thường trú ở Nhật từ 1 năm trở lên và không được quá 5 năm .
+ Cá nhân không cư trú là cá nhân không có nơi định cư tại Nhật Bản và sống tại Nhật Bản ít hơn 1
năm .
Các cá nhân nước ngoài đến Nhật Bản sẽ được coi là có nơi cư trú tại Nhật Bản trừ khi các hợp đồng
lao động hoặc các giấy tờ khác chỉ rõ rằng họ sẽ ở lại Nhật Bản ít hơn một năm. Các cá nhân cư trú
thường xuyên bị tính thuế trên thu nhập từ mọi nguồn; các cá nhân cư trú không thường xuyên bị tính
thuế trên thu nhập có nguồn gốc từ nước ngoài nhưng được trả tại Nhât Bản hoặc chuyển đến Nhật Bản.
Các cá nhân không cư trú chỉ phải nộp thuế đối với thu nhập có nguồn gốc từ Nhật Bản.
(5)
Ở Trung Quốc quy định, một cá nhân đang cư trú trong biên giới của Trung Quốc hoặc những người
không cư trú, nhưng cuộc sống bên trong biên giới của Trung Quốc cho không ít hơn một năm phải nộp
thuế thu nhập cá nhân trên bấc kỳ thu nhập thu được từ bên trong hay bên ngoài biên giới Trung Quốc.
Một cá nhân không phải là người cư trú cũng như cuộc sống bên trong biên giới của Trung Quốc hoặc
những người không cư trú và sống bên trong biên giới ít hơn một năm phải nộp thuế thu nhập cá nhân
trên bất kỳ thu nhập thu được từ bên trong biên giới Trung Quốc.

(6)
Luật thuế TNCN ở Việt Nam quy định, cá nhân bao gồm cá nhân cư trú và không cư trú. Đối với cá
nhân cư trú thì phải có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo
12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam hoặc có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao
gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn, có
thu nhập chịu thuế phát sinh bấc cứ trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam điều phải nộp thuế còn cá nhân
không cư trú thì không đáp ứng về điều kiện nêu trên nhưng có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh
thổ Việt Nam cũng phải nộp thuế.
(5)
/>(6)

personal_icm_tax_99.html
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 10 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Sự phân biệt cư trú hay không cư trú của một đối tượng nộp thuế là rất quan trọng, để xác định đối
tượng nộp thuế đó phải nộp thuế ở mức độ nào. Như vậy, có thể thấy tùy vào chính sách và trình độ quản
lý của từng nước mà mỗi nước sẽ đưa ra các định nghĩa đối tượng nộp thuế sao cho phù hợp với tình hình
của mình.
b. Xác định đối tượng tính thuế
Việc xác định đối tượng tính thuế là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu được đề cập đến
trong chính sách thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Căn cứ vào đó,
người ta có thể thấy rằng loại thuế thu nhập cá nhân áp dụng có công bằng không, thuế này tạo được
nguồn thu như thế nào cho ngân sách nước đó. Để tính được thuế TNCN phải nộp, trước tiên phải xác
định được những khoản thu nhập nào là đối tượng chịu thuế, khoản thu nhập nào là đối tượng không chịu
thuế và tính toán thu nhập đó như thế nào. Sau đó, căn cứ vào một số quy định khác trong chính sách thuế
như các khoản miễn giảm, khấu trừ… cơ quan thuế xác định được thu nhập tính thuế. Từ thu nhập tính
thuế và thuế suất sẽ xác định được thuế phải nộp, sao cho người nộp thuế chấp nhận và để luật thuế có
tính khả thi cao. Có như vậy mới đảm bảo được mục tiêu kinh tế, xã hội trong việc thu thuế TNCN.
Theo pháp luật thuế TNCN, để xác định đối tượng tính thuế đối với người có thu nhập trước hết,

chúng ta cần xác định một khái niệm cho thuật ngữ “thu nhập”. Cho đến nay, hầu hết các đạo luật về thuế
TNCN ở các nước thường chỉ quy định những khoản thu nhập nào phải tính thuế. Tuy nhiên, trên thực tế
cũng tồn tại một số quan niệm về thu nhập như sau: “Thu nhập là giá trị nhận được của một pháp nhân
hay thể nhân nào đó trong một khoảng thời gian nhất định không phân biệt nguồn gốc phát sinh. Giá trị
đó có thể được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hay các giá trị vật chất, phi vật chất nhưng có thước đo
chung là tiền tệ”.
(7)
Từ những quan niệm trên, có thể nói rằng TNCN là giá trị một cá nhân kiếm được trong một khoảng
thời gian (thường là một năm) sau khi đã khấu trừ đi các chi phí để tạo ra thu nhập đó. Mặc dù luật thuế
TNCN quy định 10 nhóm thu nhập chịu thuế ta có thể chia thành hai nhóm: Thu nhập thường xuyên và
thu nhập không thường xuyên.
( Thu nhập thường xuyên: Được hiểu là các khoản thu nhập phát sinh thường xuyên, có tính chất
đều đặn và ổn định trong tháng, trong năm và có thể dự tính được, bao gồm:
- Thu nhập từ kinh doanh: Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; Thu nhập từ
hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp
luật.
- Thu nhập từ tiền lương, tiền công: Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền
công; Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định của pháp luật về ưu đãi
người có công, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc
công việc ở nơi làm việc có yếu tố độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy định
của pháp luật, trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp một lần khi
sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền
tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của Bộ luật lao động, các khoản trợ
cấp khác do Bảo hiểm xã hội chi trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã hội; Tiền thù lao dưới các hình thức;
Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, hội đồng quản lý và
các tổ chức; Các khoản lợi ích khác mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc không bằng tiền;
Tiền thưởng, trừ các khoản tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được Nhà nước phong tặng, tiền thưởng
kèm theo giải thưởng quốc gia, giải thưởng quốc tế, tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh
(7)
Theo bách khoa từ điển.

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 11 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, tiền thưởng về việc phát hiện, khai báo hành vi vi
phạm pháp luật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong đó thu nhập thường xuyên chịu thuế là tổng thu nhập của từng cá nhân, bình quân tháng trong
năm nằm trong giới hạn phải nộp thuế do biểu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao quy định.
( Thu nhập không thường xuyên: Là các khoản thu nhập phát sinh theo từng lần, từng đợt riêng lẻ,
không có tính chất đều đặn, nằm trong mức giới hạn phải nộp thuế thu nhập, được tính theo biểu thuế
toàn phần bao gồm: Thu nhập từ đầu tư vốn, bao gồm: Tiền lãi cho vay; Lợi tức cổ phần; Thu nhập từ đầu
tư vốn dưới các hình thức khác, trừ thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ.
- Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, bao gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn trong các tổ chức
kinh tế; Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán; Thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức
khác.
- Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất; Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; Thu nhập từ
chuyển nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước; Các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng
bất động sản.
- Thu nhập từ trúng thưởng, bao gồm: Trúng thưởng xổ số; Trúng thưởng trong các hình thức khuyến
mại; Trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino; Trúng thưởng trong các trò chơi, cuộc thi có
thưởng và các hình thức trúng thưởng khác.
- Thu nhập từ bản quyền, bao gồm: Thu nhập từ chuyển giao, chuyển quyền sử dụng các đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ; Thu nhập từ chuyển giao công nghệ;
- Thu nhập từ nhượng quyền thương mại;
- Thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất
động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng;
- Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất
động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.
Từ những quan niệm trên, có thể nói rằng TNCN là giá trị một cá nhân kiếm được trong một khoảng
thời gian (thường là một năm) sau khi đã khấu trừ đi các chi phí để tạo ra thu nhập đó. Tuy nhiên không

phải nước nào cũng đưa tất cả các nguồn thu nhập ở trên vào diện thu nhậo tính thuế.
c. Xác định các khoản khấu trừ để tính thuế
Một trong những nguyên tắc cơ bản khi tính thuế TNCN là đối tượng tính thuế phải là thu nhập do
người đóng thuế toàn quyền sử dụng theo quy định của pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là đối tượng tính
thuế là thu nhập đã khấu trừ đi các khoản chi phí cần thiết để tạo ra thu nhập đó với một số giới hạn nhất
định. Tùy theo đặc điểm kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia mà người ta quy định những khoản khấu trừ
phù hợp. Tuy nhiên, về cơ bản có một nguyên tắc chung: Tất cả các chi phí trực tiếp liên quan đến việc
tạo ra thu nhập cá nhân đều được khấu trừ để xác định thu nhập thực nhận được, sau đó trừ tiếp một số
khoản mang tính chất xã - hội trước khi tính thuế. Chẳn hạn như:
Thu nhập từ các hoạt động thương mại, công nghiệp, dịch vụ của các hộ kinh doanh cá thể không
thuộc diện tính thuế thu nhập doanh nghiệp (các chi phí cần thiết và liên quan trực tiếp đến hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ để tạo ra thu nhập mà người nộp thuế đã thực hiện);
Thu nhập từ tiền lương, tiền công, hưu trí, trợ cấp xã hội và các khoản tương tự (cho phép trừ ra khỏi
thu nhập một mức nào đó gọi là chi phí nghề nghiệp như: ca sĩ, nhà báo, nhạc công…);
Thu nhập từ lãi cổ phần, lãi cho vay, lãi tiền gửi (chi phí mua các chứng khoán có giá);
Thu nhập từ thừa kế (theo quan hệ thừa kế là trực hệ, quan hệ vợ chồng hay quan hệ khác);
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 12 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Các khoản trả có tính chất lương như trợ cấp ốm đau, lương hưu, trợ cấp tai nạn lao động, trợ cấp thất
nghiệp… được chi trả từ quỹ bảo hiểm xã hội do chúng là đối tượng của chính sách xã hội nên nhiêu
nước không thu thuế đối với các khoản thu nhập này.
Các khoản phúc lợi xã hội như sử chữa nhà cửa, thiên tai,chữa bệnh, dịch họa hoặc chi phí của người
tàn tật…Thu nhập được sử dụng cho các khoản chi phí này thường được miễn thuế thu nhập. Sở dĩ như
vậy là để bảo đảm bảo có sự bình đẳng với những người không phải chi những khoản chi phí này.
Các khoản chi phí nuôi người phụ thuộc mang tính chất gánh nặng gia đình cũng được quy định
thành một khoản khấu trừ tùy theo quy đđịnh của Nhà nước. Tất cả các khoản chi phí trên thường được
các nước quy định một giới hạn khấu trừ cụ thể gọi là suất miễn thu.
Các khoản chi phí cá nhân khác nhằm tái tạo sức lao động, chi phí đảm bảo điều kiện sống tối thiểu
của cá nhân.

Đây là một trong những đặc điểm của thuế TNCN là có quan tâm đến sinh hoạt của đối tượng nộp
thuế và tính thuế theo khả năng. Điều này cũng cho thấy thu nhập cá nhân luôn gắn với các chính sách xã
hội.
1.2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế
Ngoài những quy định trong văn bản pháp quy có được hoàn hảo hay không thì sự thành công trong
việc thực hiện các chính sách thuế, còn phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết sâu sắc và ý thức chấp hành
nghiêm túc của cán bộ thuế, cũng như người nộp thuế. Để nội dung của chính sách thuế đến với mọi
người dân trong xã hội, cơ quan thuế cần phải tiến hành công tác tuyên truyền, phổ biến về chính sách
thuế
Công tác tập huấn về tuyên truyền thuế TNCN sẽ được tổ chức theo từng cấp. Công tác này cần phải
được thực hiện trước hết từ cán bộ thuế, theo đó mỗi địa phương sẽ cử một đại diện lãnh đạo Cục Thuế,
một lãnh đạo phòng thuế thu nhập cá nhân hoặc một lãnh đạo phòng có kiến thức am hiểu sâu về thuế thu
nhập cá nhân, có kỹ năng thuyết trình tốt. Sau tập huấn sẽ là các giáo viên để phổ biến, hướng dẫn lại cho
cán bộ thuế ở địa phương; các đại biểu quốc hội trên địa bàn; các cơ quan hành chính sự nghiệp; các hiệp
hội; đoàn thể; các doanh nghiệp và nhân dân…, đảm bảo cho mọi người điều nắm bắt được những nội
dung cơ bản nhất của luật.
Nội dung của đợi tập huấn chia làm hai phần: đầu tiên sẽ hệ thống, đánh giá lại tình hình thực hiện
chính sách điều tiết về thuế TNCN. Tiếp theo là phổ biến nội dung Luật thuế TNCN với những giải thích
rõ ràng, chi tiết về một số điểm cần lưu ý.
Để thành công trong công tác tuyên truyền, phổ biến thuế, các cơ quan thuế cần phải phối hợp với
nhau như: Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức tốt việc
tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa, các nội dung cơ bản của Luật, các văn bản hướng dẫn và thủ tục hành
chính về thuế thu nhập cá nhân đến tất cả các cơ quan, doanh nghiệp và mọi người dân hiểu, thực hiện và
giám sát việc thực hiện. Chủ động triển khai hệ thống hỗ trợ, hướng dẫn về thuế; Bộ trưởng các Bộ, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo công tác tuyên
truyền, phổ biến về Luật Thuế thu nhập cá nhân trong phạm vi Bộ, ngành, địa phương mình; Đài Truyền
hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, các đài phát thanh và truyền hình ở địa phương dành thời lượng
thoả đáng để tuyên truyền, phổ biến về Luật Thuế thu nhập cá nhân. Các báo của Trung ương và địa
phương dành chuyên mục để phổ biến, đăng tải các ấn phẩm tuyên truyền về thuế thu nhập cá nhân, phát
hành các ấn phẩm, tờ rơi, áp phích, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về thuế TNCN

(8)
…để nhân dân nắm bắt
các quy định về đối tượng thuộc diện nộp thuế, quyền và nghĩa vụ của các đối tượng đồng thời tạo trong
cán bộ và các tầng lớp nhân dân, tổ chức ý thức tự giác chấp hành quy định của Luật, ủng hộ, tự giác và
(8)
Chỉ thị số 22/2008/CT-TTg
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 13 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

đồng tình trong việc chi trả thu nhập… qua đó kịp thời biểu dương các cá nhân tự giác thực hiện và chấp
hành nghiêm túc các quy định về nộp thuế; phát hiện, phê phán kịp thời những hiện tượng, hành vi vi
phạm quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân cũng như bảo đảm sự công bằng, bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân trong cộng đồng xã hội.
1.2.2.3. Công tác đào tạo cán bộ công chức trong quản lý thuế
(9)

Từ khi mới thành lập ngành thuế đã xác định công tác đào, tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho công chức thuế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Hơn 16 năm qua cơ
quan thuế từ Trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhiều hình thức: vừa
đào tạo chính quy vừa tăng cường tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý thuế và học hỏi các nước trên
thế giới và tiến hành như sau:
Thực hiện được mục tiêu trên, đội ngũ cán bộ công chức ngành thuế sẽ được đào tạo, bồi dưỡng tập
trung theo ba nội dung cơ bản: Một là giáo dục đạo đức, tác phong nghề nghiệp, trách nhiệm pháp luật và
phương pháp giao tiếp, ứng xử. Hai là đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức kinh tế, pháp luật liên quan nhằm
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ quản lý. Ba là đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức và kỹ năng
quản lý thuế theo cấp độ từ cơ bản đến chuyên sâu và nâng cao từng loại công chức thực hiện các chức
năng và lĩnh vực quản lý thuế khác nhau, trước mắt tập trung vào các kỹ năng tuyên truyền pháp luật thuế
và hỗ trợ người nộp thuế; thanh tra kiểm tra, kiểm tra; quản lý kê khai và kế toán thuế; quản lý nợ thuế và
cưỡng chế thu nợ thuế; dự báo thu ngân sách nhà nước về thuế, quản lý thuế thu nhập cá nhân… Theo
Tổng cục thuế, tổng nhu cầu đào tạo về nghiệp vụ quản lý thuế hiện nay là khoảng 264.000 (năm 2010)

lượt người bình quân 66.000 lượt người/năm. Trong đó nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cho công chức lãnh
đạo cấp Ban, cấp Cục Thuế khoảng 1.700 lượt người, bình quân 430 lượt người/năm.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế TNCN. Mỗi nhân tố đều có thể ảnh hưởng
tích cực hay tiêu cực tới công tác này tùy theo tính chất và trạng thái của nhân tố đó. Nhiệm vụ của các cơ
quan chức năng trong bộ máy nhà nước là phải tìm cách hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực cũng như phát
huy những ảnh hưởng tích cực nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân.
1.2.3.1. Chính sách chung của Nhà nước
Thuế TNCN là sắc thuế nhạy cảm và phức tạp vào bậc nhất trong các sắc thuế ở nước ta. Thuế này
trực tiếp tác động đến túi tiền của người dân trong điều kiện mức sống của đa số dân còn thấp, lại không
am tường pháp luật và thủ tục thuế, cũng chưa có đủ ý thức công dân để thật thà khai báo thu nhập.
Khả năng kiểm soát và chứng minh thu nhập cá nhân rất hạn chế, đặc biệt đối với khu vực hành nghề
tự do và kinh doanh nhỏ. Đối tượng nộp thuế đa dạng, thu nhập tính thuế không đồng nhất, bao gồm từ
tiền công, tiền lương của người lao động đến lãi của những nhà kinh doanh, nhà đầu tư Tính nhạy cảm
và phức tạp như vậy đòi hỏi phải rất thận trọng để tránh những sai sót không đáng có trong chính sách và
biện pháp, có thể tạo ra những phản ứng xã hội.
Một chính sách thuế được cho là công bằng, nếu không có biện pháp quản lý khả thi tất yếu sẽ dẫn
tới bất công trong thực tế. Thực tế thu thuế thu nhập cá nhân hiện hành đối với những người hành nghề tự
do cho thấy rõ như vậy.
Để bảo đảm sự thống nhất giữa chính sách và biện pháp ngay từ đầu, đòi hỏi các nhà soạn thảo luật
giải trình biện pháp và Quốc hội chỉ thông qua từng chính sách khi biện pháp được giải trình có tính khả
thi, trả lời được rõ ràng, cụ thể và có sức thuyết phục những câu hỏi còn vướng mắt khi áp dụng chính
sách thuế Tính thuế thế nào? Chẵng hạn như:
(
9)

Tập chí thuế nhà nuốc số 22

(140) tháng 6-2007
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 14 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm

Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

- Theo luật thuế TNCN, thu nhập chịu thuế từ kinh doanh của hộ nhỏ được xác định bằng cách lấy
doanh thu trừ đi chi phí. Như vậy đối với các hộ nhỏ trước nay vẫn thu Thuế Giá trị gia tăng và Thuế Thu
nhập doanh nghiệp bằng cách khoán thì cách tính doanh thu và chi phí những hộ này thế nào?
- Đối với thu nhập từ lao động của những người thu nộp tại nguồn, cách thu đối với những người có thu
nhập ở nhiều nơi, cách quyết toán và hoàn thuế như thế nào để bảo đảm đơn giản về thủ tục mà lại không
thất thu, giải quyết nhanh gọn, không phiền hà cho người nộp thuế. Cách thu đối với những người hành
nghề tự do làm sao đơn giản thủ tục nhưng đặt được thu nhập của họ vào tầm kiểm soát của cơ quan thuế.
Đây là hai vấn đề về mặt biện pháp cần được giải quyết ổn thỏa.
- Biện pháp thu thuế trong những trường hợp chuyển nhượng chứng khoán. Đối với những chứng khoán
giao dịch qua thị trường chứng khoán, dự luật quy định thu tại nguồn, tức là qua các công ty chứng
khoán. Vậy các công ty này vừa phải thường xuyên thu thuế khi phát sinh mỗi chuyển nhượng, vừa phải
quyết toán thuế cả năm cho từng khách hàng của mình hay sao? Giải quyết ra sao khi một nhà đầu tư lại
mua bán thông qua nhiều công ty chứng khoán? Những chuyển nhượng ngoài thị trường chứng khoán có
thu thuế hay không và nếu thu thì dùng biện pháp nào? Có chính sách phân biệt và cách phân biệt nhà đầu
tư dài hạn và nhà đầu tư ngắn hạn?
- Luật quy định thu nhập chịu thuế chuyển nhượng bất động sản tính bằng cách lấy giá bán trừ giá mua
hay chi phí tạo lập. Cách tính giá bán và giá mua hay chi phí tạo lập như thế nào, đặc biệt là đối với
những bất động sản tạo lập đã lâu đời?
- Thuế TNCN lần này có chính sách giảm trừ gia cảnh được dư luận hoan nghênh. Song về mặt biện
pháp thực hiện lại không hề đơn giản. Không đòi hỏi người nộp thuế chứng minh về người phụ thuộc
được giảm trừ, khó loại trừ khả năng man khai. Nếu đòi hỏi chứng minh thì vấn đề trở nên rắc rối. Trong
thực tế, chứng minh quan hệ ruột thịt không khó, vì đã có nhiều giấy tờ ghi nhận hoặc có thể dựa vào xác
nhận của chính quyền địa phương. Song chứng minh về quan hệ nuôi dưỡng là vấn đề tế nhị, riêng tư của
từng gia đình và có rất nhiều kịch bản có thể xảy ra. Chính quyền địa phương không thể xác nhận. Vậy
thủ tục cụ thể thế nào cho vừa đơn giản, không gây phiền hà, vừa chống man khai hoặc tạo được lòng tin
rằng không có khai man.
Đó là những câu hỏi trong nhiều câu hỏi của cuộc sống cần phải giải đáp bằng những biện pháp khả
thi với những lý lẽ thuyết phục. Có vậy chính sách mới có tính khả thi. Và để trả lời được, các biện pháp

cần được nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn nữa. Do đó thời gian nghiên cứu của các các cơ quan soạn thảo
luật và cả của Quốc hội cần phải kéo dài hơn.
1.2.3.2 Cơ sở vật chất của ngành thuế
Nhân tố này có ảnh hưởng mạnh mẽ tới công tác quản lý thuế TNCN. Những quy định trong chính
sách về diện thu thuế, phương thức kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế… phụ thuộc rất nhiều vào khả năng
đáp ứng của ngành thuế. Khả năng này lại phụ thuộc rất lớn vào cơ sở vật chất của ngành thuế. Cũng như
vậy, sự phát triển của hệ thống ngân hàng và ứng dụng các tiến bộ khoa học về tin học và mạng sẽ là một
nhân tố rất hữu ích cho cơ quan thuế trong việc quản lý thu thuế hiệu quả, chính xác, kịp thời và tiết kiệm
chi phí. Nếu như các khoản thu nhập được thanh toán qua hệ thống ngân hàng dưới hình thức tài khoản
séc hoặc bằng thẻ ATM cá nhân thì sẽ rất thuận tiện cho cơ quan thuế trong việc giám sát. Phương pháp
thu thuế TNCN thông qua hệ thống ngân hàng, điều này vừa giúp giảm bớt công việc và chi phí cho cơ
quan thuế, vừa kiểm soát chặt chẽ hơn thu nhập của đối tượng nộp thuế. Chính vì vậy, sự phát triển của
hệ thống ngân hàng đi kèm với việc phát triển hình thức thanh toán qua tài khoản sẽ là một điều kiện tất
yếu để có thể thực hiện tốt công tác quản lý thuế TNCN và xây dựng mạng thông tin nội bộ và phần mềm
ứng dụng để quản lý cơ sở dữ liệu sẽ đòi hỏi những chi phí bước đầu tương đối lớn, nhưng xét về dài hạn
thì điều này sẽ tiết kiệm chi phí hơn rất nhiều so với việc quản lý dữ liệu theo kiểu thủ công.
1.2.3.3 Trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ lãnh đạo cán bộ thuế
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 15 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Trình độ đội ngũ cán bộ thuế đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý thuế, đặc biệt là thuế
TNCN. Nhân tố này tác động vào tất cả các nội dung của công tác quản lý thuế TNCN, từ ban hành chính
sách, tổ chức thực hiện chính sách tới thanh tra thuế, tổ chức bộ máy quản lý thuế.
Để có thể ban hành những chính sách thuế đúng đắn, đáp ứng được yêu cầu của những thay đổi kinh
tế xã hội và đảm bảo được những mục tiêu của công tác quản lý thuế TNCN thì đội ngũ cán bộ thuế cấp
cao, ở tầm hoạch định chính sách cần phải có trình độ cao về vấn đề thực tế cũng như cơ bản liên quan
đến ngành thuế.
1.2.3.4. Phương thức thanh toán chủ yếu trong dân cư
Phương thức thanh toán chủ yếu trong dân cư ảnh hưởng lớn tới khâu quản lý thu thuế và thanh tra
thuế. Quản lý thuế TNCN khó khăn và phức tạp chủ yếu ở khâu quản lý thu nhập của các đối tượng. Nếu

như các khoản thu nhập được thanh toán qua hệ thống ngân hàng dưới hình thức tài khoản séc cá nhân thì
sẽ rất thuận tiện cho cơ quan thuế trong việc giám sát. Bên cạnh đó, nếu phương thức thanh toán trong
dân cư chủ yếu thông qua ngân hàng thì nhà nước có thể áp dụng phương pháp thu thuế TNCN thông qua
hệ thống ngân hàng. Điều này vừa giúp giảm bớt công việc và chi phí cho cơ quan thuế, vừa kiểm soát
chặt chẽ hơn thu nhập của đối tượng nộp thuế. Chính vì vậy, sự phát triển của hệ thống ngân hàng đi kèm
với việc phát triển hình thức thanh toán qua tài khoản sẽ là một điều kiện tất yếu để có thể thực hiện tốt
công tác quản lý thuế TNCN.
1.2.3.5 Tính nghiêm minh của luật pháp
Cơ quan luật pháp làm việc có hiệu quả, luật pháp được thực hiện nghiêm minh sẽ đảm bảo việc vi
phạm luật giảm đi. Các đối tượng nộp thuế cũng như cơ quan thu thuế cũng sẽ thực hiện nghiêm túc hơn
các quy định trong luật thuế bởi họ biết rằng khi vi phạm họ sẽ không tránh khỏi những hình phạt nếu bị
phát hiện. Như vậy, công tác quản lý thuế TNCN sẽ đạt được hiệu quả.
1.2.3.6. Tình hình kinh tế, mức sống của người dân và trình độ dân trí của đối tượng nộp thuế
Hiệu quả của công tác quản lý thu thuế TNCN phụ thuộc không nhỏ vào mức độ phát triển kinh tế và
đời sống của dân cư. Cùng một đơn vị thu thuế trên một khu vực, số đối tượng nộp thuế thu nhập nhiều sẽ
giảm bớt chi phí trên một đồng thuế thu được, ngược lại có ít đối tượng nộp thuế và số thuế thu được ít thì
chi phí cho một đồng thuế thu được sẽ cao. Sự phát triển kinh tế sẽ đồng hành với sự phát triển của cơ sở
hạ tầng phục vụ cho công tác quản lý nói chung và công tác quản lý thuế nói riêng, khi cơ sở hạ tầng tốt
thì khả năng quản lý thuế cũng sẽ được đơn giản và hiệu quả hơn.
Trình độ của người dân tác động mạnh mẽ đến ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật
thuế nói riêng, tỉ lệ thuận với ý thức và trách nhiệm nộp thuế. Khi người dân có ý thức chấp hành luật
thuế tốt, họ sẽ tự giác trong kê khai, nộp thuế. Hành vi trốn thuế sẽ ít xảy ra. Chính vì vậy, công tác quản
lý thu thuế và thanh tra thuế sẽ gặp nhiều thuận lợi và đạt kết quả tốt hơn. Tóm lại, trình độ dân trí của
người dân càng cao thì ý thức chấp hành pháp luật thuế của đối tượng nộp thuế càng lớn, đồng thời nó
cũng ảnh hưởng một phần tới công tác quản lý thuế TNCN.
1.2.4. Tổ chức bộ máy quản lý thuế
Nhà nước xây dựng bộ máy quản lý thuế để quản lý thuế TNCN cũng như các sắc thuế khác. Tùy
thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng nước, bộ máy quản lý thuế cũng được xây dựng
một cách tương ứng.
Ngày 7/8/1990, hội đồng Bộ trưởng đã ban hành nghị định số 218-HĐBT về việc thành lập ngành

thuế nhà nước, hợp nhất ba hệ thống tổ chức: Thu quốc danh, thuế công thương nghiệp, thuế nông
nghiệp. Ngành Thuế nhà nước được tổ chức qua ba cấp từ tổng cục thuế, cục thuế đến chi cục thuế, được
xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm và sự phân công cụ thể hợp lý giữa cơ quan thuế ngành dọc cấp trên
và chính quyền từng cấp trong tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm chỉnh chính sách chế độ thuế
chung cả nước và trên địa bàn lãnh thổ theo nguyên tắc “song hành lãnh đạo”.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 16 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Sau một thời gian hoạt động, do nhận thấy những hạn chế trong hệ thống thuế nhà nước và để phù
hợp với tình hình mới, nên Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số 115/2009/QĐ-TTg, quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính như sau:
* Về vị trí và chức năng:
Tổng cục Thuế là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng
Bộ Tài chính quản lý nhà nước về các khoản thu nội địa trong phạm vi cả nước, bao gồm: thuế, phí, lệ phí
và các khoản thu khác của ngân sách nhà nước; tổ chức quản lý thuế theo quy định của pháp luật.
Tổng cục Thuế có tư cách pháp nhân, con dấu có hình Quốc huy, tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà
nước và trụ sở tại thành phố Hà Nội.
* Về nhiệm vụ và quyền hạn:
Tổng cục Thuế thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định như: Các
dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội; dự án pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội; dự thảo nghị định của Chính phủ, dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về quản lý thuế;
Chiến lược, quy hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hành động, đề án, dự án quan trọng
về quản lý thuế; Dự toán thu thuế hàng năm theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.
- Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét, quyết định các Dự thảo thông tư và các văn bản khác về quản
lý thuế; Kế hoạch hoạt động hàng năm của ngành thuế.
- Ban hành văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, văn bản quy phạm nội bộ, văn bản cá biệt thuộc
phạm vi quản lý của Tổng cục Thuế.
- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự
án, đề án về quản lý thuế sau khi được cấp có thẩm quyền ban hành hoặc phê duyệt.

- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thuế.
- Tổ chức hướng dẫn, giải thích chính sách thuế của Nhà nước; tổ chức công tác hỗ trợ người nộp thuế
thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện quy trình nghiệp vụ về đăng ký thuế, cấp
mã số thuế, kê khai thuế, tính thuế, nộp thuế, hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, xoá nợ tiền thuế, tiền phạt;
quy trình nghiệp vụ về kế toán thuế và các nghiệp vụ khác có liên quan.
- Quyết định hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định việc miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế, gia hạn
thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, gia hạn thời hạn nộp thuế, xoá tiền nợ thuế, tiền phạt thuế.
- Bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế; giữ bí mật thông tin của người nộp thuế; xác nhận việc thực
hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế khi có đề nghị theo quy định của pháp luật.
- Giám định để xác định số thuế phải nộp của người nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
- Yêu cầu người nộp thuế cung cấp sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ và hồ sơ tài liệu khác có liên quan đến
việc tính thuế, nộp thuế; yêu cầu tổ chức tín dụng, các tổ chức và cá nhân khác có liên quan cung cấp tài
liệu và phối hợp với cơ quan thuế trong công tác quản lý thuế.
- Ủy nhiệm cho các cơ quan, tổ chức trực tiếp thu một số khoản thuế theo quy định của pháp luật.
- Ấn định thuế, truy thu thuế; thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế để
thu tiền thuế nợ, tiền phạt vi phạm hành chính thuế.
- Lập hồ sơ kiến nghị khởi tố các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về thuế; thông báo công khai trên
phương tiện thông tin đại chúng các trường hợp vi phạm pháp luật thuế.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về lĩnh vực thuế theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và
quy định của pháp luật.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 17 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

- Tổ chức quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của ngành thuế; hiện đại hoá cơ sở vật
chất kỹ thuật của ngành thuế.
- Tổ chức quản lý thông tin về người nộp thuế; xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin về người nộp thuế;
thực hiện công tác thống kê thuế và chế độ báo cáo tài chính theo quy định.
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm

quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật thuế; phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng tài sản, kinh phí được giao theo
quy định của pháp luật.
- Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế; thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, thi
đua khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý
của Tổng cục Thuế theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật.
- Thực hiện cải cách hành chính theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính được Bộ
trưởng Bộ Tài chính phê duyệt.
- Tổ chức và quản lý công tác thi đua - khen thưởng của ngành thuế đối với cơ quan thuế, người nộp
thuế, các tổ chức, cá nhân khác có thành tích xuất sắc trong công tác quản lý thuế và chấp hành nghĩa vụ
thuế với ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Quản lý, lưu giữ hồ sơ, tài liệu, ấn chỉ thuế và kinh phí, tài sản được giao; thực hiện cơ chế quản lý tài
chính và biên chế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính giao và theo quy định của pháp
luật.
* Về cơ cấu tổ chức:
Sơ đồ 1: cơ cấu tổ chức của ngành thuế
Tổng cục Thuế được tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương theo đơn vị hành
chính, bảo đảm nguyên tắc tập trung thống nhất.
- Cơ quan Tổng cục Thuế ở Trung ương:
+ Các tổ chức hành chính giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước gồm: Vụ Chính
sách; Vụ Pháp chế; Vụ Dự toán thu thuế; Vụ Kê khai và Kế toán thuế; Vụ Quản lý nợ và Cưỡng chế nợ
thuế; Vụ Quản lý thuế thu nhập cá nhân; Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn; Vụ Tuyên truyền - Hỗ trợ
người nộp thuế; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ Kiểm tra nội bộ; Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Tài vụ - Quản trị; Văn
phòng; Thanh tra; Cục Công nghệ thông tin.
+ Các tổ chức sự nghiệp gồm: Trường Nghiệp vụ thuế; Tạp chí Thuế.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 18 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Chính phủ
Bộ
tài chính

Cục thuế
Tổng cục
thuế
Chi cục thuế
Các tổ chức hành chính: Gồm 12 Vụ; Thanh tra
và công nghệ thông tin
Trung ương
Cấp tỉnh
Cấp huyện
Các tổ chức sự nghiệp gồm: Trường Nghiệp vụ
thuế; Tạp chí Thuế
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

- Cơ quan Thuế ở địa phương:
+ Cục Thuế ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Cục Thuế cấp tỉnh) trực thuộc
Tổng cục Thuế;
+ Chi cục Thuế ở các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Chi cục Thuế cấp huyện)
trực thuộc Cục Thuế cấp tỉnh.
Cục Thuế cấp tỉnh, Chi cục Thuế cấp huyện có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được mở tài khoản tại
Kho bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra còn có đội thuế, hội đồng tư vấn thuế được tổ chức ở cấp xã, phường, thị trấn.
* Về chức năng lãnh đạo:
Tổng cục Thuế có Tổng cục trưởng và không quá 03 Phó Tổng cục trưởng.
Tổng cục trưởng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế do Bộ trưởng Bộ Tài chính bổ nhiệm, miễn
nhiệm và cách chức theo quy định của pháp luật.
Tổng cục trưởng là người đứng đầu Tổng cục Thuế, chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài chính
và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Tổng cục Thuế. Các Phó Tổng cục trưởng chịu trách nhiệm
trước Tổng cục trưởng và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được phân công phụ trách.
Tóm lại: Luật thuế thu nhập cá nhân được Quốc hội thông qua có nhiều điểm mới, phù hợp với tiến
trình đổi mới quản lý kinh tế, quá trình hội nhập kinh tế và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội

của nước ta hiện nay. Việc ban hành Luật một cách cẩn trọng, hệ thống thuế ở Việt Nam đang tìm đến sự
phù hợp với hệ thống thuế các nước và dần đến một hệ thống thuế mang tính công bằng trong điều tiết và
hiện đại trong hành thu. Tuy nhiên để hoàn thiện tốt luật thuế TNCN, nhằm áp dụng một cách khả thi,
được người dân hưởng ứng thì hệ thống trong công tác quản lý thuế là hết sức cần thiết, nhằm mang lại
hiệu quả nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
CHƯƠNG 2
NỘI DUNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
2.1. Ban hành chính sách Thuế
Đây là công việc thuộc lĩnh vực lập pháp. Việc ban hành chính sách thuế TNCN sẽ tạo ra những quy
định pháp luật làm cơ sở để tính và thu thuế TNCN. Đồng thời, ban hành chính sách cũng đưa ra những
căn cứ để kiểm tra, thanh tra, và áp dụng các chế tài đối với quá trình tính và thu này. Để mỗi công dân
sống và làm việc theo pháp luật thì chính sách thuế TNCN cần được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ
bản như sau:
Thứ nhất, việc xây dựng các văn bản pháp luật và chính sách thuế cần đảm bảo tính đơn giản, minh
bạch rõ ràng và chặt chẽ.Vì loại thuế TNCN khá phức tạp nên nguyên tắc này cần được đảm bảo để hạn
chế hành vi trốn thuế của các đối tượng nộp thuế.
Thứ hai, quy định trong chính sách thuế TNCN phải đảm bảo được yêu cầu đặt ra trong việc huy
động nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và đảm bảo tính
công bằng đối với cả người nộp thuế và xã hội.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 19 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Thứ ba, quy định trong chính sách thuế TNCN cũng cần đảm bảo tính công bằng đối với người nộp
thuế và xã hội. Thuế TNCN đóng vai trò phân phối lại thu nhập trong xã hội, giảm bớt sự cách biệt quá
lớn về mức sống giữa các cá nhân trong xã hội nhưng cũng cần động viên sự phấn đấu làm việc của người
lao động. Các quy định phải đảm bảo cho thu nhập thực tế sau khi nộp thuế của các đối tượng nộp thuế
tương xứng với công sức lao động và sự đóng góp của họ.
Ngoài yêu cầu cơ bản trên, để đảm bảo chính sách thuế TNCN phát huy hiệu quả cần chuẩn bị các
điều kiện cần thiết cho quá trình triển khai thực hiện như: cải tiến và hoàn thiện chế độ kế toán, thống kê,
thông tin, báo cáo để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế TNCN, đặc biệt đối với cá nhân,

hộ gia đình tự doanh.
2.2. Tổ chức thực hiện chính sách thuế thu nhập cá nhân
Luật thuế TNCN đã được áp dụng hàng trăm năm nay ở các nước phát triển trên thế giới. Ở
Việt Nam, thuế TNCN lần đầu tiên được ban hành vào năm 1990 dưới hình thức Pháp lệnh thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao. Hiện nay theo quy định hiện hành, Luật thuế thu nhập cá nhân
có hiệu lực ngày 01/01/2009, được chính thức áp dụng vào đời sống nhân dân ban hành kèm theo Nghị
định 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ và Thông tư 84/2008/TT-BTC của Bộ tài chính
hướng dẫn thi hành Luật thuế TNCN. Với quy định này, việc kê khai nộp thuế thu nhập được thực hiện
theo nguyên tắc khấu trừ tại nguồn, đối với trường hợp xác định được cơ quan chi trả thu nhập, người
hành nghề tự do và có thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau, cơ quan thuế có thể áp dụng phương pháp tự
kê khai. Đây là khâu đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định hiệu quả của việc sử dụng công cụ thuế.
Nhờ việc tổ chức thực hiện chính sách thuế và quá trình tính, thu thuế mới diễn ra trong thực tế, đồng thời
các quy định về quá trình này mới đến được với mọi người dân thông qua tuyên truyền, phổ biến chính
sách thuế. Đó chính là nội dung mà các cơ quan quản lý thuế tiến hành thực hiện dưới đây.
2.2.1. Trình tự thủ tục về đăng ký thuế, quản lý kê khai và nộp thuế
2.2.1.1. Đăng ký thuế và cấp mã số thuế
Trong quá trình thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân, với số lượng cá nhân đăng ký thuế để được
cấp mã số thuế ngày càng rất lớn. Do đó, khối lượng công việc và dữ liệu cơ quan Thuế phải xử lý sẽ
phức tạp hơn và tăng gấp nhiều lần. Với tình hình khẩn trương đó Bộ Tài chính đã phê duyệt dự án ứng
dụng công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế thu nhập cá nhân. Hệ thống được xây dựng dựa
trên cơ sở sử dụng giải pháp phần mềm chuẩn có sẵn theo mô hình xử lý tập trung, đã được triển khai ứng
dụng vào đầu năm 2009.
Ứng dụng đăng ký Thuế chỉ đáp ứng được việc nhập, xử lý tờ khai đăng ký thuế và cấp mã số thuế
cho những đối tượng nộp thuế theo quy định tại Thông tư 84/2008/TT-BTC của Bộ tài chính hướng dẫn
thi hành Luật thuế thu nhập cá nhân thu nhập cá nhân như sau:
* Thủ tục đăng ký thuế
- Đăng ký thuế cho đơn vị chi trả thu nhập:
+ Đơn vị, tổ chức chi trả thu nhập đã được cấp mã số thuế: các đơn vị này được sử dụng mã số thuế đã
được cấp để thực hiện kê khai, nộp thuế TNCN. Trường hợp các thông tin đăng ký thuế trước đây đã kê
khai với cơ quan Thuế có thay đổi thì đơn vị khấu trừ thực hiện kê khai điều chỉnh thông tin theo mẫu số

08-ĐKT ban hành kèm theo Thông tư số 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn
thi hành về việc đăng ký thuế để nộp cho cơ quan Thuế.
+ Đơn vị, tổ chức chi trả thu nhập chưa được cấp mã số thuế:
Đối với đơn vị có hoạt động sản xuất, kinh doanh: thực hiện đăng ký thuế và được cấp mã số thuế
theo quy định tại Thông tư 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính hoặc theo thông tư liên
tịch 05/2008/TT-KHĐT-BTC-BCA. Các đơn vị này sau khi được cấp mã số thuế sẽ sử dụng mã số thuế
cho việc kê khai nộp thuế cho các loại thuế, trong đó có thuế TNCN.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 20 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Đối với đơn vị không hoạt động sản xuất, kinh doanh: thực hiện đăng ký thuế theo mẫu đăng ký thuế
tại Thông tư số 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính.
Hiện nay có khoảng 80.000 đơn vị hành chính hưởng ngân sách nhà nước như: các đơn vị Quản lý
Nhà nước thuộc các Bộ, Sở, Ban, Ngành và các đơn vị chính quyền như Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh,
huyện, xã, phường v.v… phần lớn chưa có mã số thuế. Do vậy, các Cục Thuế khẩn trương đôn đốc các
đơn vị này thực hiện đăng ký thuế để được cấp mã số thuế.
- Đăng ký thuế cho cá nhân nộp thuế thu nhập:
+ Đối với cá nhân kinh doanh (kể cả cá nhân hành nghề độc lập, cá nhân có thu nhập từ sản xuất nông
nghiệp nhưng không thuộc diện được miễn thuế TNCN) việc đăng ký thuế, cấp mã số thuế như sau:
Cá nhân đã có mã số thuế: được sử dụng mã số thuế đã được cấp để kê khai nộp thuế TNCN. Khi có
thông tin thay đổi thì thực hiện kê khai bổ sung theo Thông tư số 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của
Bộ Tài chính.
Cá nhân chưa có mã số thuế: thực hiện đăng ký thuế theo hướng dẫn tại Thông tư số 85/2007/TT-
BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính để được cấp mã số thuế. Mã số thuế được sử dụng chung cho việc
kê khai tất cả các loại thuế (kể cả thuế TNCN). Sau đó cơ quan Thuế nhập xử lý cấp mã số thuế cho tất cả
cá nhân thuộc đối tượng này để đáp ứng nhu cầu kê khai nộp thuế. Cục Thuế, Chi cục Thuế sử dụng ứng
dụng, nhập tờ khai đăng ký thuế theo mẫu 03/ĐKT-TCT (Thông tư 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của
Bộ Tài chính) để cấp mã số thuế và Giấy chứng nhận đăng ký thuế cho nhóm cá nhân kinh doanh này.
Đối với cá nhân chưa đăng ký thuế: Cơ quan Thuế sẽ tập trung cấp mã số thuế cho các cá nhân đã
nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Các cá nhân khác có thu nhập từ tiền lương, tiền công

khác sẽ cấp mã số thuế vào năm 2009.
+ Đối với cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công và các khoản thu nhập chịu thuế khác (trừ cá
nhân kinh doanh nêu trên): cá nhân chỉ đăng ký thuế một lần. Mã số thuế được sử dụng chung để khai
thuế đối với tất cả các khoản thu nhập.
- Mẫu tờ khai đăng ký thuế và hồ sơ đăng ký thuế thu nhập cá nhân:
Thực hiện theo Thông tư 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính. Nhưng để tạo điều
kiện thuận lợi và tiết kiệm chi phí cho người nộp thuế, cá nhân đang nộp thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao áp dụng ngay mẫu tờ khai và hồ sơ đăng ký thuế mới theo hướng dẫn tại Thông tư 84 khi
thực hiện đăng ký thuế bao gồm 13 mẫu tờ khai: 02/KK-TNCN; 03/KK-TNCN; 04/KK-TNCN; 01/KK-
BH; 01/KK-XS; 07/KK-TNCN; 08/KK-TNCN; 11/KK-TNCN; 08A/KK-TNCN; 12/KK-TNCN; 14/KK-
TNCN; 19/KK-TNCN; 24/KK-TNCN
+ Quản lý thuế cấp Cục thuế: Mẫu 02/KK-TNCN, Mẫu 03/KK-TNCN, Mẫu 04/KK-TNCN, Mẫu
07/KK-TNCN, Mẫu 15/KK-TNCN.
+ Quản lý thuế cấp Chi cục: Mẫu 02/KK-TNCN, Mẫu 03/KK-TNCN, Mẫu 04/KK-TNCN, Mẫu
07/KK-TNCN,Mẫu 08/KK-TNCN (Tờ khai tạm tính thuế TNCN dành cho cá nhân kinh doanh thực hiện
nộp thuế theo kê khai), Mẫu 08A/KK-TNCN, Mẫu 10/KK-TNCN, Mẫu 10A/KK-TNCN. Riêng Mẫu10-
1/TB-TNCN thông báo nộp thuế TNCN theo thông tư 84 sẽ được thay thế bằng mẫu thông báo thuế hiện
hành đang sử dụng cho hộ cá thể tại các Chi cục Thuế (mẫu in sẵn, trên giấy liền, rập lỗ và có cuống).
+ Quản lý thuế hộ cá thể cho các Chi cục thuế lớn: Mẫu 07/KK-TNCN, 08/KK-TNCN, 08A/KK-
TNCN, 10/KK-TNCN, 10A/KK-TNCN.
+ Các mẫu tờ khai còn lại gồm: Đối với trường hợp khấu trừ tại nguồn, thực hiện theo Thông tư số
60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính. Hồ sơ gồm tờ khai thuế TNCN khấu trừ theo biểu
thuế luỹ tiến từng phần mẫu số 01/TNCN§; Tờ khai khấu trừ 10% trên thu nhập khi chi trả theo mẫu số
02/TNCN§; Tờ khai khấu trừ của cá nhân nước ngoài không cư trú tại Việt Nam theo mẫu số 03/TNCN;
Nhóm cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán thuế áp dụng mẫu 10A/KK-TNCN; Tờ khai
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 21 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

dành cho cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, nhận thừa kế và nhận quà tặng là bất động
sản Mẫu 11/KK-TNCN; Tờ khai thuế TNCN dành cho cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng vốn Mẫu

12/KK-TNCN; Tờ khai thuế TNCN dành cho cá nhân nhận thừa kế, quà tặng Mẫu 14/KK-TNCN; Tờ
khai dành cho cá nhân cư trú có thu nhập từ đầu tư vốn, bản quyền, nhượng quyền thương mại, trúng
thưởng từ nước ngoài Mẫu 19/KK-TNCN; cá nhân nhận cổ tức bằng cổ phiếu, nhận cổ phiếu thưởng,
nhận cổ tức ghi tăng vốn góp áp dụng Mẫu hồ sơ số 24/KK-TNCN. Tổng cục sẽ xây dựng 1 mẫu tờ khai
chung trong ứng dụng để nhập cho các tờ khai còn lại nêu trên, gọi là “Tờ khai thuế TNCN khác” và chỉ
nhập hai chỉ tiêu Thu nhập tính thuế và Thuế phải nộp. Việc lập báo cáo thống kê theo loại thu nhập sẽ
được căn cứ vào mã loại tờ khai thuế TNCN.
- Thủ tục đăng ký:
Các tổ chức, cá nhân truy cập vào website tncnonline.com.vn§ (ảnh 1) và tải về phần mềm (gồm các tài
liệu, phần mềm và hướng dẫn quy trình kê khai thuế) đăng ký mã số
thuế cá nhân, cập nhật các thông tin đăng ký thuế vào phần mềm theo
hướng dẫn sử dụng của chương trình rồi gửi lại cho cơ quan thuế cũng
tại website này. Sau đó, cơ quan thuế sẽ gửi phản hồi cho doanh
nghiệp trong thời gian sớm nhất.
Ảnh 1: website tncnonline.com.vn
Với trang web này, những người làm công ăn lương qua tổ chức
chi trả thu nhập không phải trực tiếp đến cơ quan thuế để đăng ký thuế
mà sẽ được hướng dẫn, cung cấp ứng dụng nhập tờ khai. Tổ chức chi trả thu nhập thực hiện nhập tờ khai
đăng ký thuế vào ứng dụng và kết xuất ra file dữ liệu tải lên web hoặc qua đĩa§ mềm, đĩa CD, thẻ nhớ§
USB§ gửi cho cơ quan thuế, sau đó in bảng kê đăng ký thuế từ dữ liệu đã được nhập vào ứng dụng, đóng
dấu và ký xác nhận gửi cho cơ quan thuế qua đường bưu điện. Tiếp đó, cục thuế các địa phương§ tập
trung toàn bộ file dữ liệu của các cơ quan thuế trên địa bàn rồi gửi về Tổng cục Thuế. Sau khi nhận, xử lý
và cấp mã số thuế tập trung theo từng địa bàn tỉnh, thành phố, Tổng cục Thuế sẽ gửi trả lại dữ liệu mã số
thuế cho các cục thuế, trên cơ sở đó, mỗi chi cục thuế trực thuộc sẽ nhận lại dữ liệu mã số thuế để truyền
về cho các tổ chức chi trả thu nhập trên địa bàn, kịp thời thông báo cho các cá nhân đăng ký.
Việc đăng ký thuế thu nhập cá nhân trực tuyến này dự kiến kết thúc vào tháng 10-2009. Hạn chót nộp
bảng kê hồ sơ đăng ký thuế và file dữ liệu được chuyển đến cơ quan thuế chậm nhất là ngày 31-8-2009.
* Thủ tục cấp mã số Thuế
Khái niệm mã số thuế: Mã số thuế là một dãy số, chữ cái hoặc ký tự khác do cơ quan quản lý thuế
cấp cho người nộp thuế dùng để quản lý thuế.

(10)
Việc cấp mã số thuế cho người nộp thuế có ý nghĩa hết sức quan trọng để thực hiện thành công Luật
thuế TNCN. Cũng chính vì hiểu rõ tầm quan trọng của mã số thuế đối với công tác quản lý thuế TNCN
mà ngay sau khi Luật thuế TNCN được thông qua, Tổng cục Thuế đã ban hành Công văn số 2188/TCT-
CNTT ngày 3/6/2009, gửi Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hướng dẫn cụ thể việc
triển khai đăng ký thuế cho cá nhân làm công ăn lương qua tổ chức trả thu nhập trong năm 2009. Công
văn nêu rõ: đối tượng được cấp mã số thuế cá nhân là người lao động có thu nhập từ tiền lương, tiền
công kê khai đăng ký Thuế thu nhập cá nhân thông qua tổ chức trả thu nhập. Căn cứ công văn Tổng cục
Thuế chỉ đạo Cục Thuế các tỉnh, thành phố cấp mã số thuế cho các đơn vị, cơ quan chi trả thu nhập và các
cá nhân hiện nay đang thuộc diện nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Đối với các tổ chức,
cá nhân khác sẽ thực hiện kê khai, cấp dần mã số thuế trong năm 2009.
- Phạm vi áp dụng:
(10)
Luật quản lý thuế ngày 01 tháng 7 năm 2007 điều 5 khoảng 3.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 22 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Những cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công không phân biệt mức thu nhập trên hay dưới bốn
triệu đồng trên tháng, mà tổ chức trả thu nhập chưa nộp hồ sơ đăng ký thuế cho cơ quan thuế (tổ chức trả
thu nhập đã nộp bảng kê khai tổng hợp và hồ sơ đăng ký thuế bằng giấy hoặc file dữ liệu (Excel) đến cơ
quan thuế trước đây thì không phải làm lại) thì mới phải đăng ký và nộp hồ sơ chứng minh người phụ
thuộc.
- Thủ tục đăng ký mã số thuế

Sơ đồ: Thủ tục đăng ký mã số thuế
+ Đối với toàn bộ nhân viên hiện có của tổ chức trả thu nhập
Thủ tục và quy trình đăng ký mã số thuế cá nhân trở nên rất đơn giản, thuận tiện, người nộp thuế chỉ
phải khai rất ngắn gọn các thông tin cá nhân như họ tên, địa chỉ thường trú, số chứng minh nhân dân
nhờ những ưu thế của dịch vụ internet và bưu điện; theo đó cá nhân làm công ăn lương không phải trực
tiếp đến cơ quan thuế để đăng ký thuế mà sẽ được hướng dẫn, cung cấp ứng dụng nhập tờ khai đăng ký

thuế cho các tổ chức trả thu nhập. Tổ chức trả thu nhập thực hiện nhập tờ khai đăng ký thuế vào ứng dụng
và kết xuất ra file dữ liệu tải lên website www.tncnonline.com.vn hoặc qua đĩa mềm, CDROM, USB gửi
cho cơ quan thuế, sau đó in bảng kê đăng ký thuế từ dữ liệu đã được nhập vào ứng dụng, đóng dấu và ký
xác nhận gửi cho cơ quan thuế qua đường bưu điện.
Trong khi tổ chức chi trả thu nhập thực hiện lưu hồ sơ đăng ký thuế bằng giấy của các cá nhân để
cung cấp cho cơ quan thuế khi có yêu cầu thì Cục Thuế tập trung toàn bộ file dữ liệu của các cơ quan thuế
trên địa bàn rồi gửi về Tổng cục Thuế. Sau khi nhận, xử lý và cấp mã số thuế tập trung theo từng địa bàn
tỉnh, thành phố, Tổng cục Thuế sẽ gửi trả lại dữ liệu mã số thuế cho các Cục Thuế, trên cơ sở đó, mỗi Chi
cục Thuế trực thuộc sẽ nhận lại dữ liệu mã số thuế để truyền về cho các tổ chức chi trả thu nhập trên địa
bàn, kịp thời thông báo cho các cá nhân làm công ăn lương. Tổ chức trả thu nhập hướng dẫn người lao
động lập hồ sơ đăng ký thuế và khai thông tin trên mẫu 01/ĐK-TNCN kèm theo Thông tư 84/2008/TT-
BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính tại trang điện tử . Trường hợp có vướng
mắc trong việc cài đặt, sử dụng ứng dụng, tổ chức trả thu nhập liên hệ với bộ phận Tuyên truyền - Hỗ trợ
của cơ quan thuế quản lý trực tiếp để được hướng dẫn cụ thể. Nếu chứng minh thư nhân dân của người
lao động chỉ có năm sinh nhưng không có ngày, tháng thì tổ chức trả thu nhập lấy ngày 01 tháng 01 nhập
vào chỉ tiêu ngày, tháng của ứng dụng.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 23 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Thủ tục đăng ký mã số thuế
Cơ quan chi trả thu nhập Cá nhân làm việc tại cơ
quan chi trả thu nhập
Mẫu 01/ĐK-TCT
Bảng liệt kê hồ sơ
Đăng ký thuế
Giấy phép thành lập
(sao y)
Mẫu 01/ĐK-TTNCN
CMND hay Passport
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Bảng kê hồ sơ đăng ký thuế và file dữ liệu được chuyển đến cơ quan thuế chậm nhất là ngày 31/8/2009.

Trên cơ sở đó, cơ quan thuế sẽ gửi trả kết quả cấp mã số thuế cho tổ chức trả thu nhập dưới dạng bảng kê
hồ sơ đăng ký thuế đã có mã số thuế; đồng thời thông báo cụ thể những trường hợp không đủ điều kiện
cấp mã số thuế theo thời hạn quy định tại Thông tư số 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài
chính.
+ Đối với những cá nhân bổ sung vào làm việc sau đợt đăng ký
Người nộp thuế chỉ cần nộp bản sao chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu (đối với người nước ngoài)
để đăng ký mã số thuế. Nếu thu nhập từ tiền công, tiền lương thì người khai thuế lấy tờ khai đăng ký mã
số thuế tại cơ quan chi trả thu nhập. Sau khi điền đầy đủ thông tin vào mẫu đăng ký, người khai thuế sẽ
nộp tờ đăng ký đó cho cơ quan mình. Theo quy định, cơ quan chi trả thu nhập sẽ có trách nhiệm tổng hợp
tờ khai đăng ký thuế của các cá nhân và nộp cho cơ quan thuế để cấp mã số thuế.
Đối với cá nhân kinh doanh, để được cấp mã số thuế thì người nộp thuế có thể lấy mẫu đăng ký tại
chi cục thuế nơi quản lý hoạt động kinh doanh hoặc cơ quan thuế gần nhất. Riêng cá nhân có các khoản
thu nhập khác thì có thể tới chi cục thuế nơi mình đang thường trú, tạm trú để lấy tờ khai và nộp để được
cấp mã số thuế.
Cơ quan Thuế sẽ cấp mã số thuế thu nhập cá nhân cho cá nhân làm công, hưởng lương dần theo từng
đợt trong năm 2009, việc này sẽ không ảnh hưởng đến việc kê khai giảm trừ cho bản thân và người phụ
thuộc.
- Về thẻ mã số thuế:
Sử dụng mẫu thẻ mã số thuế cá nhân hiện hành để cấp cho cả người nộp thuế đăng ký thuế theo
Thông tư 84. Tuy nhiên, do hồ sơ đăng ký thuế ban hành kèm theo Thông tư 84 không yêu cầu cá nhân
phải nộp ảnh nên Thẻ mã số thuế để trống ô dán ảnh. Khi in mới Tổng cục sẽ không in khung dán ảnh
trên mẫu thẻ in sẵn.
- Cấp lại Thẻ mã số thuế cá nhân:
Cá nhân mất Thẻ mã số thuế cá nhân hoặc thẻ bị rách, nát, hỏng, làm đơn đề nghị cơ quan Thuế cấp
lại Thẻ mã số thuế cá nhân. Trong đơn phải ghi rõ: mã số thuế, họ tên, số chứng minh thư hoặc số hộ
chiếu (nếu là người nước ngoài), nơi đăng ký cấp thẻ trước đây. Trường hợp đổi thẻ phải nộp lại thẻ cũ
cho cơ quan Thuế.
Hiện nay, việc quy định mã số thuế cho từng đối tượng nộp thuế vẫn chưa được thực hiện đầy đủ, do
vậy công tác quản lý thu nhập của đối tượng nộp thuế gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều người có thu nhập
trên mức khởi điểm tính thuế, có nộp thuế cho cơ quan thuế nhưng không có mã số thuế, do đó cơ quan

thuế sau này khó có thể xác định được các thông tin cụ thể về đối tượng nộp thuế.
2.2.1.2. Quản lý kê khai, nộp thuế
* Chức năng quản lý kê khai, nộp thuế
Quy trình quản lý nghĩa vụ kê khai thuế thu nhập cá nhân được thiết kế xây dựng, nhằm hỗ trợ
cơ quan thuế theo dõi, giám sát người nộp thuế, thực hiện các thủ tục hành chính về khai thuế thu
nhập cá nhân đầy đủ, đúng thời hạn. Nghĩa vụ kê khai thuế được xác định (hệ thống có hỗ trợ tự
động) sau khi người nộp thuế đăng ký và được cấp mã số thuế. Quy trình này cũng cung cấp danh
sách người nộp thuế phải nộp hồ sơ khai thuế để theo dõi đôn đốc tình trạng kê khai của người nộp
thuế.
- Quy trình quản lý nghĩa vụ kê khai bao gồm 4 chức năng chính:
+ Xác định và cập nhật các nghĩa vụ khai thuế của người nộp thuế sau khi đăng ký thuế, đồng thời hỗ
trợ xác định tự động nghĩa vụ khai quyết toán thuế của cá nhân.
+ Cập nhật, điều chỉnh, gia hạn nghĩa vụ khai thuế khi có các thông tin thay đổi đăng ký thuế hoặc đề
nghị gia hạn, yêu cầu thay đổi kỳ kê khai của người nộp thuế.
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 24 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm
Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

+ Định kỳ hàng tháng, tự động lên danh sách người nộp thuế có nghĩa vụ phải khai thuế.
+ Cung cấp các thông tin báo cáo phục vụ công tác quản lý, theo dõi tình trạng chấp hành nghĩa vụ
thuế.
- Quy trình này áp dụng cho cơ quan thuế các cấp để hỗ trợ cập nhật, xử lý thông tin về nghĩa vụ khai
thuế của người nộp thuế. Các nghĩa vụ kê khai thuế TNCN được xác định và quản lý trên các tiêu chí
sau:
Nghĩa vụ khai thuế của từng người nộp thuế được xác định cho từng loại tờ khai (mẫu tờ khai chính)
theo từng kỳ tính thuế đối với các tờ khai phải kê khai theo định kỳ tháng, quý hoặc năm. Các mẫu phụ
lục, bảng kê kèm theo các tờ khai chính sẽ được coi là phần bắt buộc của hồ sơ khai thuế (có đủ phụ lục,
bảng kê mới được coi là hồ sơ khai thuế hợp lệ) và không quản lý như là nghĩa vụ khai thuế riêng.
Các loại tờ khai thuế TNCN theo lần phát sinh không được quản lý như nghĩa vụ khai thuế của người
nộp thuế. Các tờ khai này không được đưa vào danh sách phải đôn đốc nộp. Khi nào người nộp thuế
phát sinh thu nhập sẽ tự khai và tự nộp thuế cho cơ quan thuế.

Một người nộp thuế có thể có quyết toán nhiều hơn một lần trong năm tính thuế. Trường hợp nhóm
cá nhân kinh doanh chia tách hoặc ngừng hoạt động giữa năm và người đại diện của nhóm này trở thành
người đại diện cho một nhóm khác hoặc cho các cá nhân có số ngày cư trú 183 ngày trong 12 tháng liên
tục qua 2 năm. Các tờ khai quyết toán phát sinh nộp giữa năm là tờ khai phát sinh không quản lý được
như là nghĩa vụ kê khai.
* Trình tự quản lý kê khai
Cơ quan thuế quản lý thuế thu nhập cá nhân thông qua cơ quan chi trả thu nhập, nhưng đầu 2009 cơ
quan này sẽ quản lý trực tiếp đến từng người nộp thuế. Điều này sẽ giải quyết hai vấn đề:
Thứ nhất, người nộp thuế sẽ chứng minh gia cảnh trực tiếp với cơ quan thuế, chịu trách nhiệm về
thông tin kê khai và khắc phục nhược điểm một người có nhiều khoản thu nhập từ các địa bàn khác nhau
nhưng chỉ nộp thuế tại một nơi.
Thứ hai, Việc quản lý thu nhập của mỗi cá nhân, sẽ dựa trên dữ liệu của nhiều cơ quan trả thu nhập
tập trung vào dữ liệu của cơ quan thuế.
Theo Thông tư 84/2008/TT-BTC của Bộ tài chính, hệ thống tờ khai thuế thu nhập cá nhân có hai
dạng: Hệ thống tờ khai dùng cho các cơ quan chi trả thu nhập và hệ thống tờ khai dành cho cá nhân nộp
thuế (áp dụng cho thu nhập thường xuyên).
- Đối với hệ thống tờ khai dùng cho các cơ quan chi trả thu nhập, việc kê khai, tạm nộp thuế hàng tháng
được thực hiện như sau:
Thông qua cơ quan ủy nhiệm thu hay cơ quan chi trả thu nhập, tính thuế cho các đối tượng nộp thuế
làm việc trong đơn vị mình và có thu nhập do đơn vị mình chi trả. Sau khi tính thuế và khấu trừ thuế của
đối tượng nộp thuế, cơ quan chi trả thu nhập, sẽ tiến hành khấu trừ phần thuế phải nộp ra khỏi thu nhập
trước thuế của đối tượng nộp thuế để đem nộp cho cơ quan thuế. Cơ quan chi trả thu nhập sẽ được hưởng
một khoản tiền theo tỉ lệ trên số thuế thu được và nộp cho cơ quan thuế.
Đối tượng nộp thuế sẽ trực tiếp kê khai thu nhập của mình và tự tính mức thuế mình phải nộp. Sau
đó, các đối tượng nộp thuế sẽ đến nộp tờ khai cho cơ quan thuế và tiến hành nộp khoản thuế cho cơ quan
thuế hay cơ quan có chức năng thu thuế. Cơ quan thuế sẽ có nhiệm vụ ghi lại tất cả các khoản thuế mà
các đối tượng nộp thuế phải nộp, để từ đó có thể giám sát và kiểm tra khi cần thiết. Đồng thời đó cũng là
cơ sở để đảm bảo sự minh bạch trong công tác thu nộp thuế, cả cho đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế
cũng như cơ quan ủy nhiệm thu.
Đối với cá nhân có thu nhập không thường xuyên, nộp cho từng lần phát sinh thu nhập. Cơ quan chi

trả thu nhập thực hiện khấu trừ tiền thuế và cấp biên lai thuế khi chi trả cho người có thu nhập. Tuy nhiên
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu Trang 25 SVTH: Thạch Huỳnh Liêm

×