Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Xác định điều kiện chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức R&D thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 111 trang )

I HC QUC GIA H NI
Tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn

B KHOA HC V CễNG NGH
Viện chiến l-ợc và chính sách khoa học và công nghệ



PHM TH THY NGA



xác định điều kiện chuyển đổi
sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các tổ chức R&D
thuộc viện khoa học và công nghệ Việt Nam



LUN VN THC S
CHUYấN NGNH: CHNH SCH KHOA HC V CễNG NGH
M S 60.34.70
KHểA 2005-2008




H Ni - 2008





1
I HC QUC GIA H NI
Tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn

B KHOA HC V CễNG NGH
Viện chiến l-ợc và chính sách khoa học và công nghệ



PHM TH THY NGA


xác định điều kiện chuyển đổi
sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các tổ chức R&D
thuộc viện khoa học và công nghệ Việt Nam



LUN VN THC S
CHUYấN NGNH: CHNH SCH KHOA HC V CễNG NGH
M S 60.34.70
KHểA 2005-2008


Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Phm Ngc Thanh




H Ni - 2008

2
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Lịch sử nghiên cứu 6
3. Khung lý thuyết của luận văn 6
4. Mục tiêu nghiên cứu 7
5. Phạm vi nghiên cứu 7
6. Mẫu khảo sát 7
7. Vấn đề khoa học 7
8. Giả thuyết 7
9. Phƣơng pháp nghiên cứu 7
10. Luận cứ 8
11. Cấu trúc luận văn 8
CHƢƠNG 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH
ĐIỀU KIỆN CHUYỂN ĐỔI SANG CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH
NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI 9
1.1. Những khái niệm cơ bản 9
1.1.1. Khái niệm về cơ chế, chính sách, chính sách KH&CN 9
1.1.2. Khái niệm về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm 11
1.3. Khái niệm về tổ chức R&D 11
1.1.4. Khái niệm về điều kiện 12
1.2. Một số vấn đề cơ bản về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các
tổ chức R&D. 13
1.2.1. Các mốc chính sách quan trọng đối với sự phát triển của
KH&CN và đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức KH&CN 13
1.2.2. Về tổ chức, biên chế 13

1.2.3. Về cơ sở vật chất, kỹ thuật 14
1.2.4. Về quản lý tài chính 15
1.2.5. Về quan hệ đối ngoại 18

3
1.3. Thực trạng của việc chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các tổ chức R&D trong nƣớc 18
1.4. Kinh nghiệm của một số nƣớc về vấn đề tự chủ của các tổ chức
R&D 23
Những thay đổi về chính sách KH&CN 27
Xu hướng mới của KH&CN 28
Nội dung tự chủ của tổ chức R&D thuộc Nhà nước 28
Kết luận chƣơng I 31
CHƢƠNG 2 - PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHUYỂN ĐỔI SANG
CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC
R&D TẠI VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM 33
2.1. Những đặc điểm chủ yếu của Viện KH&CN Việt Nam 33
2.2. Khảo sát điều kiện chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của một số tổ chức thuộc Viện KH&CN Việt Nam 40
2.1. Viện Khoa học Vật liệu 40
2.2. Viện Hoá học 46
2.3. Viện Khoa học Năng lượng 51
2.3. Đánh giá chung về các điều kiện chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm ở Viện KH&CN Việt Nam 55
2.3.1. Điều kiện bên trong tổ chức 57
2.3.2. Điều kiện bên ngoài tổ chức 70
Kết luận chƣơng II 99
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYÊN NGHỊ 102
1. Kết luận 102
2. Khuyến nghị 103

2.1. Đối với các chính sách của Nhà nước 103
2.2. Đối với Viện KH&CN Việt Nam 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO 106

4
CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

KH&CN: Khoa học và Công nghệ
KHCN: Khoa học Công nghệ
GS: Giáo sư
PGS: Phó giáo sư
PTNTĐ: Phòng thí nghiệm trọng điểm
TS: Tiến sĩ
TSKH: Tiến sĩ khoa học
ThS: Thạc sĩ
R&D: Nghiên cứu và triển khai
Viện KH&CN Việt Nam: Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Viện KHVN: Viện Khoa học Việt Nam
Viện KHVL: Viện Khoa học Vật liệu
Viện KHNL: Viện Khoa học Năng lượng


5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và phát triển bền vững đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã sớm xác
định vai trò to lớn của cách mạng khoa học và kỹ thuật. Trong thời gian qua, đặc
biệt là trong thời kỳ đổi mới, nhiều văn bản quan trọng về định hướng chiến lược
và cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ đã được ban hành: Nghị

quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (1996); Kết luận của Hội nghị Trung
ương 6 khoá IX (2002); Luật Khoa học và Công nghệ (2000); Chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 (2003); và nhiều chính
sách cụ thể khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý khoa học và
công nghệ.
Trong thời gian qua, nhờ sự chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước và đặc biệt
là sự cố gắng của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, hoạt động khoa học và
công nghệ đã có bước chuyển biến, đạt được một số tiến bộ và kết quả nhất định,
đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng
của đất nước.
Tuy nhiên, hoạt động khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay vẫn chưa
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là
trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế tri thức trên thế
giới. Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ ra những hạn chế cơ bản của hoạt động
khoa học và công nghệ hiện nay là: "Chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt
động của các ngành kinh tế, xã hội; chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã
nghiên cứu được; trình độ khoa học và công nghệ của ta còn thấp nhiều so với
các nước xung quanh; năng lực tạo ra công nghệ mới còn rất có hạn. Các cơ
quan nghiên cứu khoa học chậm được sắp xếp cho đồng bộ, còn phân tán, thiếu
phối hợp, do đó đạt hiệu quả thấp. Các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp,
các trường đại học chưa gắn kết với nhau. Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật thiếu tập trung và dứt điểm cho từng mục tiêu. Cán bộ khoa học và công
nghệ có trình độ cao tuy còn ít, song chưa được sử dụng tốt."
Chính vì điều này mà ngày 5 tháng 9 năm 2005 Chính phủ ra Nghị định số
115/2005/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa
học và công nghệ công lập. Đây là một bước đột phá rất lớn đối với các tổ chức
khoa học và công nghệ dưới góc nhìn của các nhà quản lý và bản thân các nhà
nghiên cứu khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, việc triển khai và thực hiện Nghị
định này vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn cãi đối với các tổ chức khoa học và công
nghệ. Để Nghị định này phát huy được hiệu quả và đi vào đời sống của cộng

đồng nghiên cứu khoa học và công nghệ chúng ta cần phải hiểu rõ và xác định rõ

6
cỏc iu kin cho vic chuyn i sang c ch t ch, t chu trỏch nhim ca
cỏc t chc khoa hc v cụng ngh ny. Chớnh vỡ vy m tỏc gi chn ti
Xỏc nh iu kin chuyn i sang c ch t ch, t chu trỏch nhim ca cỏc
t chc R&D thuc Vin Khoa hc v Cụng ngh Vit Nam gúp phn nõng cao
hiu qu hot ng ca cỏc t chc khoa hc v cụng ngh ca Vin Khoa hc
v Cụng ngh Vit Nam khi chuyn sang c ch mi.
2. Lch s nghiờn cu
Hin nay Vit Nam, ó cú mt s cụng trỡnh khoa hc nghiờn cu v vic
chuyn i sang c ch t ch, t chu trỏch nhim theo Ngh nh 115 mt s
n v trờn c nc, nhng cha cú ti no nghiờn cu v lnh vc ny Vin
Khoa hc v Cụng ngh Vit Nam.
3. Khung lý thuyt ca lun vn


Những yếu tố quốc tế - kinh nghiệm thế giới
Thực trạng của quá trình chuyển đổi ở Việt Nam
Những điều kiện
Cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm
Các tổ chức R&D thuộc Viện KH&CN
Viện KH&CN Việt Nam
Lĩnh vực KH&CN
Xã hội Việt Nam (những cơ sở KT-XH)
Các tổ chức R&D tự chủ, tự chịu trách nhiệm


7
4. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn được xác định như sau:
 Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết làm sáng tỏ khái niệm về cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của các tổ chức R&D.
 Xác định được điều kiện chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
theo Nghị định 115/2005/NĐ-CPcủa các tổ chức R&D thuộc Viện KH&CN
Việt Nam.
 Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện việc chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các tổ chức R&D thuộc Viện KH&CN Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu
 Xác định các điều kiện chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
 Hoạt động của các tổ chức R&D thuộc Viện KH&CN Việt Nam trong 3
năm gần đây.
6. Mẫu khảo sát
3 Viện nghiên cứu chuyên ngành của Viện Khoa học và Công nghệ Việt
Nam (Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hoá học, Viện Khoa học Năng lượng)
7. Vấn đề khoa học
Các tổ chức R&D cần có những điều kiện gì để chuyển sang cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm hoạt động có hiệu quả?.
8. Giả thuyết
Các tổ chức R&D khi chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo
Nghị định 115/2005/NĐ-CP cần có:
 Hành lang pháp lý và cơ chế phù hợp với đặc thù của các tổ chức R&D.
 Nguồn thu ổn định và tương đối lớn (có thể tự trang trải chi phí và có lãi) từ
các hoạt động nghiên cứu và triển khai và từ nguồn ngân sách của Nhà
nước.
 Nguồn tiềm lực đáp ứng yêu cầu thực tế.
9. Phƣơng pháp nghiên cứu
 Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
 Phương pháp phân tích và xử lý thông tin.


8
 Phương pháp chuyên gia.
10. Luận cứ
 Luận cứ lý thuyết:
 Thuyết chức năng, lý thuyết hệ thống
 Hệ thống pháp luật hiện hành: Luật KH&CN, Chính sách KH&CN, và
các văn bản dưới luật có liên quan,
 Hệ thống các khái niệm phạm trù có liên quan như: chính sách, chính sách
KH&CN, tổ chức R&D, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, v.v…
 Luận cứ thực tiễn:
 Các báo cáo phân tích chính sách KH&CN
 Các báo cáo về hiện trạng hoạt động của các tổ chức R&D thuộc Viện
KH&CN Việt Nam.
 Tài liệu kinh nghiệm chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của một số tổ chức khác ngoài Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
 Các đề án chuyển đổi của các tổ chức R&D của Viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam.
 Thông tin thu được từ phỏng vấn các chuyên gia.
11. Cấu trúc luận văn
Luận văn được bố cục như sau:
Mở đầu: trình bày lý do nghiên cứu, lịch sử nghiên cứu, mục tiêu nghiên
cứu, phạm vi nghiên cứu, mẫu khảo sát, vấn đề khoa học, giả thuyết,
phương pháp nghiên cứu, luận cứ khoa học, kết cấu luận văn.
Chương I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định điều kiện chuyển
đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức R&D.
Chương II. Xác định điều kiện chuyển đổi sang cơ chế tự chủ tự chịu trách
nhiệm của một số tổ chức R&D tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Kết luận và khuyến nghị
Tài liệu tham khảo




9
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH ĐIỀU KIỆN
CHUYỂN ĐỔI SANG CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM
CỦA CÁC TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI
1.1. Những khái niệm cơ bản (2) (11) (12) (13) (14) (55) (56) (68)
1.1.1. Khái niệm về cơ chế, chính sách, chính sách KH&CN
a. Khái niệm cơ chế
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học biên soạn và xuất bản
năm 2000 thì “cơ chế là cách thức mà theo đó một quá trình được thực hiện”.
Như vậy, khi nói đến trách nhiệm quản lý của bộ, ngành và của người đứng đầu
bộ, ngành là nói đến cách thức mà theo đó việc quản lý, điều hành của bộ, ngành
đó, của người đứng đầu thực hiện việc quản lý, điều hành, là mối quan hệ, điều
phối, phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan, giữa bộ, ngành đó với Chính phủ và
các cơ quan công quyền cũng như với người dân.
b. Khái niệm cơ chế quản lý
Có rất nhiều các tiếp cận khái niệm cơ chế quản lý. Cơ chế quản lý là cách
thức tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định. Theo TS
Lê Đăng Doanh, cơ chế quản lý và các quan hệ của Nhà nước về hoạt động
KH&CN được hiểu là cách thức Nhà nước tổ chức và tác động đến hoạt động
KH&CN nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi cả
nước.
c. Khái niệm chính sách
Từ “chính sách” được sử dụng hết sức phổ biến, từ những nội dung vĩ mô
như chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa đến tầm vi mô trong chính sách của
các công ty. Mỗi khi có vấn đề gì nổi cộm trong xã hội, công chúng trông chờ
vào những phản ứng của chính quyền. Những phản ứng đó khi định hình và thể
hiện một cách chính thức được gọi dưới cái tên “chính sách”. Chính sách cũng

có thể hàm chứa những tính toán, định hướng dài hơi của Chính phủ, mối quan
tâm đến một số nhóm đối tượng đặc biệt nào đó hay đơn thuần chỉ là sự áp đặt
mang “tính gia trưởng” của Nhà nước. Trong các mối quan hệ của các doanh
nghiệp, chính sách là các khuôn mẫu, phương thức gắn kết với mục tiêu và chiến
lược của doanh nghiệp, như đối tượng khách hàng ưu tiên, thanh toán, quản trị
nội bộ…
Có rất nhiều nhà nghiên cứu về chính sách đưa ra các định nghĩa khác nhau
về chính sách, chúng ta có thể liệt kê ra một số định nghĩa sau:

10
 Chính sách công là cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm (Thomas
R. Dye- 1984)
 Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một
nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề (James
Anderson 2003).
 Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một
nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các
mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin 1978).
 Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn
nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan Nhà nước
hay các quan chức Nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992).
 Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do Chính phủ tiến hành (Peter
Aucoin 1971).
 Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của Nhà nước có ảnh hưởng một
cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân (B. Guy Peter
1990).
 Theo Charles O. Jones (1984), chính sách công là một tập hợp các yếu tố gồm:
 Dự định (intentions): mong muốn của chính quyền;
 Mục tiêu (goals): dự định được tuyên bố và cụ thể hóa;
 Đề xuất (proposals): các cách thức để đạt được mục tiêu;

 Các quyết định hay các lựa chọn (decisions or choices);
 Hiệu lực (effects).
 Kraft và Furlong (2004) đưa ra một định nghĩa tổng hợp hơn. Theo đó, chính
sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền
để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục
tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy
định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình.
Trong phạm vi đề tài của luận văn tác giả sử dụng khái niệm chính sách
theo định nghĩa của PGS. Vũ Cao Đàm. Theo PGS, Chính sách là tập hợp biện
pháp được thể chế hoá của một chủ thể quản lý, tác động vào đối tượng quản
lý, nhằm thúc đẩy đối tượng quản lý thực hiện mục tiêu mà chủ thể quản lý
vạch ra.
d. Khái niệm chính sách KH&CN
Trong từ điển Bách khoa Việt Nam do Trung tâm biên soạn từ điển Bách
khoa Việt Nam xuất bản năm 1995 định nghĩa rằng “chính sách KH&CN là
chính sách, đường lối nghiên cứu KH&CN, kế thừa có chọn lọc các thành tựu

11
KH&CN của thế giới để một mặt đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội của
quốc gia, mặt khác chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ và biện pháp tăng cường tiềm
lực KH&CN của quốc gia nhằm chuẩn hợp với yêu cầu phát triển của thời đại.
Nội dung của chính sách KH&CN phải căn cứ vào: đặc điểm, hiện trạng và tiềm
lực KH&CN quốc gia, xác định phương hướng và nhiệm vụ phát triển khoa học
kỹ thuật, công nghệ trong suốt thời kỳ quy định của chính sách trong các ngành
cơ bản của nền kinh tế quốc dân, các vấn đề nghiên cứu khoa học kinh tế và
công nghệ ưu tiên”.
Theo tác giả, chính sách KH&CN là một bộ phận của chính sách, chính
sách này nhằm mục đích khuyến khích, thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự phát
triển khoa học và công nghệ của mỗi quốc gia.
1.1.2. Khái niệm về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm

Trong từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ xuất bản năm 1992 có định
nghĩa “tự chủ là tự điều hành, quản lý mọi công việc của mình”.
Tự chủ có tác dụng nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị R&D thuộc
Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước phải thể hiện vai trò chức năng quản lý vĩ mô
của mình. Tự chủ hướng tới không thể bỏ qua bản chất vẫn là tổ chức thuộc Nhà
nước.
Trong từ điển Việt do Viện Ngôn ngữ xuất bản năm 1992 có định nghĩa
“Trách nhiệm là sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng
đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả”.
Tự chịu trách nhiệm là tự thân chủ thể hành động phải chịu trách nhiệm đối
với lời nói, hành vi của mình.
1.1.3. Khái niệm về tổ chức R&D
Tổ chức là hệ thống hoạt động của hai hay nhiều người vì những quyền lợi
chung, nhằm một mục đích chung [60]. Do đó, tổ chức R&D là tập hợp người
được tổ chức lại, hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai vì những
quyền lợi chung và nhằm một mục đích chung của tổ chức.
Khi phân loại nghiên cứu khoa học theo chức năng chúng ta có nghiên cứu
và triển khai. Nghiên cứu và triển khai bao gồm: nghiên cứu cơ bản (khám phá
quy luật và tạo ra các lý thuyết, nghiên cứu ứng dụng (vận dụng lý thuyết để mô
tả, giải thích, dự báo và đề xuất các giải pháp và triển khai (chế tác vật mẫu - làm
Prototype; tạo công nghệ để sản xuất với Prototype - làm Pilot; sản xuất lọt nhỏ -
Serie 0 để khẳng định độ tin cậy).



12



1. Nghiên cứu cơ bản

2. Nghiên cứu ứng dụng
3. Nghiên cứu triển khai
Tạo vật mẫu (Prototype)
Tạo quy trình s/x vật mẫu
Sản xuất thử Sêrie N 0
Nghiên cứu cơ bản thuần tuý
Nghiên cứu cơ bản định h-ớng
Nghiên cứu tổng hợp
Nghiên cứu chuyên đề


1.1.4. Khỏi nim v iu kin
Trong t in Bỏch khoa Vit Nam do Trung tõm biờn son t in Bỏch
khoa Vit Nam xut bn nm 1995 nh ngha rng iu kin l khỏi nim ch
ra nhng gỡ m nu khụng cú thỡ i tng khụng th tn ti c.
Bn thõn i tng th hin ra nh mt cỏi gỡ cú iu kin, cũn iu kin li
th hin ra nh mt b phn ca th gii vi tớnh nhiu mu v ca nú. Khỏc vi
nguyờn nhõn l cỏi trc tip sn sinh ra mt hin tng, mt s vt, mt quỏ
trỡnh nht nh, iu kin l nhng gỡ cn thit cho s tn ti v phỏt trin ca
i tng. Con ngi, trong quỏ trỡnh u tranh ci to t nhiờn, ó tỡm tũi, sỏng
to ra nhng iu kin thun li cho cuc sng ca mỡnh v phn u hn ch,
xoỏ b nhng iu kin bt li. Khi i tng bin i thỡ cỏc iu kin cng
chu s tỏc ng ca i tng mi, do ú, iu kin cng cú s bin i theo,
v chớnh nhng iu kin cng li tỏc ng ln nhau trong quỏ trỡnh vn ng v
bin i i tng.
Túm li, iu kin l cỏi cn phi cú cho mt cỏi khỏc cú th cú hoc cú
th xy ra. iu kin cn l iu kin m nú khụng c thc hin thỡ iu
khng nh ó cho chc chn l khụng ỳng. iu kin l iu kin m t ú
cú th suy ra iu khng nh ó cho.


13
1.2. Một số vấn đề cơ bản về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ
chức R&D. (38) (39) (40)
1.2.1. Các mốc chính sách quan trọng đối với sự phát triển của KH&CN và
đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức KH&CN
1. Chủ trương áp dụng chế độ ký kết hợp đồng kinh tế trong nghiên cứu khoa
học và triển khai kỹ thuật (Quyết định 175-CP ngày 29/4/1981).
2. Cho phép cán bộ KH&CN được làm kiêm nhiệm thêm công tác tại cơ quan
khác (Quyết định 161-CT ngày 13/6/1983).
3. Quy định các cơ quan nghiên cứu - triển khai (NC-TK) được tổ chức sản xuất
các sản phẩm là kết quả nghiên cứu của mình mà chưa có cơ sở sản xuất nào
đảm nhiệm (Quyết định 51-HĐBT ngày 17/5/1983).
4. Chủ trương cho phép các cơ sở nghiên cứu chủ động thiết lập và mở rộng mọi
hình thức liên doanh, liên kết để ứng dụng các thành tựu KH&KT vào sản
xuất và đời sống (Quyết định số 134-HĐBT ngày 31/8/1987).
5. Quy định các tổ chức NC-TK có quyền lập ra các tổ chức kinh doanh những
ngành nghề và mặt hàng mà Nhà nước không cấm (Quyết định 268-CT ngày
30/7/1990, Nghị định 35-HĐBT ngày 28/1/1992, Quyết định 68/1998/QĐ-
TTg ngày 27/3/1998).
6. Khuyến khích thành lập các cơ quan KH&CN thuộc mọi thành phần kinh tế
(chỉ thị 199-CT ngày 25/6/1988, Nghị định 35-HĐBT ngày 28/1/1992).
7. Các chủ trương chuyển viện nghiên cứu vào Công ty (Chỉ thị 199-CT ngày
25/6/1988, Quyết định 324-CT ngày 11/9/1992, Quyết định 782/TTg ngày
24/10/1996),
8. Chuyển các viện NC-TK sang hoạt động theo cơ chế tự trang trải (Quyết định
782/TTg ngày 24/10/1996),
9. Sáp nhập và giải thể các viện NC-TK của Nhà nước (Quyết định 782/TTg).
1.2.2. Về tổ chức, biên chế
a. Về tổ chức
Thủ trưởng các tổ chức KH&CN được quyền:

1. Quyết định việc sắp xếp, điều chỉnh tổ chức bộ máy của đơn vị; thành lập, sáp
nhập, giải thể và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quy chế hoạt
động của các bộ phận, các tổ chức trực thuộc.
2. Quyết định việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cho từ chức và miễn nhiệm cấp
trưởng, cấp phó các bộ phận, tổ chức trực thuộc.

14
3. Đề xuất nhân sự và trình lãnh đạo cơ quan chủ quản cấp trên quyết định bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm cấp phó của đơn vị.
b. Về biên chế
Về biên chế và tuyển dụng viên chức, thủ trưởng các tổ chức khoa học và
công nghệ được quyền:
1. Quyết định tổng số biên chế hàng năm của đơn vị căn cứ vào nhu cầu cán bộ
và khả năng tài chính của đơn vị.
2. Quyết định việc tuyển dụng viên chức theo hình thức thi tuyển hoặc xét
tuyển; ký hợp đồng làm việc với những người được tuyển dụng.
3. Ký hợp đồng làm việc với những người đã được tuyển dụng vào biên chế
trước ngày Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của
Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong
các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước có hiệu lực thi hành.
4. Ký hợp đồng lao động để thực hiện những công việc không cần thiết bố trí
biên chế thường xuyên.
Trong việc sử dụng cán bộ, viên chức, thủ trưởng các tổ chức KH&CN
được quyền:
1. Quyết định việc sắp xếp, bố trí sử dụng cán bộ, viên chức phù hợp với năng
lực và trình độ chuyên môn của từng người.
2. Quyết định việc điều động, biệt phái, nghỉ hưu, thôi việc, chấm dứt hợp đồng
làm việc, hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật.
3. Quyết định việc xếp lương đối với cán bộ, viên chức được tuyển dụng vào
làm việc tại đơn vị; quyết định việc nâng bậc lương đúng thời hạn, trước thời

hạn và vượt bậc trong cùng ngạch; quyết định bổ nhiệm vào ngạch viên chức,
chuyển ngạch viên chức từ ngạch nghiên cứu viên chính và tương đương trở
xuống.
4. Xem xét, bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo đối với cán bộ, viên chức sau khi
hết hạn tập sự, được ký hợp đồng làm việc không xác định thời hạn, có thời
gian làm việc từ 03 năm trở lên và có đủ các điều kiện theo yêu cầu.
5. Quyết định việc khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, viên chức thuộc quyền
quản lý theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Về cơ sở vật chất, kỹ thuật
Tổ chức KH&CN được dùng giá trị quyền sử dụng đất, tài sản được giao sử
dụng để góp vốn liên doanh theo quy định của pháp luật; được dùng tài sản hình
thành từ nguồn vốn vay để thế chấp theo quy định.

15
Sau khi có quyết định giao tài sản của cơ quan có thẩm quyền, Thủ trưởng
đơn vị phải có phương án sử dụng tài sản và tính hao mòn, tính khấu hao tài sản
cố định được giao:
 Phần tài sản được giao sử dụng cho sản xuất kinh doanh được tính vào vốn
cố định của đơn vị và phải trích khấu hao theo quy định đối với doanh
nghiệp nhà nước, tiền trích khấu hao được để lại tái đầu tư cơ sở vật chất
của đơn vị.
 Phần tài sản được giao để nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào
tạo thì phải lập phương án tính hao mòn (bao gồm hao mòn hữu hình và hao
mòn vô hình) làm cơ sở cho việc xác định giá trị tài sản. Trường hợp cho
thuê tài sản này theo quy định của pháp luật để làm dịch vụ phải được sự
đồng ý của Thủ trưởng đơn vị và phải trích nộp ít nhất 30% số tiền thu dịch
vụ cho thuê theo hợp đồng vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của đơn
vị, sau khi trừ chi phí khấu hao tài sản theo quy định đối với doanh nghiệp
nhà nước trong thời gian cho thuê.
 Trong mọi trường hợp, thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm quản lý, bảo

toàn tổng giá trị và phát triển tài sản của Nhà nước giao cho đơn vị. Khi kết
thúc nhiệm kỳ quản lý, nghỉ chế độ hoặc thuyên chuyển công tác, Thủ
trưởng đơn vị phải bàn giao đầy đủ tài sản của đơn vị cho người kế nhiệm.
Những tài sản không còn giá trị sử dụng hoặc không còn nhu cầu sử dụng,
đơn vị được quyền làm thủ tục thanh lý hoặc chuyển nhượng theo trình tự và thủ
tục quy định của pháp luật, số tiền thu được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt
động sự nghiệp của đơn vị.
Đối với những tài sản sử dụng vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tổ chức
KH&CN có thể khấu hao nhanh trong trường hợp hoạt động có hiệu quả và mức
khấu hao không quá 2 lần mức khấu hao theo quy định của Nhà nước, được chủ
động quyết định thanh lý.
Số tiền thu từ trích khấu hao, thanh lý đối với tài sản thuộc nguồn ngân sách
nhà nước, nguồn tự có được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của
đơn vị.
Số tiền thu từ trích khấu hao, thanh lý đối với tài sản thuộc nguồn vốn vay
được dùng để trả vốn và lãi vay, nếu còn dư được dùng để bổ sung vào Quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp của đơn vị.
1.2.4. Về quản lý tài chính
a. Nguồn kinh phí:
Phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ và hoạt động, tổ chức khoa học và công
nghệ có thể có các nguồn kinh phí sau đây:

16
1. Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp, bao gồm:
 Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Nhà nước do các
cơ quan nhà nước giao, đặt hàng trực tiếp hoặc thông qua tuyển chọn, đấu thầu
và được cấp theo phương thức khoán trên cơ sở hợp đồng thực hiện nhiệm vụ
khoa học và công nghệ giữa cơ quan nhà nước và tổ chức khoa học và công
nghệ.
 Kinh phí hoạt động thường xuyên.

Việc cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho các tổ chức khoa học và
công nghệ được quy định như sau:
 Đối với các tổ chức khoa học và công nghệ quy định tại khoản 2 Điều 4
Nghị định này, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tiếp tục bảo đảm
kinh phí hoạt động thường xuyên trong thời gian chuẩn bị chuyển đổi tổ
chức và hoạt động (tối đa đến tháng 12 năm 2009) nếu các tổ chức này đã
có đề án chuyển đổi tổ chức và hoạt động được phê duyệt trong năm 2006.
 Đối với tổ chức khoa học và công nghệ quy định tại khoản 3 Điều 4 Nghị
định này, kinh phí hoạt động thường xuyên hàng năm được cấp theo
phương thức khoán tương ứng với chức năng, nhiệm vụ được giao.
 Vốn đầu tư xây dựng cơ bản; vốn đối ứng dự án; kinh phí mua sắm trang thiết
bị và sửa chữa lớn tài sản cố định.
 Các nguồn kinh phí khác (nếu có).
Nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp, bao gồm: thu từ phí và lệ phí theo
quy định; thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ; thu từ hợp đồng nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ, hợp đồng chuyển giao công nghệ; thu từ hoạt động
sản xuất, kinh doanh; thu sự nghiệp khác (nếu có).
Nguồn kinh phí khác của tổ chức khoa học và công nghệ, bao gồm: vốn
khấu hao tài sản cố định; thu thanh lý tài sản được để lại theo quy định; vốn huy
động của các cá nhân, vốn vay các tổ chức tín dụng; vốn tài trợ, viện trợ, quà
biếu, tặng của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước; các nguồn kinh phí hợp
pháp khác theo quy định của pháp luật (nếu có).
b. Sử dụng kinh phí:
1. Chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN:
Chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước được áp
dụng chế độ khoán chi quy định tại một văn bản khác do Liên Bộ Tài chính và
Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành.
2. Chi tiền lương và thu nhập tăng thêm:

17

 Tổ chức KH&CN phải đảm bảo chi trả tiền lương và các khoản trích theo
lương cho cán bộ, viên chức và người lao động tối thiểu bằng mức quy định
của Nhà nước về ngạch lương, bậc lương và phụ cấp chức vụ; tuỳ thuộc vào
kết quả hoạt động tài chính trong năm, mức chi trả tiền lương thực tế có thể
cao hơn mức quy định của Nhà nước.
Khi Nhà nước điều chỉnh mức lương tối thiểu, ngạch, bậc lương và các
khoản trích theo lương, tổ chức KH&CN phải sử dụng các nguồn kinh phí của
đơn vị để trả lương và các khoản trích theo lương cho cán bộ, viên chức và người
lao động của đơn vị theo chính sách của Nhà nước. Đối với các tổ chức nghiên
cứu khoa học hoạt động nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược chính sách
phục vụ quản lý Nhà nước, sau khi đã sử dụng các nguồn kinh phí của đơn vị để
trả lương và các khoản trích theo lương cho cán bộ, viên chức và người lao động
của đơn vị theo chính sách của Nhà nước mà thiếu nguồn, thì được ngân sách
nhà nước cấp bổ sung phần kinh phí còn thiếu.
 Chi thu nhập tăng thêm ngoài mức quy định trên: Trên cơ sở số dư kinh phí
còn lại sau khi đã trừ các khoản chi phí và trích lập các Quỹ theo quy định, tổ
chức KH&CN tự quyết định việc chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, viên
chức và người lao động theo quy chế chi tiêu nội bộ.
3. Trích lập các Quỹ:
Hàng năm, sau khi trang trải tất cả các khoản chi phí hợp lý, thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo qui định, kể cả nộp thuế (nếu có) phần chênh
lệch thu chi còn lại, tổ chức KH&CN được trích lập các Quỹ như sau:
 Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: tối thiểu là 30% tổng số tiền chênh lệch
thu lớn hơn chi. Đơn vị có quyền quyết định sử dụng Quỹ phát triển hoạt động
sự nghiệp để đầu tư phát triển nâng cao hoạt động sự nghiệp, bổ sung vốn đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy móc, trang thiết bị, phương tiện làm
việc, chi nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đầu tư liên doanh,
liên kết, trợ giúp hoạt động đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho
đơn vị.
 Quỹ dự phòng ổn định thu nhập được trích lập theo khả năng tài chính của tổ

chức KH&CN và được chi để bù đắp thu nhập cho cán bộ viên chức trong các
trường hợp: khi nguồn thu của đơn vị bị giảm sút, khi Nhà nước thay đổi
chính sách tiền lương, hỗ trợ chế độ thôi việc hoặc tìm việc mới cho người lao
động dôi dư.
 Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi: Tối đa không quá 03 tháng lương và thu
nhập tăng thêm bình quân trong năm cho cả hai quỹ; Quỹ khen thưởng được
sử dụng để thưởng định kỳ, đột xuất cho các tập thể và cá nhân trong và ngoài
đơn vị theo hiệu quả công việc và thành tích đóng góp cho hoạt động của đơn
vị; Quỹ phúc lợi được sử dụng để xây dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi,

18
chi cho các hoạt động phúc lợi tập thể, trợ cấp khó khăn đột xuất, chi thêm
cho người lao động nghỉ hưu, nghỉ mất sức, nghỉ do chấm dứt hợp đồng.
Thủ trưởng đơn vị căn cứ vào các quy định trên và khả năng tài chính của
đơn vị, quyết định mức cụ thể trích lập và sử dụng các quỹ theo quy chế chi tiêu
nội bộ.
4. Chi thực hiện các hoạt động khác:
 Đối với các khoản kinh phí do ngân sách nhà nước cấp để đầu tư xây dựng cơ
bản, vốn đối ứng dự án, kinh phí dùng mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài
sản cố định và kinh phí do ngân sách nhà nước cấp để thực hiện các nhiệm vụ
do cơ quan nhà nước giao (trừ các nhiệm vụ KH&CN như quy định tại điểm a,
khoản 1, Điều 7 của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP), tổ chức KH&CN phải sử
dụng đúng mục đích, tuân thủ các quy định của Nhà nước về tiêu chuẩn, định
mức, nội dung chi và chế độ thanh quyết toán.
 Ngoài các khoản chi theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và tại điểm a, khoản 4,
Điều 8 của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP, các khoản chi khác do tổ chức
KH&CN tự quyết định và hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Mọi khoản chi của tổ chức KH&CN đảm bảo công khai, minh bạch, đúng
mục đích, có hiệu quả. Cán bộ, viên chức và người lao động trong đơn vị đều có
quyền và trách nhiệm giám sát việc chi tiêu trong đơn vị theo quy chế chi tiêu

nội bộ và quy chế dân chủ cơ quan. Tổ chức KH&CN phải chịu sự kiểm tra và
có nghĩa vụ cung cấp thông tin, giải trình với các cơ quan có thẩm quyền về hoạt
động của đơn vị.
1.2.5. Về quan hệ đối ngoại
Phân cấp mạnh hơn nữa cho các tổ chức khoa học và công nghệ trong việc
cử cán bộ khoa học và công nghệ ra nước ngoài, thuê chuyên gia nước ngoài
thực hiện nghiên cứu, đào tạo, tư vấn khoa học và công nghệ và đảm nhiệm chức
vụ quản lý trong các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc các lĩnh vực do Nhà
nước quy định.
1.3. Thực trạng của việc chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các tổ chức R&D trong nƣớc (6) (9) (19) (20) (21) (24) (25) (26) (27)
Nghị định 115 đã được ví như “khoán 10” trong khoa học hay là “bước đột
phá” trong công tác tổ chức hoạt động của các đơn vị khoa học công nghệ. Theo
phát biểu của thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân tại Hội nghị sơ
kết tình hình thực hiện nghị định này, mục tiêu của nghị định là “trao cho nhà
khoa học quyền tự chủ cao nhất thể hiện bằng quyền tự chủ về tổ chức, nhân sự

19
và tài chính”. Nhưng trên thực tế, vẫn còn một số đơn vị "ngại" tự chủ, mà lý do
không hẳn là họ không muốn xa bầu sữa bao cấp.
Qua hơn hai năm thực hiện, có gần 50% đơn vị trong tổng số 659 tổ chức
khoa học công lập có đề án. Cụ thể, theo Báo cáo tổng kết của Ban chỉ đạo thực
hiện liên bộ, có 161 đơn vị có đề án được phê duyệt, 142 đơn vị có lập đề án.
Bên cạnh đó, việc rà soát, đánh giá tổ chức nghiên cứu cơ bản hoặc nghiên cứu
chính sách đã xác định 123 tổ chức tiếp tục được hưởng ngân sách thường xuyên
để hoạt động. Trong số 123 tổ chức này, một số bộ và địa phương đề nghị rất sát,
một số chưa sát. Báo cáo nêu tên một số đơn vị còn chậm triển khai như Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Viện khoa học xã hội Việt Nam.
Ở các địa phương, nguyên nhân của việc chậm trễ, theo đánh giá của ban
chỉ đạo liên bộ, là lãnh đạo địa phương chưa chỉ đạo quyết liệt. Sự phối hợp giữa

các sở, ban ngành chưa chặt chẽ, trong đó vai trò đầu mối của Sở khoa học và
Công nghệ chưa được thể hiện rõ. Một nguyên nhân gây chậm trễ khác là các địa
phương không nắm được thông tin, nên phê duyệt không đúng tinh thần của nghị
định. Cá biệt, có 6 địa phương đã phê duyệt theo tinh thần của nghị định 43 dành
cho các đơn vị thuộc hai khối y tế và đào tạo.
Các tổ chức KH&CN thuộc Bộ, ngành có phần tích cực hơn là vì những nơi
này có sẵn nguồn nhân lực có kiến thức, kinh nghiệm và tay nghề, có cơ sở hạ
tầng có thể bắt tay vào sản xuất cho ra ngay sản phẩm, có vốn quay vòng. Tuy
nhiên, không phải lãnh đạo tổ chức KH&CN thuộc Bộ, ngành nào cũng hồ hởi
đón nhận Nghị định 115 như một thời cơ ngàn vàng để “lột xác”. Bên cạnh
những tổ chức sẵn sàng chuyển đổi sang doanh nghiệp KH&CN như Viện Máy
và Dụng cụ công nghiệp (IMI), Viện Vật lý ứng dụng và Thiết bị khoa học thì
cũng có những nơi vẫn còn tiến thoái lưỡng nan vì không biết sẽ ra sao sau khi
chuyển đổi. Chẳng hạn, Bộ GD&ĐT có khoảng 194 viện, trung tâm KH&CN
nhưng mới chỉ báo cáo có 7 tổ chức KH&CN và hơn nữa, lại xin đề nghị áp
dụng cơ chế tự chủ của Nghị định 43. Viện KHXH Việt Nam và Bộ Y tế có một
lượng lớn các viện nghiên cứu cơ bản nhưng cũng chỉ trong giai đoạn khởi
động. Hỏi sao lại chậm trễ như vậy, thì một số lãnh đạo Viện KHXH Việt Nam
đưa ra lý do: “Chức năng của Viện là nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược,
chính sách phục vụ quản lý Nhà nước”.
Việc thực hiện nghị định 115 ở các địa phương, theo báo cáo của Ban chỉ
đạo liên bộ, sẽ đề nghị cho kéo dài thời gian chuẩn bị cho đến hết 2011. Nguyên
nhânm là nghị định 132 về tinh giản biên chế, có liên quan mật thiết tới 115,
cũng kéo dài tới 2011.
Trong 4 năm trở lại đây, Bộ Khoa học và Công nghệ đã cùng các đơn vị
hữu quan xây dựng 4 bộ luật quan trong như Sở hữu trí tuệ, chuyển giao công
nghệ, năng lượng nguyên tử Sắp tới, theo thứ trưởng Nguyễn Quân, sẽ xây

20
dựng luật về Công nghệ cao. Ông Quân cho rằng: “Nền tảng pháp lý cho

KH&CN đã được hoàn thành”.
Thế nhưng, tòa nhà pháp lý cho hoạt động KH&CN không thể hình thành
nếu chỉ có nền móng mà thiếu vắng các khung sườn. Đó là chưa kể tới việc ban
hành không đồng bộ khiến cho ngôi nhà pháp lý đó không bảo đảm cho hoạt
động chuyển đổi được thông suốt.
Một số ý kiến nêu ra tại hội nghị cho rằng, việc ban hành chính sách không
đồng bộ đã gây cản trở cho hoạt động chuyển đổi. Trường hợp của Trung tâm
Ứng dụng Hạt nhân trong công nghiệp vốn trực thuộc Viện Hạt nhân Đà Lạt, sau
chuyển về trực thuộc bộ là một ví dụ. Trung tâm này đã nhận được quyết định
chuyển đổi theo nghị định 115, nhưng không đăng ký hoạt động kinh doanh
được bởi trong quyết định phê duyệt đề án không nói rõ! Theo ông Trần Văn
Tùng, có trường hợp sở kế hoạch đầu tư không biết công văn 3831 của Bộ Kế
hoạch Đầu tư về việc cho phép tổ chức khoa học công nghệ sau khi chuyển đổi
sẽ được đăng ký hoạt động kinh doanh sản xuất.
Bên cạnh sự không đồng bộ về văn bản hướng dẫn thi hành nghị định, văn
bản ban hành không quy định rõ ràng khiến cho địa phương hay đơn vị chức
năng có thể hiểu theo nhiều cách, gây khó cho các tổ chức khoa học công nghệ
chuyển đổi. Trung tâm Ứng dụng Hạt nhân nêu trên đã không được Cục thuế
Lâm Đồng cho miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo tinh thần của Nghị
định 115. Nguyên do là đơn vị này chuyển từ viện về trực thuộc bộ, theo giải
thích của cục thuế nghĩa là thành lập mới! Một số cơ quan thuế ở địa phương đòi
hỏi phải có văn bản hướng dẫn về ưu đãi thuế mới áp dụng. Ông Trần Văn Dũng,
giám đốc Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3 (Quatest 3) cho
biết, đơn vị ông không được hưởng ưu đãi thuế dù đã chuyển đổi theo Nghị định
115 vì lý do trên.
Một số ý kiến nêu, có những vướng mắc khiến cho "tính tự chủ tài chính
không có nhiều ý nghĩa là văn bản hướng dẫn không bao quát". Điển hình như
Trung tâm Nghiên cứu Gia cầm Thủy Phương muốn góp vốn bằng quyền sử
dụng đất để thành lập hai công ty cổ phần về phát triển giống và chế biến thịt đà
điểu phải đợi Ban chỉ đạo liên bộ có công văn ủng hộ việc làm này. Sau đó, cơ

quan chủ quản mới có văn bản hướng dẫn việc giao tài sản góp vốn.
Nếu như trở ngại chính từ khâu ban hành chính sách, văn bản là yếu tố bên
ngoài cản trở quá trình chuyển đổi, thì bản thân các tổ chức khoa học, công nghệ
cũng có bị cản trở bởi sức ì của bộ máy. Lý thuyết quản trị cho rằng, bản thân cơ
cấu tổ chức nào sau một thời gian cũng có độ trễ quán tính và sức ỳ bộ máy.
Điều này thể hiện rõ khi thực hiện thay đổi cơ cấu.

21
Kinh nghiệm từ các đơn vị chuyển đổi và các cơ quan quản lý ở địa phương
cho thấy, ở các tổ chức vẫn còn tâm lý e ngại. Việc một số đơn vị cố gắng được
chuyển đổi theo Nghị định 43, chứ không theo 115 là một minh chứng. Các ý
kiến phát biểu tại hội nghị đều nhấn mạnh đến nhu cầu cần được đầu tư trang,
thiết bị.
Ngoài ra, việc chuyển đổi các tổ chức khoa học, công nghệ theo mô hình tự
chủ không chỉ là chuyện thay đổi cơ cấu, tổ chức, trao quyền tự chủ, mà cốt yếu
là sự thay đổi về nhận thức của các đơn vị này. Điều này không thể nào đạt được
nếu không có sự xác định đúng về tầm nhìn, sứ mệnh của tổ chức, để từ đó xây
dựng chiến lược phát triển. Ngoại trừ Quatest 3 có kinh nghiệm tự hạch toán từ
năm 2002, nên khi thực hiện theo Nghị định 115, đơn vị này khá thuận lợi khi
xây dựng mô hình quản trị doanh nghiệp. Các đơn vị khác không ít thì nhiều vẫn
tỏ ra lúng túng.
Đất nước chúng ta ở trong cơ chế bao cấp quá lâu, gây một tâm lý trong
người lao động: Phải có biên chế nhà nước mới an tâm! Nay với việc chuyển đổi
này, băn khoăn trước tiên của hầu hết nhà khoa học là họ có còn trong biên chế
không?
Nội dung này cũng được GS-TS Ngô Văn Lệ, nguyên hiệu trưởng Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn đặt ra: Tổ chức có quyền cho cán bộ NCKH
không làm được việc nghỉ không? Đối với người lao động, việc áp dụng Nghị
định 115 có tác động tâm lý tương tự như khi tiến hành cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước. Họ lại suy nghĩ hình như mình không còn làm việc trong khu

vực nhà nước (điều mà họ phấn đấu bao nhiêu năm mới có). Đây là vấn đề lớn
của người lao động Việt Nam, đòi hỏi cũng cần được tính đến trong chủ trương
và chế độ chính sách đối với người lao động, đặc biệt họ là nhà khoa học cơ hữu,
cán bộ nhân viên quản lý.
Theo báo cáo, đến nay vẫn còn có lãnh đạo các tổ chức KH&CN nhận thức
chưa đúng và chưa đủ về Nghị định 115, không nhận thấy thực chất của Nghị
định 115 là rà soát, thay đổi cách thức tổ chức hoạt động sao cho hiệu quả. Tổ
chức KH&CN tự điều chỉnh cơ cấu, xác định mức độ đầu tư đúng mức, và “loại
bỏ” những bộ phận không cần thiết, tránh tình trạng “đánh trống ghi tên”, “ăn
không ngồi rồi”. Tuy Bộ KH&CN và các Bộ ngành liên quan đã có nhiều cố
gắng, nhưng do một khối lượng lớn các văn bản hướng dẫn và cần thời gian xin
ý kiến tham khảo nên việc ban hành các văn bản hướng dẫn còn chậm, chưa kịp
thời. Do vậy, khi tư tưởng người quản lý các tổ chức KH&CN chưa thông, thì
Nghị định 115 vẫn trở thành một thách thức lớn.
Ngoài nguyên nhân chủ quan thì cũng tồn tại những lý do “bất khả kháng”,
đó là các Bộ và một số Viện nghiên cứu như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, Viện KH&CN Việt Nam gồm một số lượng lớn các tổ chức KH&CN

22
trực thuộc. Những nơi này cần có thời gian để phân loại, sắp xếp các tổ chức
KH&CN, thẩm định các đề án chuyển đổi. Tuy nhiên, không vì lý do này mà
biện minh cho sự trì trệ.
Ở địa phương, một số lãnh đạo trung tâm KH&CN trở nên lo ngại khi phải
đối mặt với cơ chế tự chủ, tự trang trải. Tổ chức KH&CN chủ yếu là các Trung
tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến lâm với quy
mô nhỏ, cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu máy móc. TS. Nguyễn Văn Liễu - Bộ
KH&CN, cho biết, “Nhiều tỉnh, Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN còn chưa
có trụ sở, chưa có phòng thí nghiệm và thiếu các chính sách đồng bộ về cơ chế
quản lý”. Bên cạnh đó là việc “cháy” nhân lực, nếu có thì trình độ còn hạn chế,
thiếu kỹ năng chuyên môn và kinh nghiệm bươn chải thị trường. TS. Hồ Ngọc

Luật, Vụ KHTN-CN-MT, Ban Tuyên giáo Trung ương, nhấn mạnh, “Ở các địa
phương thiếu các cán bộ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật theo phương thức “cầm tay
chỉ việc” về đến từng hộ nông dân”. Mặt khác, nguồn tài chính yếu, cơ chế tài
chính không rõ ràng và ổn định nên các tổ chức KH&CN địa phương còn lúng
túng trong việc chọn hướng ưu tiên đầu tư. Hơn nữa, tuy các Sở, Trung tâm
KH&CN cần tiền nhưng lại không xây dựng được đề án do thiếu cơ sở vật chất
và nhân lực.
Việc nhiều địa phương còn lúng túng trong việc xác định đối tượng điều
chỉnh của Nghị định 115 và Nghị định 43, là do công tác tuyên truyền của Bộ
KH&CN và các Bộ, ngành về Nghị định 115 còn nhiều bất cập. Mặt khác, Các
cấp quản lý địa phương (trong đó có lãnh đạo nhiều sở KH&CN) còn xem nhẹ
vai trò của công tác thông tin KH&CN.
Không thể bỏ qua một nguyên nhân nữa khiến tiến độ thực hiện Nghị định
115 ở các địa phương chậm là do nhu cầu ứng dụng các tiến bộ KH&CN thấp,
thị trường KH&CN ở các địa phương còn manh mún, dịch vụ KH&CN chưa
định hình rõ nét. Nhiều địa phương thậm chí chưa hình thành thị trường
KH&CN. Nhiều nơi, sau khi nhận được quyết định chuyển đổi, vẫn “phớt lờ” chỉ
đạo của cấp trên.
Đến cuối 12/2009, tất cả các tổ chức KH&CN công lập thuộc đối tượng cần
chuyển đổi sẽ phải chuyển đổi hoặc thành tổ chức KH&CN tự trang trải kinh
phí, hoặc thành doanh nghiệp KH&CN, đối với nhiều tổ chức KH&CN thì
“gấp” quá. Những tổ chức KH&CN quy mô lớn thuộc Bộ, ngành với cơ cấu
phức tạp gồm nhiều viện nghiên cứu như Bộ Y tế, Viện KH&CN Việt Nam,
Viện KHXH Việt Nam, và cả những trung tâm KH&CN địa phương mới thành
lập cần phải có thêm thời gian để chuẩn bị, phân loại tiến hành chuyển đổi. Tính
đến nay có 20 Bộ, ngành, địa phương kiến nghị Chính phủ cho phép kéo dài thời
gian phê duyệt đề án chuyển đổi. Chính vì vậy, sau khi xem xét, Bộ KH&CN
kiến nghị Chính phủ cho phép lùi thời gian phê duyệt đề án chuyển đổi các tổ

23

chức KH&CN công lập và thời gian chuẩn bị chuyển đổi (đối với các tổ chức
KH&CN địa phương) đến hết năm 2011.
Bên cạnh việc gia hạn thời gian, để các tổ chức KH&CN địa phương có thể
tiến hành việc chuyển đổi, thì ngay trong giai đoạn chuẩn bị, các tỉnh cần phải
tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo bổ sung và nâng cao nguồn nhân lực.
Đồng thời, các sở KH&CN cần phối hợp với các sở, ngành liên quan xây dựng
đề án quy hoạch, chuyển đổi tổng thể, có lộ trình hợp lý. Không vì các tổ chức
KH&CN còn nhỏ lẻ, manh mún mà chần chừ trong hành động.
1.4. Kinh nghiệm của một số nƣớc về vấn đề tự chủ của các tổ chức R&D (7)
(10) (15) (19) (28) (29) (30) (31) (32) (33) (59)
Sự tồn tại các tổ chức R&D Nhà nước là hiện tượng phổ biến trên thế giới.
Mặc dù thuộc về sở hữu Nhà nước, nhưng các tổ chức này thường mang tính tự
chủ khá cao. Ðồng thời, người ta cũng còn thấy xuất hiện những sắc thái đa
dạng, phong phú về tính tự chủ của các tổ chức R&D Nhà nước.
Ở các nước đang phát triển, các tổ chức R&D thuộc Nhà nước cũng xuất
hiện khá phổ biến. Kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ II, ở các nước vừa giành
được độc lập, việc tiến hành công nghiệp hóa nhanh chóng nền kinh tế đất nước
được coi là chìa khóa để phát triển. Kế hoạch hóa tập trung và sở hữu tập trung
trong các khu vực then chốt thường được xem như con đường nhanh nhất và
hiệu quả nhất để tăng cường độc lập về chính trị và kinh tế. Hệ thống tổ chức
khoa học Nhà nước đã phát triển mạnh mẽ với ý nghĩa là công cụ phục vụ mục
tiêu chính trị, kinh tế. Tại các nước XHCN trước đây, hệ thống tổ chức R&D
thuộc Nhà nước là loại hình thống trị, thậm chí mang tính độc tôn.
Không thể phủ nhận những kết quả mà các tổ chức này mang lại. Sức mạnh
quân sự của nước Đức, của nước Mỹ, sức mạnh kinh tế và quân sự một thời của
Liên Xô (trước đây), đã gắn liền với hệ thống tổ chức R&D thuộc Nhà nước.
Tuy nhiên với những diễn biến của tình hình chính trị, kinh tế thời gian qua, loại
hình tổ chức này đã và đang bộc lộ nhiều nhược điểm như hoạt động thiếu hiệu
quả, ít gắn với cuộc sống, và trở thành gánh nặng tài chính đối với Nhà nước.
Những nhược điểm trên được nói đến ở mọi loại tổ chức R&D thuộc Nhà

nước và có liên quan tới tính tự chủ của đơn vị KH&CN. Ví dụ:
Trung Quốc: Thời kỳ trước cải cách trong khu vực KH&CN, hoạt động của
các cơ quan R&D rất kém hiệu quả. Người ta nghi ngờ rằng phần lớn công việc
do các viện nghiên cứu tiến hành đều không phải là R&D. Theo Sách trắng
KH&CN Trung Quốc, cuộc điều tra năm 1986 cho kết quả là, đến với các viện
nghiên cứu thuộc Trung ương thì hơn 50% chi tiêu không phải R&D; còn đối với
các viện thuộc địa phương cấp quận, huyện thì con số đó là 80%.
Ở Mỹ: Hơn 2/3 phát minh trong thế kỷ XX là của các nhà sáng chế độc lập
và các công ty nhỏ, trong khi đó, phần lớn các nhà bác học lại làm việc trong

24
những tổ chức lớn, bao gồm cả tổ chức R&D thuộc Nhà nước. Hệ thống phòng
thí nghiệm quốc gia có hai loại, bên cạnh số phòng thí nghiệm của Nhà nước
giao cho các tổ chức độc lập và các hãng quản lý theo hợp đồng (Government
owned, contracton - operated - GOCO) còn có loại do chính Nhà nước trực tiếp
quản lý (Government owned, government - operated - GOGO). Nếu các GOCO
thường tự do ký kết hợp đồng với các hãng tư nhân và thiên về nghiên cứu
những vấn đề có triển vọng thương mại, thì GOGO lại ít linh hoạt hơn bởi chịu
nhiều quy định của các chính phủ.
Ở nhiều quốc gia khác, tình hình cũng tương tự. Nguyên nhân của tình
trạng này một phần do thiếu cơ chế tự chịu trách nhiệm của tổ chức R&D thuộc
Nhà nước. Chính vì lẽ đó, một số nhà nước đã tăng cường tính tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các đơn vị nghiên cứu bằng cách cắt giảm nguồn kinh phí được
cấp và buộc các đơn vị này phải tìm kiếm những nguồn vốn khác để hoạt động
và phát triển.
Việc cho phép nhà khoa học ở các cơ quan R&D Nhà nước, trường đại học
cùng xuống tham gia lãnh đạo, làm tư vấn cho các doanh nghiệp và công ty tư
nhân (nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) được nhấn mạnh ở Nhật Bản trong
những năm 1980-1990. Tương tự, tại Pháp, Luật về Sáng chế và Nghiên cứu,
ban hành ngày 12/7/1999, cho phép cán bộ nghiên cứu thuộc cơ quan của Nhà

nước (vốn là công chức) được thành lập doanh nghiệp từ công trình nghiên cứu,
tham gia góp vốn vào doanh nghiệp, trở thành thành viên của hội đồng quản trị
doanh nghiệp, hoạt động tư vấn cho doanh nghiệp.
Viện KH&CN Hàn Quốc (KIST), một tổ chức R&D điển hình của Hàn
Quốc, nổi bật ở đặc trưng độc đáo là viện nghiên cứu làm việc theo hợp đồng.
Không chỉ KIST tự chủ trước Nhà nước mà mỗi phòng của nó đều có thể độc lập
lãnh đạo một hệ thống nghiên cứu và phải chịu trách nhiệm về tất cả các chi phí
cần thiết để thực hiện các hoạt động nghiên cứu.
Các nước như Braxin, Mêhicô, Ấn Ðộ và Trung Quốc đang tích cực đề cao
tự chủ và tự trách nhiệm của cơ quan R&D theo hướng công ty hóa. Chẳng hạn,
dưới sự giúp đỡ của Ngân hàng thế giới, những cơ sở R&D và viện thiết kế đang
được cơ cấu lại và trang bị phương tiện để trở thành công ty công nghệ thực thụ.
Tính đến cuối năm 1999, Trung Quốc đã có 11 trung tâm nghiên cứu thiết kế
hoạt động như công ty.
Có thể tiếp tục liệt kê ra nhiều hình thức tự chủ của tổ chức R&D trên thế
giới. Tuy nhiên, điều đáng nói là dường như không có mô hình duy nhất về tự
chủ của tổ chức R&D. Trái lại, tính đa dạng tồn tại không chỉ ở nhóm nước đang
trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường
và nhóm nước vốn có truyền thống phát triển kinh tế thị trường mà ngay cả bên
trong mỗi nhóm nước, và cả trong từng nước. Khác nhau không chỉ về khía cạnh

×