Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Đa dạng hóa tổ chức kiểm định để nâng cao khả năng kiểm định phương tiện đo theo hướng chuyển từ cơ chế ủy quyền sang cơ chế công nhận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





DƯƠNG BÌNH PHÚ

ĐA DẠNG HÓA TỔ CHỨC KIỂM ĐỊNH ĐỂ
NÂNG CAO KHẢ NĂNG KIỂM ĐỊNH PHƯƠNG
TIỆN ĐO THEO HƯỚNG CHUYỂN TỪ CƠ CHẾ
ỦY QUYỀN SANG CƠ CHẾ CÔNG NHẬN




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ





Hà Nội - 2009


1
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 4
PHẦN MỞ ĐẦU 5


1. Lý do chọn đề tài 5
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 6
3. Mục tiêu nghiên cứu 7
4. Phạm vi nghiêu cứu 8
5. Mẫu khảo sát 8
6. Câu hỏi nghiên cứu 8
7. Giả thuyết nghiên cứu 9
8. Phƣơng pháp chứng minh giả thuyết 10
9. Kết cấu luận văn 11
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐO LƢỜNG VÀ TỔ CHỨC 12
HOẠT ĐỘNG KIỂM ĐỊNH PHƢƠNG TIỆN ĐO 12
1.1. Vai trò đo lƣờng pháp quyền Việt Nam 12
1.1.1 Đảm bảo phát triển và ứng dụng khoa học đo lường đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hài hoà với đo lường quốc tế 12
1.1.2 Thiết lập hệ thống đo lường pháp quyền Việt Nam phù hợp với đặc điểm
nước ta và hài hoà với đo lường pháp quyền quốc tế 12
1.2. Lý luận chung về quản lý đo lƣờng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội 14
1.2.1. Khái niệm quản lý đo lường 14
1.2.2. Các cơ sở của quản lý đo lường 15
1.2.3. Các đặc điểm của quản lý đo lường 17
1.2.4. Đo lường pháp định 18
1.2.5. Quản lý Nhà nước về đo lường 19
1.3. Đa dạng hoá tổ chức kiểm định phƣơng tiện đo 20
1.3.1 Khái niệm về thuật ngữ đa dạng hoá tổ chức kiểm định 20
1.3.2 Cơ sở lý luận trong nước về đa dạng hoá tổ chức kiểm định 21
1.3.3 Cơ sở lý luận ở nước ngoài về đa dạng hoá tổ chức kiểm định 22
1.4. Cơ chế ủy quyền và công nhận khả năng kiểm định phƣơng tiện đo 23
1.4.1 Quy định chung của Quy định công nhận khả năng kiểm định phương
tiện đo 24
1.4.2 Quy định chung của Quy định uỷ quyền kiểm định phương tiện đo 24

1.5. Hoạt động kiểm định phƣơng tiện đo trong công tác quản lý nhà nƣớc về đo
lƣờng 26
1.5.1 Khái niệm về kiểm định phương tiện đo 26
1.5.2 Mục tiêu kiểm định 26
1.5.3 Vị trí của kiểm định 26
1.5.4 Xây dựng hệ thống tổ chức kiểm định phương tiện đo 27
1.5.5 Hệ thống văn bản pháp quy 29
1.5.6 Hệ thống trang thiết bị chuẩn đo lường phục vụ kiểm định 30

2
Kết luận Chƣơng 1 31
Chƣơng 2: HIỆN TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM ĐỊNH 32
PHƢƠNG TIỆN ĐO Ở VIỆT NAM 32
2.1. Các giai đoạn của quá trình hình thành và phát triển các tổ chức kiểm định của
cơ quan quản lý đo lƣờng nhà nƣớc các cấp ở Việt Nam 32
2.1.1. Giai đoạn thành lập 1962 đến 1986 32
2.1.2 Thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế từ 1986 đến nay 35
2.2. Thực trạng hoạt động Kiểm định Phƣơng tiện đo 39
2.2.1 Danh mục phương tiên đo phải kiểm định nhà nước 41
2.2.2 Tổ chức kiểm định 43
2.2.3 Hiện trạng về kết quả kiểm định phương tiện đo 48
2.2.4 Hiện trạng về nguồn nhân lực cho hoạt động kiểm định 54
2.2.5 Kết quả điều tra về nhu cầu muốn tham gia vào hoạt động kiểm định của
các cơ sở sản xuất, kinh doanh và sử dụng phương tiện đo 55
2.3. Hiện trạng và phân tích cơ chế ủy quyền và cơ chế công nhận liên quan đến việc
hình thành các tổ chức kiểm định phƣơng tiện đo 60
2.3.1 Phân tích về phần Quy định chung của Quy định công nhận khả năng
kiểm định và uỷ quyền kiểm định phương tiện đo 60
2.3.2 Phân tích về phần trình tự thủ tục công nhận khả năng kiểm định và uỷ
quyền kiểm định 62

2.4. Đánh giá nguyên nhân 65
2.4.1 Phân tích từ nhóm tổ chức được uỷ quyền và công nhận khả năng kiểm
định 65
2.4.2 Phân tích từ nhóm tổ chức chưa được uỷ quyền và công nhận khả năng
kiểm định 66
Kết luận Chƣơng 2 66
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP ĐA DẠNG HOÁ TỔ CHỨC KIỂM ĐỊNH THEO HƢỚNG
CÔNG NHẬN KHẢ NĂNG KIỂM ĐỊNH PTĐ Ở VIỆT NAM 68
3.1 Tƣ tƣởng chỉ đạo 68
3.1.1. Tư tưởng chỉ đạo về hoạt động Đo lường trong Chiến lược phát triển
khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 68
3.1.2 Tư tưởng xã hội hoá hoạt động kiểm định phương tiện đo trong Chiến
lược phát triển Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng đến năm 2015 69
3.2. Mục tiêu của giải pháp 70
3.2.1. Mở rộng nhiều dạng tổ chức kiểm định được tham gia vào hoạt động
kiểm định phương tiện đo 71
3.2.2 Tạo cơ chế bình đẳng giữa các tổ chức kiểm định 71
3.2.3 Tăng cường hoạt động kiểm định phương tiện đo tiến tới thực hiện kiểm
định 100% các phương tiện đo trong danh mục bắt buộc phải kiểm định 71
3.3. Kinh nghiệm của quốc tế 71
3.3.1 Kết quả khảo sát của Diễn đàn Đo lường Pháp quyền Châu Á Thái Bình
Dương đối với một số loại phương tiện đo thông dụng năm 2002 () 71
3.3.2 Giới thiệu hoạt động kiểm định của Nhật Bản 74
3.3.3 Giới thiệu hoạt động kiểm định của Trung Quốc () 76

3
3.4. Nội dung các giải pháp đa dạng hoá tổ chức kiểm định theo hƣớng công nhận
khả năng kiểm định phƣơng tiện đo và đề xuất các giải pháp hoàn thiện 76
3.4.1. Đề xuất các giải pháp hoàn thiện và nâng cao năng lực hoạt động kiểm
định phương tiện đo 76

3.4.2. Đa dạng hóa tổ chức kiểm định, tận dụng tối đa nguồn lực của các
ngành, cơ sở tham gia vào hoạt động kiểm định 79
3.4.3. Sử dụng các công cụ của quản lý chất lượng, của hoạt động công nhận,
chứng nhận cho lĩnh vực kiểm định phương tiện đo 81
3.4.4 Áp dụng các mô hình đối với từng loại/nhóm phương tiện đo 83
3.4.5 Biện pháp thực hiện cho các mô hình 91
3.4.6. Kết hợp chặt chẽ và hài hoà hệ thống kiểm định phương tiện đo với hệ
thống hiệu chuẩn; phát triển các tổ chức kiểm định để đảm nhiệm được cả
nhiệm vụ hiệu chuẩn thích hợp; xem phòng hiệu chuẩn được công nhận là
điều kiện cần thiết về kỹ thuật và quản lý để công nhận khả năng kiểm định
phương tiện đo 97
Kết luận Chƣơng 3 98
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 99
1. Kết luận 99
2. Khuyến nghị 100
MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
PHỤ LỤC 103

4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TCĐLCL: Tiêu chuẩn đo lường chất lượng
CNKHKĐ: Công nhận khả năng kiểm định
UQKĐ/CNKĐ: Công nhận kiểm định/ Ủy quyền kiểm định
KĐV: Kiểm định viên
OIML: Tổ chức quốc tế về đo lường
PTĐ: Phương tiện đo
ĐL: Đo lường
KĐ: Kiểm định
HC: Hiệu chuẩn

VILAS: Hệ thống công nhận phòng thí nghiệm
QLĐL: Quản lý đo lường
CNKN: Công nhận khả năng
QLNN: Quản lý nhà nước
BKHCN: Bộ Khoa học và Công nghệ
KT-XH: Kinh tế xã hội
KH&KT: Khoa học và kỹ thuật
ĐLPĐ: Đo lường Pháp định
PLĐL: Pháp luật đo lường
TTKT: Trung tâm kỹ thuật (1,2,3)
TTĐLVN: Trung tâm đo lường Việt Nam
KH&CN: Khoa học và Công nghệ

5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm nhiều lĩnh vực, song một trong
những hoạt động khoa học và công nghệ được kể đến đó là ngành Đo lường. Chính
sách hoạt động Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng (TĐC)cũng được định hướng
chung trong khuôn khổ chính sách khoa học và công nghệ.
Hoạt động kiểm định phương tiện đo là một trong những mảng hoạt động lớn,
cơ bản trong hoạt động quản lý đo lường nói riêng và hoạt động Tiêu chuẩn - Đo
lường - Chất lượng nói chung. Hoạt động kiểm định phương tiện đo (PTĐ) là cốt lõi
để xây dựng lên tiêu chuẩn và hình thành lên chất lượng sản phẩm góp phần lớn cho
việc thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Ngoài ra,
hoạt động kiểm định còn có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo sự công
bằng giữa người mua và người bán, đảm bảo sự an toàn và sức khoẻ cho cộng đồng.
Do vậy, việc nâng cao khả năng kiểm định các PTĐ là hết sức cấp bách để đáp ứng
nhu cầu sử dụng PTĐ trong quản lý đo lường là rất cần thiết và đã được Pháp luật
đưa vào diện bắt buộc phải quản lý.

Hiện nay, việc kiểm định PTĐ được tiến hành bởi các cơ quan quản lý nhà
nước về đo lường và một số doanh nghiệp. Tổ chức kiểm định của các cơ quan quản
lý nhà nước gồm có: các Trung tâm kỹ thuật và các Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường
Chất lượng Tỉnh/Thành phố; Tổ chức được uỷ quyền kiểm định của doanh nghiệp
gồm có: các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và sử dụng PTĐ, trong đó, tổ chức
kiểm định là doanh nghiệp sử dụng PTĐ là không phù hợp với nguyên tắc quản lý,
vì: không có yếu tố độc lập, khách quan (dư luận thường nói vừa đá bóng vừa thổi
cồi), đưa ra vài trường hợp lớn như: trường hợp xảy ra tại Điện lực TP. Hồ Chí Minh
về loại PTĐ Công tơ điện kế- điện tử, gần đây tại Công ty cấp thoát nước tỉnh Khánh
Hoà cũng là một đơn vị sử dụng PTĐ được uỷ quyền khả năng kiểm định, hai đơn vị
này có cùng một sai phạm, cố tình lợi dụng chức năng được uỷ quyền kiểm định của
mình để thực hiện việc kiểm định PTĐ không đúng rồi đưa ra sử dụng và thanh toán
trên PTĐ ấy làm cho dư luận rất bất bình.
Sự phát triển của khoa học và kỹ thuật cùng với sự đa dạng hoá của kinh tế xã
hội dẫn đến nhu cầu sử dụng PTĐ ngày càng cao và hiện đại cùng với sự xuất hiện
nhiều chủng loại các PTĐ kiểu điện tử, kỹ thuật số. Hiện nay, còn khoảng hơn 40%
PTĐ trong cả nước (theo thông tin từ tạp chí khoa học và công nghệ cuối năm 2007)
chưa được kiểm định, trong đó, có đến 20 -30% là loại PTĐ hiện đại, kiểu điện tử, kỹ
thuật số Điều này, đã dẫn tới sự bất cập trong hoạt động kiểm định PTĐ như sau:
- Khả năng kiểm định PTĐ theo luật định vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng
PTĐ của xã hội.

6
- Các doanh nghiệp có khả năng kiểm định, nhưng lại không được huy động để đóng
góp vào hoạt động kiểm định PTĐ. Ngược lại, một số đơn vị quản lý vì những lý do
nào đó lại muốn giữ quyền kiểm định mặc dù không đủ khả năng để kiểm định.
Vậy câu hỏi được đặt ra là cần phải có những giải pháp gì, để nâng cao năng
lực kiểm định đáp ứng nhu cầu sử dụng PTĐ ngày càng cao và hiện đại cùng với sự
xuất hiện nhiều chủng loại các PTĐ kiểu điện tử, kỹ thuật số? Đây cũng chính là vấn
đề chúng tôi quan tâm nghiên cứu và đã lựa chọn vấn đề này làm đề tài luận văn thạc

sĩ khoa học của mình: “ Đa dạng hoá tổ chức kiểm định để nâng cao khả năng kiểm
định phương tiện đo theo hướng chuyển cơ chế uỷ quyền sang cơ chế công nhận”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Pháp lệnh đo lường năm 1999 đã xác định „„Kiểm định phương tiện đo là việc
xác định và chứng nhận đối với phương tiện đo đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quy định
do tổ chức có thẩm quyền hoặc được uỷ quyền kiểm định thực hiện‟‟. Tổ chức có
thẩm quyền ở đây được hiểu chính là các tổ chức do Nhà nước thiết lập nên, có
nhiệm vụ thực hiện việc kiểm định phương tiện đo theo quy định của pháp luật. Các
tổ chức này được đầu tư trang thiết bị, nguồn nhân lực và các điều kiện về cơ sở vật
chất – kỹ thuật khác đủ để thực hiện nhiệm vụ kiểm định được giao. Để kiểm soát,
đảm bảo chất lượng, tính trung thực, khách quan trong hoạt động kiểm định của các
tổ chức này, đo lường pháp quyền nước ta đã thiết lập cơ chế công nhận khả năng
kiểm định. Cùng với các tổ chức kiểm định do Nhà nước thiết lập, là các tổ chức
được uỷ quyền kiểm định, hình thành từ các tổ chức hoạt động khoa học – kỹ thuật
đo lường của các ngành, các cơ sở theo nguyên tắc tự nguyện nhằm phát triển, mở
rộng khả năng kiểm định, đáp ứng yêu cầu kiểm định đối với những phương tiện đo
đã quy định phải qua kiểm định. Việc xây dựng và giao quyền kiểm định phương tiện
đo cho những tổ chức này được thực hiện theo quy định về uỷ quyền kiểm định
phương tiện đo. Những vấn đề này đã được trình bày trong Quy định về công nhận
khả năng kiểm định và uỷ quyền kiểm định phương tiện đo, ban hành theo Quyết định
số 29/2002/QĐ-BKHCNMT ngày 17/5/2002 của Bộ KHCNMT.
Gần đây, theo hướng dẫn của tổng cục TCĐLCL là nhằm mục đích tránh nhầm
lẫn về chức năng quản lý, Bộ KHCN đã ban hành Quy định về công nhận khả năng
kiểm định phương tiện đo (Quyết định số 20/2006/ QĐ-BKHCN ngày 10/11/2006)
thay thế Quy định về công nhận khả năng kiểm định và uỷ quyền kiểm định phương
tiện đo.
Quy định mới này xác định: Công nhận khả năng kiểm định phương tiện đo là
việc cơ quan quản lý nhà nước về đo lường, có thẩm quyền đánh giá năng lực kiểm

7

định của các tổ chức đề nghị được công nhận khả năng kiểm định để công nhận cho
tổ chức đó đủ khả năng kiểm định phương tiện đo và điều kiện đầu tiên để có thể
được công nhận khả năng kiểm định là: „„Tổ chức phải là pháp nhân có hệ thống
quản lý đảm bảo các yêu cầu về tính trung thực, khách quan trong hoạt động kiểm
định‟‟. Như vậy , với quy định mới này không thấy rõ vai trò, trách nhiệm của cơ
quan quản lý nhà nước về đo lường trong việc tổ chức hình thành các tổ chức kiểm
định, đặc biệt là trách nhiệm của Nhà nước trong việc đầu tư xây đựng hệ thống kiểm
định phương tiện đo. Các tổ chức kiểm định được hình thành gần như tự phát, ngẫu
nhiên. Đây là một vấn đề cần nghiên cứu, xem xét để có một cơ chế khoa hoc và phù
hợp, vừa khẳng định được vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, vừa tạo điều kiện để xã
hội hoá mạnh mẽ hoạt động kiểm định, nhằm xây dựng và phát triển được nhiều tổ
chức kiểm định phương tiện đo có chất lượng.
Đã có tác giả Nguyễn Văn Dậu nghiên cứu về tăng cường hoạt động kiểm
định, tác giả đã đưa ra các giải pháp tập trung để giải quyết số lượng phương tiện đo
(PTĐ) đang sử dụng, dần tiến tới 100% PTĐ phải được kiểm định trước khi đưa vào
sử dụng.
Nhìn chung tác giả chưa đưa ra hướng giải quyết các loại PTĐ cao, hiện đại và
nhiều chủng loại. Tức là, khả năng kiểm định của các tổ chức trong nhà nước và
ngoài nhà nước; mặt khác tác giả chưa đề cập đến yếu tố độc lập, khách quan của các
tổ chức kiểm định ngoài nhà nước; cũng như trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước về đo lường trong việc tổ chức hình thành các tổ chức kiểm định, đặc biệt là
trách nhiệm của Nhà nước trong việc đầu tư xây đựng hệ thống kiểm định phương
tiện đo. Để tránh hậu quả đáng tiếc đã xảy ra như các trường hợp đã nêu ở phần lý do
nghiên cứu; vấn đề nữa, là tác giả chưa đưa ra hướng giải quyết các tổ chức kiểm
định không đảm bảo tính độc lập, khách quan mà hiện nay theo cơ chế uỷ quyền
đang hoạt động; hay là, có điều chỉnh đến cơ chế uỷ quyền khả năng kiểm định đối
với tổ chức ngoài nhà nước, nhưng không phù hợp với quan điểm hiện nay. Sự cần
thiết phải nghiên cứu những phần chưa được đề cập nghiên cứu ở trên, để đưa ra các
giải pháp có tính khả thi, phù hợp với luật pháp mới hiện nay, để đáp ứng nhu cầu
đòi hỏi của sự phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN), kinh tế-xã hội, trong xu

thế hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng hoạt động kiểm định đo lường hiện nay của các tổ chức trong
hệ thống nhà nước được công nhận khả năng kiểm định, nhằm chỉ ra nguyên nhân sự
bất cập giữa khả năng kiểm định đo lường với nhu cầu xã hội.

8
- Đánh giá thực trạng của những tổ chức ngoài nhà nước (có yếu tố không độc lập,
khách quan) được uỷ quyền khả năng kiểm định, nhằm chỉ ra những nguyên nhân bất
cập, mâu thuẫn với lý thuyết quản lý.
- Từ đó đề xuất giải pháp đa dạng hoá tổ chức kiểm định theo hướng chuyển từ cơ
chế uỷ quyền sang cơ chế công nhận khả năng kiểm định có tính độc lập, khách
quan; Giải pháp về cơ chế đầu tư ở các tổ chức kiểm định nhà nước, về cơ chế giải
quyết triệt để các tổ chức được uỷ quyền kiểm định ở ngoài nhà nước hiện đang hoạt
động có yếu tố không độc lập, khách quan.
4. Phạm vi nghiêu cứu
4.1 Nội dung nghiên cứu
* Hiện trạng hoạt động kiểm định PTĐ trên địa bàn một số tỉnh, thành phố
trong khoảng thời gian nghiên cứu.
* Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp nâng cao khả năng kiểm định PTĐ theo
hướng chuyển cơ chế ủy quyền sang cơ chế công nhận
4.2 Giai đoạn nghiên cứu
Từ năm 2004 đến 2008
5. Mẫu khảo sát
- Một số Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng tỉnh, thành phố đại diện cho các
tổ chức kiểm định được công nhận trong cả nước;
- Một số Công ty cấp thoát, Công ty điện lực hoặc Điện lực tỉnh, thành phố đại diện
các tổ chức kiểm định được ủy quyền (doanh nghiệp) trong cả nước;
- Các tổ chức có năng lực muốn tham gia vào hoạt động kiểm định phương tiện đo:
Từ 1-5 đơn vị/ Tỉnh/Thành Phố/63 Tỉnh/Thành Phố; 5 Trung tâm Khoa học và Kỹ

thuật thuộc Sở KH&CN/ Tỉnh/Thành Phố.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Cần phải có những giải pháp gì để nâng cao khả năng kiểm định PTĐ thông
qua việc giải quyết mâu thuẫn giữa khả năng kiểm định hiện tại của các tổ chức kiểm
định với nhu cầu sử dụng PTĐ hiện đại và nhiều chủng loại hiện nay do sự phát triển
Khoa học & Công nghệ và Kinh tế - Xã hội?
* Có giải pháp nào để (giải quyết vấn đề) nâng cao khả năng kiểm định PTĐ
Vấn đề nghiên cứu 1: Liệu các tổ chức kiểm định hiện tại có đảm bảo khả năng
kiểm định được các loại PTĐ hiện đại và nhiều chủng loại đáp ứng được sự đòi hỏi
của phát triển Khoa học & Công nghệ và Kinh tế - Xã hội không?
Vấn đề nghiên cứu 2: Liệu cơ chế quản lý đo lường hiện nay đã đảm bảo tính
độc lập, khách quan, đã thu hút được nhiều doanh nghiệp và các ngành khác cùng
tham gia vào hoạt động kiểm định PTĐ chưa?

9
7. Giả thuyết nghiên cứu
*Giả thuyết 1 để giải quyết vấn đề nghiên cứu 1:
- Các tổ chức kiểm định hiện tại chưa đủ khả năng kiểm định được các loại PTĐ hiện
đại và nhiều chủng loại.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện:
+ Đa dạng hoá tổ chức kiểm định phương tiện đo đảm bảo tính độc lập, khách
quan;
+ Tăng cường chính sách đào tạo nhân lực kiểm định viên (KĐV) và đầu tư
phù hợp ở lĩnh vực này trong các tổ chức nhà nước.
*Giả thuyết 2 để giải quyết vấn đề nghiên cứu 2:
- Cơ chế ủy quyền/công nhận tổ chức kiểm định trong quản lý đo lường hiện nay
chưa thực sự hỗ trợ và tạo điều kiện, hơn thế nữa, cơ chế uỷ quyền không đảm bảo
tính độc lập, khách quan, đặc biệt đối với các tổ chức được uỷ quyền kiểm định có sử
dụng PTĐ vào việc thanh toán, nên chưa nhiều doanh nghiệp và các thành phần khác
trong xã hội tham gia vào hoạt động kiểm định.

- Đề xuất giải pháp hoàn thiện:
+ Điều chỉnh cơ chế chính sách, chuyển cơ chế uỷ quyền sang cơ chế công
nhận khả năng kiểm định các tổ chức theo hướng bình đẳng giữa tổ chức kiểm định
của nhà nước và của doanh nghiệp và các thành phần khác trong xã hội trên cơ sở
đảm bảo tính độc lập, khách quan, đồng thời, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ
quan quản lý nhà nước về đo lường trong việc tổ chức hình thành các tổ chức kiểm
định, đặc biệt là trách nhiệm của Nhà nước trong việc đầu tư xây đựng hệ thống kiểm
định phương tiện đo.
+ Tăng cường cơ chế giải quyết triệt để các tổ chức được uỷ quyền/công nhận
kiểm định hiện nay đang hoạt động mà không đảm bảo tính độc lập, khách quan,
như: các tổ chức vừa được uỷ quyền/công nhận kiểm định PTĐ lại vừa sử dụng PTĐ
để thanh toán.
Để nâng cao năng lực của các tổ chức kiểm định trong cả nước, chỉ có thể thực
hiện các yếu tố trong hệ thống (theo hình dưới đây) một cách triệt để. Nên việc, đổi
mới cơ chế thu hút các doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia vào tổ chức kiểm
định, hoạt động một cách bình đẳng là vấn đề trọng tâm, và đồng thời xoá bỏ tính độc
quyền của tổ chức Nhà nước, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước về đo lường trong việc tổ chức hình thành các tổ chức kiểm định. Từ đó mới có
thể đáp ứng được nhu cầu kiểm định PTĐ hiện nay.


10
CHÍNH SÁCH NÂNG CAO NĂNG LỰC KIỂM ĐỊNH ĐO LƢỜNG

























8. Phƣơng pháp chứng minh giả thuyết
Phân tích tài liệu:
+ Phân tích các nguồn tài liệu, số liệu sẵn có.
+ Sử dụng tài liệu thứ cấp là các báo cáo hằng năm về tình hình kiểm định của các
tổ chức kiểm định.
Điều tra bảng hỏi:
Dự kiến tiến hành nghiên cứu định lượng với số lượng khoảng 50 phiếu điều
tra dành cho các chủ thể quản lý, các chuyên gia trong lĩnh vực, các chuyên viên
quản lý (số liệu điều tra được xử lý bằng Excel).
Phỏng vấn sâu:
Tổ chức
được uỷ
quyền kđ

(DN trong
và ngoài
nhà nước)
Tổ chức
mới muốn
đầu tư
(DN KĐ)
ngoài nhà
nước)
Tổ chức
kiểm định
của nhà
nước
Thiết bị chuẩn
từ bên ngoài
Nghiên cứu
R&D t. nước
Đào tạo nguồn
nhân lực
Nhân lực
KĐV
CHÍNH SÁCH VÀ NGUỒN
LỰC CỦA NHÀ NƢỚC
- Tăng cường chính
sách quản lý đo lường
đối với DNKĐ; Cơ
chế giải quyết triệt để
tổ chức KĐ không
đảm báo độc lập,
khách quan

- Nguồn thiết bị chuẩn
trong nước;
- Nguồn thiết bị chuẩn
sao chép từ nước
ngoài.
Theo cơ chế mới
công nhận khả năng
KĐ, bình đẳng, độc
lập, khách quan.
Tổ chức KĐ
Nhà nƣớc
thực hiện theo
cơ chế mới
Tổ chức KĐ
đƣợc ủy
quyền/công
nhận đảm bảo
tính độc lập,
khách quan
TC soát xét,
đánh giá công
nhận của NN
Nguồn TB chuẩn
đo lường t. nước
Chính sách thu hút từ bên ngoài
Các
giải
pháp
hoàn
thiện

để
nâng
cao
năng
lực
kiểm
định
PTĐ

11
Dự kiến tiến hành phỏng vấn sâu đối với một số đối tượng là chuyên gia, đối
tượng là quản lý.
Phương pháp quan sát, mô tả đối tượng liên quan đến nội dung nghiên cứu
9. Kết cấu luận văn
LUẬN VĂN BAO GỒM NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH NHƯ SAU:
Phần mở đầu, 3 chương, phần kết luận và khuyến nghị, phần phụ lục và danh
mục tài liệu tham khảo.

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐO LƢỜNG VÀ TỔ CHỨC
HOẠT ĐỘNG KIỂM ĐỊNH PHƢƠNG TIỆN ĐO
1.1. Vai trò đo lường pháp quyền Việt Nam
1.2. Lý luận chung về quản lý đo lường đối với sự phát triển KT-XH
1.3. Đa dạng hóa tổ chức kiểm định
1.4. Hoạt động kiểm định PTĐ trong công tác quản lý Nhà nước về đo
lường…

Chƣơng 2: HIỆN TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM ĐỊNH PHƢƠNG
TIỆN ĐO Ở VIỆT NAM
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của các tổ chức kiểm định thuộc cơ
quan quản lý đo lường Nhà nước…

2.2. Hiện trạng hoạt động kiểm định PTĐ…
2.3. Hiện trạng và phân tích cơ chế ủy quyền và cơ chế công nhận liên quan
đến việc hình thành các tổ chức kiểm định PTĐ
2.4. Đánh giá nguyên nhân…

Chƣơng 3: GIẢI PHÁP ĐA DẠNG HOÁ TỔ CHỨC KIỂM ĐỊNH THEO
HƢỚNG CÔNG NHẬN KHẢ NĂNG KIỂM ĐỊNH PTĐ Ở VIỆT NAM
3.1. Tư tưởng chỉ đạo
3.2. Mục tiêu của giải pháp
3.3. Kinh nghiệm quốc tế
3.4. Nội dung các giải pháp đa dạng hóa tổ chức kiểm định theo hướng công
nhận khả năng kiểm định.
Phần kết luận và khuyến nghị
Sẽ khái quát lại luận điểm của luận văn và khuyến nghị về những vấn đề và
giải pháp luận văn đã đề cập.


12
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐO LƢỜNG VÀ TỔ CHỨC
HOẠT ĐỘNG KIỂM ĐỊNH PHƢƠNG TIỆN ĐO

1.1. Vai trò đo lƣờng pháp quyền Việt Nam
Hiện nay xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh là yếu tố quyết định để
phát triển đất nước theo dòng chảy văn minh chung của nhân loại. Trong Nhà nước
pháp quyền đó mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội đều phải được quản lý, điều
hành bằng luật pháp. Đo lường là lĩnh vực có ý nghĩa như là hạ tầng cơ sở cho sự
phát triển của tất cả nền kinh tế quốc dân, liên quan đến an toàn và lợi ớch của toàn
dân. Quản lý và phát triển lĩnh vực này là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
bất cứ Nhà nước nào trên thế giới. Xây dựng được hệ thống quản lý đo lường và cao
hơn nữa là Luật Đo lường chính là đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền

của nước ta đối với một lĩnh vực hoạt động có ý nghĩa nền tảng của sự phát triển và
văn minh này.
1.1.1 Đảm bảo phát triển và ứng dụng khoa học đo lường đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hài hoà với đo lường quốc tế
Đo lường học là lĩnh vực hiểu biết liên quan đến phép đo. Đo lường học bao
gồm tất cả các khía cạnh lý thuyết và thực tiễn của phép đo, với mọi độ không đảm
bảo đo và lĩnh vực áp dụng. Sự áp dụng đo lường học là cơ sở cho chất lượng trong
các quá trình và hàng hoá được sản xuất ra. Đo lường học có vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ, thiết kế và sản xuất hiệu quả các sản
phẩm để phù hợp với nhu cầu của thị trường và trong việc khám phá chống lại những
sự không phù hợp. Nó cung cấp sự trợ giúp cơ bản cho kiểm tra sức khoẻ và an toàn,
theo dõi môi trường, chế biến thực phẩm và việc thực hiện công bằng luật pháp. Nó
cũng cung cấp cơ sở cho thương mại công bằng trong nền kinh tế nội địa và thương
mại quốc tế trên thị trường toàn cầu hoá. Sự công nhận lẫn nhau về khả năng đo
lường của một nền kinh tế là chuẩn mực để rỡ bỏ các rào cản kỹ thuật đối với thương
mại và đối với việc tham gia vào thoả thuận thương mại nhiều bên, ví dụ như Tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Mọi Nhà nước cần phải tích cực tham gia vào
những thoả thuận công nhận lẫn nhau (MRAs) toàn cầu của các tổ chức quốc tế cung
cấp sự tin cậy thích hợp giữa những hệ thống đo lường quốc gia.
1.1.2 Thiết lập hệ thống đo lường pháp quyền Việt Nam phù hợp với đặc
điểm nước ta và hài hoà với đo lường pháp quyền quốc tế
Đo lường pháp quyền bao gồm tất cả các hoạt động có những yêu cầu về luật pháp
được quy định cho phép đo, đơn vị đo, phương tiện và phương pháp đo. Những hoạt
động này được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhân danh các cơ quan
có thẩm quyền, nhằm mục đích đảm bảo mức độ tin cậy thích hợp của kết quả đo

13
trong môi trường luật pháp quốc gia. Đo lường pháp quyền không phải là một phân
ngành riêng của đo lường học. Đo lường pháp quyền tạo ra việc sử dụng đo lường
khoa học để nhận được những sự quy chiếu và liên kết chuẩn thích hợp, và có thể áp

dụng cho bất kỳ đại lượng nào mà đo lường học hướng tới.
Đo lường pháp quyền không chỉ áp dụng cho các lĩnh vực thương mại mà còn
để bảo vệ cá nhân và xã hội như là một tổng thể không phân tách (ví dụ các phép đo
bắt buộc về luật pháp, các phép đo sức khoẻ và an toàn). Cơ quan có thẩm quyền
chung phải dành sự chú ý đặc biệt đối với những kết quả đo có các lợi ích trái ngược
nhau, khi đó cần có sự can thiệp của một người quyết định mang tính khách quan. Đo
lường pháp quyền đặc biệt cần thiết khi sức mạnh của thị trường chưa được thiết lập,
chưa đủ sự cạnh tranh hoặc mất thăng bằng. Nói chung, đo lường pháp quyền bao
gồm các điều khoản liên quan đến đơn vị đo, kết quả đo (ví dụ hàng đóng gói sẵn) và
phương tiện đo. Những điều khoản này chứa đựng những nghĩa vụ pháp lý liên quan
đến kết quả đo và phương tiện đo, bao gồm cả sự kiểm soát luật pháp được thực hiện
bởi Chính phủ hoặc nhân danh Chính phủ.
Việc mua bán hàng hoá và dịch vụ bao gồm việc cân hoặc đo số lượng và /
hoặc chất lượng của sản phẩm, bao gồm cả sản phẩm đóng gói sẵn với việc nói rõ
khối lượng, số lượng hoặc dung tích của đại lượng và các phép đo dịch vụ (ví dụ như
đo thời gian, khoảng cách). Trách nhiệm điều chỉnh của Chính phủ cũng bao gồm cả
luật về sức khoẻ, an toàn và môi trường. Những chức năng này được phân chia về
mặt bản chất nhưng có một đặc trưng chung là sự tuân thủ luật về kết quả đo. Vì vậy
các quá trình đo có sự liên quan trực tiếp với Chính phủ. Việc đưa ra các luật và quy
định, sự kiểm soát phép đo thông qua việc giám sát thị trường, việc thiết lập và duy
trì hạ tầng cơ sở để có thể hỗ trợ cho sự chính xác của các phép đo này (ví dụ thông
qua việc liên kết chuẩn) là những yếu tố cơ bản để Chính phủ hoàn thành vai trò của
mình.
Phạm vi của các quy định đo lường pháp quyền (ví dụ như loại phép đo và
phương tiện đo là đối tượng của những yêu cầu pháp luật) sẽ phụ thuộc vào tầng lớp
người sử dụng mà Chính phủ nhận thấy cần phải bảo vệ và vào khả năng của những
người sử dụng này để bảo vệ chính mình chống lại sự lạm dụng. Mục đích cuối cùng
của đo lường pháp quyền là cung cấp sự tin cậy của kết quả đo bằng những quy định
luật pháp. Sự cần thiết và yêu cầu đối với các kết quả đo cần được xem xét trước tiên
để ấn định sự cần thiết và yêu cầu đối với phương tiện đo.

Tầm quan trọng của các kết quả đo đang tăng lên không ngừng do sự phát triển
vũ bão của khoa học - công nghệ và sự xuất hiện của công nghệ thông tin. Người tiêu

14
dùng và ngành công nghiệp phải đưa ra các quyết định hàng ngày dựa trên cơ sở
những kết quả đo có ảnh hưởng đến kinh tế và hạnh phúc cá nhân của họ, ảnh hưởng
đến khả năng đánh giá các hành động và hiệu quả của cơ quan có thẩm quyền chung,
các xí nghiệp và các tổ chức phi chính phủ.
Vì các nhà sản xuất, nhập khẩu và bán hầu hết các sản phẩm chịu trách nhiệm
về những quá trình đo liên quan, nên người mua (cá nhân cũng như tập thể) nói
chung không được thông tin một cách thích hợp về các quá trình này, họ bị đặt vào
thế bất lợi lớn đối với các kết quả đo và sự diễn giải về những kết quả này. Các phép
đo vô tư và chính xác giúp bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh.
1.2. Lý luận chung về quản lý đo lƣờng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội
1.2.1. Khái niệm quản lý đo lường
Dưới góc độ quản lý, hai đặc trưng chất lượng quan trọng nhất của phép đo
là tính thống nhất và độ chính xác cần thiết của nó.
Các phép đo là thống nhất khi kết quả đo được biểu thị theo đơn vị đo
lường hợp pháp và sai số của nó được cho biết một cách rõ ràng, đầy đủ.
Độ chính xác của phép đo đặc trưng cho mức độ sát sao của kết quả đo so
với giá trị thực của đại lượng cần đo. Sai số của phép đo càng lớn cũng có nghĩa
là độ chính xác của phép đo càng thấp và ngược lại càng theo mục đích sử dụng
cụ thể, mỗi phép đo phải đạt được một độ chính xác cần thiết nào đó. Khi mua
bán vàng bạc ta muốn phép đo khối lượng phải chính xác hơn nhiều so với khi ta
đi mua gạo, mua thịt v.v
Tính thống nhất và độ chính xác cần thiết là hai yêu cầu phải luôn luôn đi
đôi với nhau. Phép đo phải đồng thời thoả mãn cả hai yêu cầu này mới có giá trị
sử dụng, mới thực sự có tác dụng đối với nền kinh tế quốc dân nói chung.
Cần ít nhất ba yếu tố để có thể tiến hành được các phép đo: PTĐ, phương
pháp đo và người đo. Để hội đủ các yếu tố trên, trước khi thực hiện phép đo đã

phải tiến hành một loạt các công việc khác nhau. Phải nghiên cứu, thiết lập các
đơn vịđo, chuẩn của các đơn vị ấy; phải thiết kế, tổ chức sản xuất PTĐ; phải
nghiên cứu các đại lượng cần đo và phương pháp đo chúng; phải đào tạo cán bộ
đo lường; phải tổ chức việc bảo trì, sửa chữa, hiệu chỉnh PTĐ v.v Tất cả những
công việc khác nhau đó đều hướng tới một mục tiêu chung là tạo ra các yếu tố
cần thiết để có thể tiến hành được các phép đo ta gọi chung là các hoạt động đo
lường bao gồm cả việc thực hiện cụ thể từng phép đo.
Thường mong muốn các hoạt động đo lường phải được tiến hành như thế
nào đó để:

15
- Các đại lượng cần đo đều được đo;
- Các phép đo đảm bảo được tính thống nhất và độ chính xác cần thiết;
- Đo lường ở trong tình trạng luôn luôn phát triển; số đại lượng đo được
ngày càng nhiều, thời gian đo ngày càng nhanh, phạm vi đo ngày càng mở
rộng, thao tác đo ngày càng đơn giản, độ chính xác đo ngày càng cao v.v
- Chi phí đo là ít nhất.
Để đạt được kết quả mong muốn, giống như mọi lĩnh vực hoạt động khác
của xã hội, các hoạt động đo lường cần phải được quản lý một cách khoa học.
Từ những trình bày ở trên, có thể định nghĩa quản lý đo lường (QLĐL)
như sau: QLĐL là việc xây dựng và ứng dụng các cơ sở khoa học, kỹ thuật, pháp
lý, tổ chức và KT-XH để đạt được tính thống nhất và độ chính xác cần thiết của
phép đo với chi phí ít nhất.
Theo những quan điểm truyền thống của điều khiển học, có thể diễn tả
định nghĩa về QLĐL trong Hình 1 dưới đây:















Hình 1
Có thể phân tích khái niệm quản lý đo lường (QLĐL) nêu trên dưới nhiều góc
độ khác nhau tuỳ thuộc vào cấp và phạm vi tiến hành quản lý: QLĐL ở một ngành,
một doanh nghiệp, một địa phương, một vùng lãnh thổ hoặc ở tầm vĩ mô trên phạm
vi cả nước, tức quản lý nhà nước (QLNN) về đo lường.

1.2.2. Các cơ sở của quản lý đo lường
a. Cơ sở khoa học
Các thông tin
bên ngoài
Chủ thể của
QLĐL
Các đại lượng
cần đo

Kết quả
thanh tra,
kiểm tra
Báo cáo,
thống kê
Các hoạt động

đo lường
Các kết quả đo
thống nhất, chính xác

Khoa
học
Kỹ
thuật
Pháp

Tổ
chức
Kinh tế
- xã
hội

16
Cơ sở khoa học của QLĐL là đo lường học. Đo lường học là khoa học
nghiên cứu về phép đo. Các lĩnh vực chủ yếu của đo lường học là: đo lường học
lý thuyết (lý thuyết đo), đo lường học ứng dụng, đo lường học kỹ thuật (kỹ thuật
đo) và đo lường học hợp pháp (đo lường hợp pháp).
b. Cơ sở kỹ thuật
Cơ sở kỹ thuật của QLĐL là toàn bộ các máy móc, trang thiết bị cũng như
các hệ thống và phương tiện kỹ thuật khác được tạo nên để tác động vào các hoạt
động đo lường. Nó bao gồm:
- Hệ thống chuẩn đo lường;
- Hệ thống mẫu chuẩn và số liệu tra cứu chuẩn về thành phần và tính chất
của các chất và vật liệu.
- Hệ thống các phòng kiểm định, hiệu chuẩn PTĐ;
- Hệ thống các phòng thử nghiệm PTĐ;

- Hệ thống nghiên cứu, thiết kế, đưa vào sản xuất, sử dụng PTĐ.
c. Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý của QLĐL là toàn bộ các luật lệ, các quy định về đo lường.
Theo nội dung có thể chia cơ sở về pháp lý của QLĐL thành hai nhóm: các luật
lệ, quy định đề cập đến các nguyên tắc, nội dung chung của QLĐL và các luật lệ
quy định đề cập tới các vấn đề khoa học, kỹ thuật đo lường cụ thể.
Cũng có thể phân loại cơ sở pháp lý của QLĐL theo cấp và phạm vi quản
lý: do một ngành, một doanh nghiệp, một địa phương ban hành; hoặc ở tầm vĩ
mô: do Quốc hội, Chính phủ ban hành.
d. Cơ sở tổ chức
Cơ sở về tổ chức của QLĐL là các tổ chức được giao nhiệm vụ quản lý đo
lường ở một phạm vi và mức độ nhất định nào đó. Có thể phân ra: tổ chức QLĐL
của một doanh nghiệp, một ngành, một địa phương hoặc trên phạm vi cả nước:
hệ thống các cơ quan QLNN về đo lường.
e. Cơ sở kinh tế - xã hội (KT-XH)
Cơ sở về KT-XH của QLĐL là môi trường, là những điều kiện về KT-XH
được tạo ra để phát triển và đưa các hoạt động đo lường vào định hướng đã định.
Phải chủ động xây dựng và áp dụng các cơ sở mang tính KT-XH của QLĐL như
các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, động viên; kích thích tinh thần tự trọng,
tinh thần trách nhiệm; chính sách tiền lương, tiền thưởng, xử phạt; chính sách về
đầu tư, thuế, giá cả v.v

17
1.2.3. Các đặc điểm của quản lý đo lường
Từ sự nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển lâu dài của đo lường
và QLĐL có thể nêu các nhận xét sau đây về các đặc điểm của QLĐL.
a. Tính tất yếu của QLĐL
Đo lường hình thành từ chính đòi hỏi của đời sống con người. Nhưng nó
chỉ đáp ứng được yêu cầu của con người khi khắc phục được sự hỗn loạn để đạt
tới sự thống nhất, đúng đắn. QLĐL trở thành tất yếu, một công việc tự nhiên cần

phải có.
b. Tính pháp lý của QLĐL
Việc QLĐL bằng luật pháp đã phát triển từ thô sơ đến hoàn chỉnh như
chính sự phát triển của đo lường. Bắt đầu từ những quy định ở một địa phương,
một vùng, đến cả nước và giờ đây là những quy định thống nhất trên toàn thế
giới. Tính pháp lý là yếu tố không thể thiếu của QLĐL.
c. Tính khoa học và kinh tế của QLĐL
QLĐL gắn liền với kinh tế, với các hoạt động thương mại, giao lưu kinh tế
giữa các vùng, giữa các nước với nhau. Nhưng đo lường cũng lại là một ngành
KH-KT cụ thể. QLĐL chỉ có thể tiến hành trên cơ sở các quy định (quy định đơn
vị thô sơ là hòn đá, gang tay) đến hiện đại như hiện nay (quy định đơn vị dựa
trên những thành tựu mới nhất của KH-KT). Tính khoa học và kinh tế là một
trong những đặc trưng tiêu biểu của QLĐL.
d. Tính xã hội của QLĐL
Đo lường và do đó QLĐL, liên quan đến đông đảo mọi người, đụng chạm
đến an toàn và quyền lợi chung của toàn xã hội, liên quan đến hầu hết các lĩnh
vực hoạt động của con người. Tính quần chúng, hay nói một cách khác, tính vì
con người, cũng là một trong những đặc điểm quan trọng của QLĐL.
e. Tính quốc tế của QLĐL
Cùng với sự phát triển của KH&CN và đời sống văn minh con người, tính
quốc tế của QLĐL ngày càng trở nên cấp bách. Thống nhất đo lường không thể
chỉ là yêu cầu trong từng nước mà là yêu cầu trên phạm vi toàn thế giới. Tính
quốc tế của QLĐL ngày càng trở thành một tất yếu khách quan, thể hiện ở sự ra
đời liên tiếp của các tổ chức đo lường quốc tế và khu vực như Công ước mét
(Convention du metro, 1875); Tổ chức đo lường hợp pháp quốc tế OIML
(Organisation Internationale de Metrologie Legale, 1955); Chương trình đo
lường Châu Á-Thái Bình Dương APMP (The Asia-Pacific Metrology Programe,
1980); Diễn đàn đo lường hợp pháp Châu Á-Thái Bình Dương APLMF (The
Asia Pacific Legal Metrology Forum, 1994)


18
1.2.4. Đo lường pháp định
Đo lường pháp định: là phần đo lường nghiên cứu về đơn vị đo, phương
pháp đo, PTĐ trong mối liên quan với những yếu tố có tính chất bắt buộc về mặt
kỹ thuật và pháp luật nhằm mục đích duy trì sự đảm bảo chung trên quan điểm
an toàn và sai số đo hợp lý.
Do vậy, đo lường hợp pháp là phần chính trong quản lý đo lường và có vai
trò quan trọng đối với việc phát triển và hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về
đo lường.
Xét về mặt hoạt động thực tiễn của quản lý nhà nước về đo lường, đo
lường pháp định chính là những hoạt động đặt dưới sự quản lý, kiểm tra của Nhà
nước bằng luật pháp. Đo lường hợp pháp thể hiện tính pháp lý, tính bắt buộc
bằng các biện pháp quản lý hành chính, nó liên quan chặt chẽ với việc xây dựng
và sử dụng các cơ sở và biện pháp về mặt pháp lý của quản lý nhà nước về đo
lường.
Những phép đo được cơ quan nhà nước quản lý bằng pháp luật sớm nhất là
những phép đo khối lượng, độ dài, dung tích dùng trong buôn bán vì nó liên quan
mật thiết đến đời sống của mọi người.
Ngày nay, đối tượng của đo lường pháp định đã được mở rộng, liên quan
đến nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người, đặc biệt là những hoạt động
đo lường trong thương mại, an toàn lao động, bảo vệ sức khoẻ và môi trường.
Tuy nhiên, tuỳ tình hình cụ thể của mỗi nước mà phạm vi và đối tượng của đo
lường hợp pháp có khác nhau.
Theo Chương III của Pháp lệnh Đo lường thì PTĐ sử dụng vào mục đích:
định lượng hàng hoá, dịch vụ trong mua bán và thanh toán; đảm bảo an toàn, bảo
vệ sức khoẻ và môi trường; giám định tư pháp, phục vụ các hoạt động công vụ
khác của Nhà nước; và các phép kiểm định PTĐ này là đối tượng của đo lường
pháp quyền.
Như vậy, đo lường pháp quyền được hình thành với mục đích cuối cùng là
bảo vệ lợi ích hợp pháp giữa người mua và người bán, chăm sóc sức khoẻ và môi

trường cho cộng đồng, đảm bảo sự công bằng trong xét xử, và nó gắn liền với
hoạt động của kinh tế – xã hội và đời sống của nhân dân. Để từng bước thực hiện
được mục đích nêu trên thì bất cứ nước nào cũng phải chăm no, xây dựng hệ
thống đo lường pháp quyền này đủ lớn mạnh, để phục vụ nhu cầu của kinh tế-xã
hội. Do vậy, tăng cường hoạt động kiểm định PTĐ để củng cố đo lường pháp
quyền nói riêng và quản lý đo lường nói chung là cần thiết.

19
1.2.5. Quản lý Nhà nước về đo lường
Đo lường là một lĩnh vực khoa học- kỹ thuật chính xác, là hoạt động không
thể thiếu, có vai trò quan trọng đối với đời sống, sản xuất, nghiên cứu khoa học,
an ninh và quốc phòng. Đo lường thống nhất và chính xác góp phần đảm bảo
công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân
trong các giao dịch kinh tế, dân sự; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước; là
công cụ đắc lực góp phần năng cao năng suất, chất lượng, phát triển kinh tế- xã
hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đo lường liên quan mật thiết đến quyền lợi và sự an toàn chung của mọi
người, của toàn xã hội. Đó là những phép đo tiến hành trong thương mại, khám
chữa bệnh, trong đảm bảo an toàn kỹ thuật và môi trường Đo lường là một
trong ba yếu tố hợp thành nền sản xuất hiện đại (năng lượng, nguyên vật liệu và
đo lường). Phát triển đo lường, đầu tư cho đo lường là yêu cầu khách quan, là
đòi hỏi của chính đời sống, của mọi ngành kinh tế, của từng cơ sở sản xuất. Để
tạo tiền đề cho sự phát triển chung của đất nước, để đầu tư đúng, để sử dụng có
hiệu quả tiềm năng lớn lao đã và sẽ có trong lĩnh vực đo lường, để đảm bảo
quyền lợi chính đáng và an toàn chung của mọi người, của toàn xã hội, sự định
hướng, sự quản lý của Nhà nước về đo lường là hết sức cần thiết và quan trọng
nó lại càng cần thiết và quan trọng hơn khi xem xét trong bối cảnh của nền kinh
tế thị trường.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và quản lý các hoạt động đo
lường, các nước trên thế giới, đặc biệt các nước phát triển từ lâu đã chú trọng đầu tư

xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực và ban hành hệ thống văn
bản pháp luật cần thiết, đồng bộ để điều chỉnh những vấn đề cơ bản của đo lường
như: đơn vị đo, chuẩn đo lường, phương tiện đo, phép đo, kiểm soát đo lường đối với
hàng đóng gói sẵn; sản xuất, kinh doanh phương tiện đo; kiểm định, hiệu chuẩn, thử
nghiệm đo lường; quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực đo
lường v.v Các nước còn ký kết với nhau nhiều điều ước quốc tế song phương và đa
phương, thành lập một số tổ chức quốc tế có tính chất khu vực và toàn cầu về đo
lường nhằm thúc đẩy hợp tác phát triển hoạt động đo lường ở từng quốc gia, đồng
thời hài hoà hoạt động đo lường và dỡ bỏ các rào cản thương mại trong lĩnh vực đo
lường, góp phần thúc đẩy giao lưu kinh tế, thương mại trong khu vực và toàn cầu.
Xét trên phạm vi cả nước, chủ thể của QLĐL chính là cơ quan hành chính
cao nhất của đất nước, là Chính phủ. Để thực hiện nhiệm vụ QLNN về đo lường
trong cả nước, Hệ thống cơ quan QLNN về đo lường ở nước ta hiện nay gồm
Tổng cục TCĐLCL thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ và các Chi cục TCĐLCL
thuộc Sở Khoa học và Công nghệ các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương.

20
Đối tượng của quản lý Nhà nước về đo lường là toàn bộ các hoạt động đo
lường diễn ra trên phạm vi cả nước. Vấn đề đặt ra là chọn những định hướng,
những trọng tâm cần quản lý ở từng giai đoạn, từng ngành, từng khu vực và
quan trọng là phải có một cơ chế quản lý khoa học và hợp lý để hướng những đối
tượng cần quản lý vào đúng quỹ đạo mong muốn nhằm đi đến mục tiêu đã định.
Mục đích của QLNN về đo lường là đảm bảo tính thống nhất và độ chính
xác cần thiết của các phép đo với chi phí ít nhất xét trên phạm vi cả nước. Những
vấn đề liên quan trực tiếp đến mục tiêu này như quy định đơn vị đo lường hợp
pháp, thiết lập hệ thống chuẩn đo lường quốc gia, hệ thống kiểm định, hệ thống
hiệu chuẩn PTĐ trở thành những nhiệm vụ rất quan trọng của QLNN về đo
lường.
Nhiệm vụ của QLNN về đo lường bao gồm 2 nội dung chính là "xây dựng"
và "áp dụng" các cơ sở khoa học, kỹ thuật, pháp lý, tổ chức, KT-XH đã đạt được

tính thống nhất và độ chính xác cần thiết của phép đo với chi phí ít nhất trên
phạm vi cả nước. Chủ thể của QLNN về đo lường tác động đến các hoạt động đo
lường thông qua một hệ thống các cơ sở và biện pháp cần thiết. Nội dung "xây
dựng" và "áp dụng" luôn đi đôi với nhau, bổ sung và hoàn thiện lẫn nhau để đạt
tới mục tiêu đã định.
1.3. Đa dạng hoá tổ chức kiểm định phƣơng tiện đo
1.3.1 Khái niệm về thuật ngữ đa dạng hoá tổ chức kiểm định
Đa dạng hóa tổ chức kiểm định, tận dụng tối đa nguồn lực của các ngành, cơ
sở tham gia vào hoạt động kiểm định. Kiểm định là một loại “dịch vụ kỹ thuật quản
lý”; cơ quan quản lý nhà nước về đo lường (sau đây gọi tắt là cơ quan quản lý) có
trách nhiệm tổ chức hệ thống kiểm định sao cho hiệu quả nhất với chi phí thấp nhất.
Cần đẩy mạnh việc xã hội hóa dịch vụ kiểm định, tận dụng được nhiều nhất cơ sở vật
chất kỹ thuật của mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động kiểm định.
Việt Nam đã và đang phát triển nền kinh tế thị trường, đồng nghĩa với nó là đa
dạng hóa về sở hữu, có thị trường mà ở đó có nhiều hàng hóa đa dạng phong phú, có
cung lớn, có cầu nhiều, có lắm người bán, có nhiều người mua và việc sản xuất, trao
đổi hàng hóa phải được thuận lợi tự do, bình đẳng theo quy định của pháp luật và phù
hợp với các quy luật, nguyên tắc của kinh tế thị trường. Như vậy, vô hình dung, kinh
tế thị trường đã loại bỏ bao cấp, xóa bỏ độc quyền và hình thành nên đa dạng hóa sở
hữu, đa dạng hóa sản phẩm, Nói cách khác, đa dạng hóa là quy luật tất yếu của nền
kinh tế thị trường.
Đồng hành với phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, hoạt động kiểm
định PTĐ đã và đang nảy sinh ra đa dạng hóa về chủng loại PTĐ, đa dạng hóa về

21
lĩnh vực đo, phương pháp đo, cấp/độ chính xác (ví dụ trước kia chỉ có công tơ cơ
điện, nay có nhiều loại công tơ điện tử với nhiều loại, kiểu, cấp chính xác cao hơn, )
và sẽ phải đa dạng hóa cả tổ chức kiểm định PTĐ. Như vậy, đa dạng hóa tổ chức
kiểm định có tính tất yếu và mang tính quy luật của nền kinh tế thị trường.
Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu ở đây, đa dạng hoá các tổ chức kiểm định

khi thực hiện hoạt động kiểm định PTĐ được hiểu là cải tiến, phát triển và mở rộng
hoạt động kiểm định PTĐ của các tổ chức kiểm định thuộc cơ quan quản lý nhà nước
về đo lường các cấp, các cơ sở sản xuất, các cơ sở kinh doanh, các cơ sở sử dụng
PTĐ và các tổ chức kiểm định độc lập (không cùng quản lý, không cùng kinh doanh,
không cùng sử dụng).
1.3.2 Cơ sở lý luận trong nước về đa dạng hoá tổ chức kiểm định
a) Chính sách và Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến 2010
Với mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm
2020, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, cam kết thực hiện các thoả thuận trong
khuôn khổ AFTA, Hiệp định thương mại Việt Nam –Hoa Kỳ, tham gia WTO thì việc
tăng cường đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh; phát triển kinh tế tập thể; khuyến
khích và hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển và được đối xử bình đẳng như mọi thành
phần kinh tế khác trong khuôn khổ pháp luật; cải cách hành chính đang được chú
trọng và đẩy mạnh. Đặc biệt, Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài tham gia nghiên cứu, ứng dụng và đầu
tư phát triển KH&CN.
Việc quan tâm của Nhà nước trong hoạt động KH&CN và xu thế xã hội hoá
hoạt động KH&CN cũng đã được thể hiện rõ trong Chính sách và Chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ đến 2010 như sau:
"Tập trung đầu tư của Nhà nước vào các lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên, đồng
thời đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ".
Lĩnh vực đo lường là một phần của hoạt động khoa học và công nghệ. Do vậy,
hoạt động kiểm định PTĐ trong lĩnh vực đo lường cũng sẽ được ưu tiên, đẩy mạnh
tiến trình xã hội hoá.
Với những lý lẽ nêu trên, việc đa dạng hoá tổ chức kiểm định hoàn toàn phù
hợp với Chính sách và Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến 2010 và xu
thế của xã hội.
b) Chiến lược phát triển Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng đến năm 2015
Căn cứ vào Chính sách và Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến
2010, năm 2005 Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng đã ban hành Chiến

lược phát triển Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng đến năm 2015. Trong phần định

22
hướng chiến lược cho lĩnh vực đo lường của Chiến lược phát triển Tiêu chuẩn - Đo
lường - Chất lượng đến năm 2015 có ghi:
"Từ 2011 trở đi: Đẩy mạnh việc"xã hội hoá công việc kiểm định" thông qua cơ
chế phát triển các tổ chức kiểm định độc lập của các thành phần kinh tế có cơ chế
giám sát chặt chẽ của nhà nước. "
Theo định hướng chiến lược nêu trên thì xã hội hoá hoạt động kiểm định PTĐ
đã được định hướng trong toàn ngành Đo lường và có lộ trình thực hiện công việc
này. Định hướng chiến lược trên cũng đã chỉ ra quá trình xã hội hoá hoạt động kiểm
định phải thông qua bước phát triển các tổ chức kiểm định độc lập. Điều này càng có
ý nghĩa trong việc phát triển theo hướng đa dạng hoá các tổ chức kiểm định. Việc đa
dạng hoá các tổ chức kiểm định cũng là hình thức phù hợp với đặc thù của lĩnh vực
đo lường trong bối cảnh toàn cầu hoá về đo lường hiện nay.
Tóm lại, việc đa dạng hoá tổ chức kiểm định nằm trong lộ trình để tiến tới xã
hội hoá hoạt động kiểm định trong thời gian tới.
1.3.3 Cơ sở lý luận ở nước ngoài về đa dạng hoá tổ chức kiểm định
a) Chính sách, chiến lược của Tổ chức Đo lường Pháp quyền Quốc tế (OIML)
Theo mục III.1, phần 5 của OIML-D1 (
1
), tạm dịch như sau:
"Cơ quan đo lường chính phủ điều khiển chính sách, đảm bảo việc thành lập
và duy trì cơ sở hạ tầng đo lường phù hợp, đề ra các quy định kỹ thuật và biện pháp
xử phạt. Các nhiệm vụ kỹ thuật có thể được kiểm soát bởi các cơ sở hoặc các viện
chuyên ngành ngoài hệ thống hành chính. Các cơ sở hoặc viện này có thể là chính
phủ, một phần chính phủ hoặc tư nhân. Họ sẽ hoạt động dưới sự uỷ quyền của chính
phủ quốc gia và báo cáo lên chính phủ quốc gia."
" Chính sách đo lường có thể phát triển các bộ phận nằm ngoài hệ thống
nhà nước để đảm nhận các nhiệm vụ kỹ thuật khi có thể. Ví dụ: các phòng hiệu

chuẩn được công nhận là các tổ chức phi chính phủ sẽ được phát triển để đảm nhận
các công việc hiệu chuẩn hoặc kiểm định phù hợp."
Theo mục 4, phần "xu hướng tư nhân hoá" của OIML-S2: 2003 (
2
) viết:
"Một sự thay đổi tác động tới vai trò của nhà nước trong đo lường pháp
quyền đó là: xu hướng hiện nay là tư nhân hoặc uỷ quyền công việc chuyên môn
trong đo lường pháp quyền cho tổ chức tư nhân."
"Đã có một số tổ chức tư nhân hiện đang đảm nhận những nhiệm vụ đo lường
pháp quyền quan trọng như là phê duyệt mẫu và kiểm định PTĐ."

1
OIML-D1: 2004- Elements for Law on Metrology (D viết tắt của Documents trong bộ tài liệu của OIML thể hiện
Chính sách, chiến lược về đo lường của Tổ chức Đo lường Pháp quyền Quốc tế, gồm từ D1 đến D28, trong đó D1 là
văn bản hướng dẫn xây dựng văn bản cao nhất về đo lường của mỗi quốc gia), OIML, 2004, p.18.
2
OIML-S2:2003 (phần "The trend towards privatization", mục 4, bài viết của tác giả Jean-Francois Magana, Giám đốc
Văn phòng Cân Đo quốc tế (BIPM - Bureau Internationale des Poids et Mesures)), OIML, 2003, p.24.

23
Như vậy, thông qua D1 và S2 của OIML, chúng ta thấy rõ rằng công việc quản
lý nằm trong hệ thống của nhà nước còn công việc kỹ thuật nên đưa ra ngoài nhà
nước. Nói cách khác là toàn bộ các công việc kỹ thuật cần thiết phải đa dạng hoá các
thành phần trong xã hội để họ có thể tham gia vào công việc kỹ thuật này. Do vậy,
việc đa dạng hoá tổ chức kiểm định sẽ có ý nghĩa lớn trong việc giải quyết các vấn đề
áp lực của cơ quan nhà nước, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và khoa học
và kỹ thuật.
b) Vận dụng và thực hành của các nước trên thế giới
Theo Đăng bạ về đo lường pháp quyền của Cộng đồng Châu Âu năm 2001 (
3

)
thì các nước Cộng đồng Châu Âu đều cho phép tư nhân tham gia vào hoạt động kiểm
định PTĐ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các thành phần trong xã hội đều có
quyền tham gia vào hoạt động kiểm định PTĐ.
Theo Đăng bạ về đo lường pháp quyền của khu vực Châu Á Thái Bình Dương
năm 2003 (
4
) thì các nước phát triển đều cho phép tư nhân tham gia vào hoạt động
kiểm định PTĐ, ví dụ như: Mỹ, Nhật, Một số nước đang phát triển cũng cho phép
tư nhân tham gia vào hoạt động kiểm định như: Singapore, Malaysia,… Các nước
kém phát triển thì đang củng cố hệ thống đo lường quốc gia nên chưa đề cập đến việc
tư nhân hoá.
Do vậy, các nước trên thế giới đã thực hiện việc cho phép các thành phần tư
nhân tham gia vào hoạt động kiểm định PTĐ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc huy
động tất cả các thành phần trong xã hội cùng tham gia chia sẻ hoạt động kiểm định
PTĐ tức là các nước này đã thực hiện việc đa dạng hoá các tổ chức kiểm định PTĐ.
Kết luận: Cùng với tầm quan trọng của hoạt động kiểm định PTĐ, nhu cầu cần
thiết trong các ngành các cấp về hoạt động kiểm định PTĐ và các yếu tố tác động
trong nước và ngoài nước dẫn đến việc thực hiện đa dạng hoá tổ chức kiểm định PTĐ
nhằm tăng cường hoạt động kiểm định PTĐ ở Việt Nam để thực hiện kiểm định
100% PTĐ có trong danh mục bắt buộc phải kiểm định và từng bước đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế – xã hội và khoa học & công nghệ là xu thế tất yếu và mang
tính khách quan.
1.4. Cơ chế ủy quyền và công nhận khả năng kiểm định phƣơng tiện đo
PLĐL 1999 đã xác định „„Kiểm định phương tiện đo là việc xác định và chứng
nhận đối với phương tiện đo đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quy định do tổ chức có thẩm
quyền hoặc được uỷ quyền kiểm định thực hiện‟‟. Tổ chức có thẩm quyền ở đây được
hiểu chính là các tổ chức do Nhà nước thiết lập nên, có nhiệm vụ thực hiện việc kiểm

3

Directory of legal metrology in The EU 2001, EU, 2001.
4
Directory of legal metrology in The Asia-Pacific region 2003, APLMF, 2003.

24
định phương tiện đo theo quy định của pháp luật. Các tổ chức này được đầu tư trang
thiết bị, nguồn nhân lực và các điều kiện về cơ sở vật chất-kỹ thuật khác đủ để thực
hiện nhiệm vụ kiểm định được giao. Để kiểm soát, đảm bảo chất lượng, tính trung
thực, khách quan trong hoạt động kiểm định của các tổ chức này, đo lường pháp quyền
nước ta đã thiết lập cơ chế công nhận khả năng kiểm định. Cùng với các tổ chức kiểm
định do Nhà nước thiết lập, là các tổ chức được uỷ quyền kiểm định, hình thành từ các
tổ chức hoạt động khoa học- kỹ thuật đo lường của các ngành, các cơ sở theo nguyên
tắc tự nguyện nhằm phát triển, mở rộng khả năng kiểm định, đáp ứng yêu cầu kiểm
định đối với những phương tiện đo đã quy định phải qua kiểm định. Việc xây dựng và
giao quyền kiểm định phương tiện đo cho những tổ chức này được thực hiện theo quy
định về uỷ quyền kiểm định phương tiện đo. Những vấn đề này đã được trình bày
trong Quy định về công nhận khả năng kiểm định và uỷ quyền kiểm định phương tiện
đo, ban hành theo Quyết định số 29/2002/QĐ-BKHCNMT ngày 17/5/2002 của Bộ
KHCNMT.
1.4.1 Quy định chung của Quy định công nhận khả năng kiểm định phương
tiện đo
Theo Quy định này, công nhận khả năng kiểm định được định nghĩa như sau:
“ 1.1.1 Công nhận khả năng kiểm định PTĐ là việc cơ quan quản lý nhà nước
về đo lường có thẩm quyền xem xét, đánh giá năng lực kiểm định của Chi cục Tiêu
chuẩn Đo lường Chất lượng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức
thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (sau đây gọi chung là tổ chức) để
công nhận cho tổ chức đó được kiểm định PTĐ.”
Việc xem xét để công nhận khả năng kiểm định được thực hiện như sau:
“1.1.2 Việc xem xét, đánh giá để công nhận khả năng kiểm định phải căn cứ
theo các điều kiện sau đây:

a) Có đủ chuẩn và phương tiện kiểm định, bảo đảm nhiệt độ, áp suất, độ ẩm
của phòng thí nghiệm theo yêu cầu quy định, tiện nghi và mặt bằng làm việc cần thiết
cho việc kiểm định theo yêu cầu của quy trình kiểm định hiện hành.
b) Chuẩn và phương tiện dùng để kiểm định phải được kiểm định hoặc hiệu
chuẩn;
c) Có kiểm định viên đo lường phù hợp được chứng nhận và cấp thẻ KĐV
1.4.2 Quy định chung của Quy định uỷ quyền kiểm định phương tiện đo
Uỷ quyền kiểm định được định nghĩa như sau:

×