Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Dự báo lạm phát Việt Nam bằng mô hình ARIMA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 67 trang )

Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
MỤC LỤC
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. CPI ( Consumer Price Index): chỉ số giá tiêu dùng
2. D(Y): Sai phân bậc một của chuỗi Y
3. D(Y,k): sai phân bậc k của chuỗi Y
4. OLS: Phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất.
5. LB: thống kê Ljung – Box
6. DF: Thống kê Dickey – Fuller
7. ADF: tiêu chuẩn augumented Dickey – Fuller
8. BJ: Phương pháp Box-Jenkins
9. ACF: Hệ số tự tương quan
10.PACF: hệ số tự tương quan riêng.
11.AR(p): Quá trình tự hồi quy bậc p
12.MA(q): Quá trung bình trượt bậc q
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ, BẢNG
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lạm phát luôn là vấn đề thường xuyên và cấp bách của mọi quốc gia.
Nếu lạm phát được giữ ở mức quá cao, khi đó nền kinh tế không thể giữ
vững mục tiêu tăng trưởng. Và ngược lại nếu nền kinh tế rơi vào tình trạng
giảm phát, khi đó nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển. Tại
Việt Nam mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn đi kèm với kiềm chế lạm phát
(giữ lạm phát ở mức dưới một con số). Nhưng do những biến động khôn
lường tác động xấu tới nền kinh tế, như: khủng hoảng tài chính 2008, sự
tăng giá của một số mặt hàng thiết yếu như xăng, dầu , điện, nước , giá thực
phẩm…. Việt Nam đã trải qua thời kỳ khó khăn năm 2008, với tỷ lệ lạm
phát lên tới gần 20% và đã kiềm chế lạm phát thành công năm 2009 với mức


lạm phát dưới 10%. Đây là một thành công lớn trong việc kiềm chế lạm
phát của nước ta trong giai đoạn cả thế giới đang lâm vào tình trạng khó
khăn. Nhưng bước sang năm 2010, tình hình lạm phát trở nên nghiêm trọng,
đặc biệt là Quý IV/2010 chỉ số giá tiêu dùng tăng chóng mặt, làm tỷ lệ lạm
phát cả năm lên tới 12%, vượt quá chỉ tiêu đề ra. Bước sang năm 2011 tốc
độ tăng giá cả trong nước cao, theo dự báo của tổng cục thống kê thì chỉ
trong 4 tháng đầu năm tỷ lệ lạm phát lên tới gần 10%, điều đó làm ảnh
hưởng rất xấu tới nền kinh tế Việt Nam.
Trước những diến biến phức tạp của lạm phát Việt Năm 2011, việc dự
báo xu hướng của lạm phát trong thời gian tới có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc định hướng chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam. Nhóm
chúng em chọn đề tài nghiên cứu: “ Dự báo lạm phát Việt Nam bằng mô
hình ARIMA”.
2. Mục đích nghiên cứu
• Hệ thống hóa lý luận về lạm phát.
1
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
• Phân tích và đánh giá tình hình lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn
2008- 2011.
• Sử dụng mô hình ARIMA dự báo lạm phát một số tháng năm 2011.
• Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm kiềm chế và phòng chống lạm
phát năm 2011.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu, chuyên đề đi sâu vào nhận định tình hình
biến động nội tại chuỗi gia tăng lạm phát, nhìn nhận lý do khách quan của
sự biến động, từ đó có cơ sở để đưa ra những kiến nghị và giải pháp trong
công tác quản lý và kiềm chế lạm phát, từ đó có làm tốt lên công tác ổn định
kinh tế vĩ mô.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu chúng em sử dụng mô hình ARIMA để dự

báo lạm phát trong năm 2011. Mô hình này phân tích dựa trên cơ sở chuỗi
thời gian, có thể sử dụng để phân tích và dự báo chuỗi thời gian. Do vậy
chúng em sử dụng mô hình ARIMA để phân tích và dự báo lạm phát Việt
Nam trong thời gian tới.
5. Kết cấu của đề tài
• Phần I: Lý thuyết chung về lạm phát.
• Phần II: Phân tích tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn vừa qua và
sử dụng mô hình ARIMA dự báo lạm phát trong những tháng tới của năm
2011.
• Phần III: Một số kiến nghị, đề xuất cho việc quản lý, kiểm soát và
kiềm chế lạm phát ở Việt Nam.
2
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
PHẦN I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Các quan điểm về lạm phát.
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục mức giá chung của nền
kinh tế trong một khoảng thời gian.
Mức giá chung của nền kinh tế là giá trung bình của tất cả các hàng hoá
và dịch vụ trong nền kinh tế. Do vậy, khi xảy ra lạm phát không có nghĩa là
tất cả mọi hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế đều tăng giá. Có thể một vài
mặt hàng giảm giá nhưng mặt hàng khác tăng giá đủ mạnh vẫn có thể gây
nên lạm phát.
Lạm phát cũng có thể hiểu là sự suy giảm sức mua trong nước của đồng
nội tệ. Nền kinh tế có lạm phát, một đơn vị tiền tệ có thể mua ngày càng ít
hàng hoá, dịch vụ hơn. Hay hiểu đơn giản là khi có lạm phát chúng ta phải
chi ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn cho giỏ hàng hoá và dịch vụ cố định.
Để có cái nhìn cụ thể hơn về lạm phát,chúng ta cùng tìm hiểu một số
quan điểm điển hình về lạm phát.
1.1.Quan điểm cố điển và tân cổ điển.
Những nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển sử dụng thuyết số lượng

tiền tệ để giải thích cho lạm phát. Thuyết số lượng tiền tệ dựa trên phương
trình trao đổi như sau:
MV=PT
Trong đó: M: khối lượng cung tiền
V: vòng quay của tiền
P: mức giá chung trong nền kinh tế
T: khối lượng giao dịch thực, giả thuyết khối lượng giao dịch
thực bằng với sản lượng nền kinh tế.
3
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
Tổng cung AS được giả định là cho trước ở mức độ toàn dụng, hay nói
cách khác sản lượng đang ở trong tình trạng cân bằng dài hạn:
AS = Y
Y là tổng sản xuất được xác đinh bởi hàm sản xuất trong dài hạn.
AD =(M*V)/P
Cân bằng trong thị trường hàng hóa dịch vụ xảy ra khi AD = AS, hay
nói cách khác tổng mua ( PY) phải bằng tổng chi (MV):
MV = PY
Các nhà kinh tế cổ điển và tân cổ điển giả định rằng V là một hằng số,
bởi vì giá trị này phụ thuộc vào sự phát triển của hệ thống tài chính mà điều
này không phải một sớm, một chiều. Ivring Fisher đưa thêm giả định Y là
hằng số khi nó đạt được ở mức sản lượng toàn dụng, có thể viết lại:
P = (͞V/͞Y)*M
Phương trình trên cho thấy, nếu các yếu tố khác không đổi thì một bội
số tăng lên của M cũng làm P tăng lên một bội số tương ứng. Logarit hóa
các giá trị trên theo cách tích xấp xỉ của tốc độ tăng trưởng ( hay còn gọi là
phần trăm thay đổi) và viết lại ta có:
Л ( v-g ) + m
Trong đó л, v, g, m là phần trăm thay đổi của P, V, Y, M, trong cách
tính này v = g = 0 ( do giả thuyết chúng không đổi ở trên) , do đó л = m, hay

nói cách khác phần trăm tăng của giá, hay tỷ lệ lạm phát, sẽ đúng bằng phần
trăm tăng lên của cung tiền trong dài hạn. Kết luận này dẫn tới môt kết luận
rằng lạm phát là một hiện tượng tiền tệ.
1.2. Quan điểm của phái tiền tệ
1.2.1.Quan điểm về lạm phát của Milton Friedman
Theo Friedman lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền
tệ.Theo ông trong mọi trường hợp mà tỷ lệ lạm phát của một nước là cực kỳ
4
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
cao trong bất cứ thời kỳ kéo dài nào, thì tỷ lệ tăng trưởng của cung ứng tiền
tệ là cực kỳ cao.
Nhận định của Friedman được minh chứng rõ nét qua cuộc lạm phát ở
Mỹ La tinh thời kỳ 1980 đến 1990 và cuộc khủng hoảng của Đức 1921-
1923. Xem xét lạm phát ở Mỹ La tinh từ 1980-1990, người ta tin một cách
phổ biến rằng có một cái gì đó trong cơ cấu các nền kinh tế Mỹ La tinh ( liên
đoàn lao động chiến đấu, hệ thống chính trị) không ổn đinh gây nên lạm phát
cao. Thực tế tỷ lệ lạm phát ở Mỹ La tinh là đa dạng: một số nước như
Hondura, có tỷ lệ lạm phát bình quân dưới 10% trên một năm trong thời kỳ
đó, trong khi các nước khác như Argentina, Brazil, và Peru tỷ lệ lạm phát là
trên 200%. Nhưng bằng chứng thực tế cho thấy, tỷ lệ lạm phát của các nước
Mỹ Latinh đối lại với mức tăng trưởng cung tiền tệ, cho thấy những nước có
tỷ lệ lạm phát rất cao cũng có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao nhất, điều đó một
phần nào minh chứng nhận định của Friedman là có lý.
1.2.2. Quan điểm chung của phái tiền tệ
Dựa trên nền tảng những kết luận của Friedman, trường phái tiền tệ
cũng có những kết luận quan trọng:
• Sự mất cân bằng trong nền kinh tế hầu hết bắt nguồn từ sưựthay đổi
của khối tiền.
• Nếu thực hiện việc thay đổi cung tiền một cách bất thường thì nó có
thể thay đổi sản lượng trong nền kinh tế.

• Lạm phát hay giảm phát là kết quả của khối tiền tệ tăng lên hay giảm
xuống quá mức.
Tóm lại cả trường phái cổ điển, tân cổ điển và trường phái tiền tệ đều
coi tiền là một nhân tố chủ yếu tạo ra lạm phát cho nền kinh tế.
1.3.Quan điểm của Keynes
Jonh Maynard Keynes trong cuốn sách mang tính cách mạng về khoa
5
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
học kinh tế “ Lý thuyết tổng quát về lao động , lãi suất và tiền tệ “ xuất bản
năm 1936 dựa trên giả thuyết là không có sự toàn dụng trên thị trường lao
động và giá cả là cố định. Bởi thế lạm phát không có chỗ đứng trong lý
thuyết ban đầu của Keynes cho mãi đến năm 1940 giả thuyết cứng nhắc
được nới lỏng. Lúc này, sự cứng nhắc của giá diễn ra trong thị trường lao
động và giá cả hàng hóa dịch vụ có thể thay đổi. Ông mô tả lạm phát trong
một mô hình có tên là “ hố cách lạm phát”. Theo đó lạm phát như một cái
bơm chuyển thu nhập từ những người làm công ăn lương- đây là những
người có xu hướng tiết kiệm cận biên lẫn biên độ thuế thấp, sang khu vực
doanh nghiệp- nhóm có xu hướng tiết kiệm cận biên và biên độ thuế cao.
Như vậy lạm phát là một cơ chế để tái phân phối thu nhập.
1.4. Quan điểm của trường phái cơ cấu
Trong những năm 1960 và 1970 cũng nổi lên những lập luận khác từ
những nhà kinh tế học cơ cấu và trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát là từ
cầu kéo hay chi phí đẩy.
Ý tưởng của trường phái này cho rằng lạm phát bắt nguồn từ quá trình
chuyển đổi cơ cấu của các khu vực trong nền kinh tế như nông nghiệp, công
nghiệp, khu vực xuất khẩu. Những tác giả có ảnh hưởng trong nhóm này là
streeten và Baumoh. Họ lập luận rằng có những khu vực truyền thống trong
nền kinh tế, chẳng hạn như khu vực nông nghiệp thường phản ứng với tiền
tệ, tổng cầu hoặc các cú sốc chậm hơn khu vực hiện đại, chẳng hạn như khu
vực công nghiệp. Ví dụ như sản lượng trong khu vực nông nghiệp tăng sẽ

làm tăng tiền lương của khu vực trong ngắn hạn. Một khi tiền lương tăng,
dẫn tới nhu cầu về hàng hóa trong khu vực nông nghiệp tăng theo, trong khi
đó khu vực này phản ứng chậm chạp và có độ trễ, do vậy thay vì tổng cung
bên khu vực nông nghiệp tăng lên đáp ứng sự tăng lên về phía cầu của khu
vực mình thì giá cả lại tăng lên trước. Phản ứng này lại tiếp tục, một khi giá
6
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
cả tăng, dẫn tới tăng tiền lương trong khu vực nông nghiệp và tăng nhu cầu
sản phẩm trong khu vực công nghiệp. Quá trình này cứ lặp đi lặp lại như
một vòng xoáy và sự không cùng nhịp giữa hai khu vực là lý do tạo ra lạm
phát trong nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế hiện đại, khi nền kinh tế của một nước được
gắn liền với nền kinh tế thế giới thì biểu hiện của lạm phát được thể hiện qua
các mặt sau
Thứ nhất, sự mất giá cả của các loại chứng khoán có giá, song song với
sự tăng giá cả hàng hóa, giá của các loại chứng khoán có giá bị sụt giảm
nghiêm trọng vì việc mua tín phiếu nhằm để thu các khoản lợi khi đáo hạn.
Nhưng vì giá trị của đồng tiền sụt giảm nghiêm trọng nên người ta không
thích tích trữ tiền theo hình thức mua tín phiếu nữa, người ta tích trữ vàng và
ngoại tệ.
Thứ hai, sự giảm sức mua của đồng tiền so với ngoại tệ và vàng trong
điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế. Trong điều kiện mở rộng quan hệ quốc
tế vàng và ngoại tệ mạnh được coi là tiền đề chuẩn của sự đo lường sự mất
giá của tiền tệ quốc gia. Đồng tiền càng giảm giá so với vàng và ngoại tệ bao
nhiêu nó lại càng tác động lên nâng cao giá của hàng hóa bấy nhiêu. Ở đây
người ta bán hàng dựa trên cơ sở qui đổi giá vàng hoặc ngoại tệ mạnh để bán
mà không căn cứ và tiền tệ quốc gia nữa ( tiền do Ngân hàng Nhà nước phát
hành).
Thứ ba, trong điều kiện hệ thống ngân hàng được mở rộng, lạm phát
còn thể hiện ở khối lượng tiền ghi sổ tăng nhanh chóng bên cạnh khối lượng

tiền mặt phát hành ra trong lưu thông. Nhưng điều cần chú ý là khi khối
lượng tiền ghi sổ tăng lên, nó có tác động lớn đến sự tăng trưởng của nền
kinh tế. Như vậy lạm phát trong điều kiện hiện đại còn có ý nghĩa là sự gia
tăng các phương tiện chi trả mà trong đó có khối lượng tín dụng ngắn hạn
7
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
gia tăng. Lạm phát trong điều kiện hiện đại còn là chính sách của nhà nước
nhằm kích thích sản xuất, chống lại nạn thất nghiệp, bù đắp các thiếu hụt về
ngân sách nhà nước.
2. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Như đã tìm hiểu ở trên, theo các quan điểm khác nhau về lạm phát thì
có các nguyên nhân khác nhau gây ra lạm phát. Trong phạm vi nghiên cứu
đề tài, nguyên nhân gây ra lạm phát gồm có bốn nguyên nhân chính, đó là:
lạm phát do yếu tố tiền tệ, lạm phát do cầu kéo, lạm phát do chi phí đẩy và
lạm phát do thiên lệch cơ cấu.
2.1. Lạm phát do yếu tố tiền tệ
Những người chủ trương luận thuyết “ Lạm phát lưu thông tiền tệ”
chẳng hạn như J.Bodin và Milton Friedman, cho rằng lạm phát là đưa nhiều
tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả tăng lên. Bởi thế, chính cách ngân
hàng hay các chính phủ đưa nhiều tiền vào lưu thông là nguồn gốc chủ yếu
gây ra lạm phát và phải chịu trách nhiệm chính trong việc khắc phục lạm
phát. Điều này được dẫn chứng qua công thức của Irving Fisher đã nêu ở
phần 1 về quan điểm của trường phái cổ điển và tân cổ điển.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, sự tiếp cận của các nhà tiền tệ học bước
vào thời kỳ phát triển mới, đặc biệt là với các công trình nghiên cứu của Don
Patinkin và nhất là của M.Friedman.Đến lúc này, M.Friedman đã xác định rõ
nhu cầu tiền tệ nhờ hàm số sau:
Trong đó:
: nhu cầu tiền tệ
P: mặt bằng giá cả

Y: thu nhập thường xuyên, tức là thu nhập dự kiến tình bình quân thu
nhập hiện tại và quá khứ đã được chỉnh lý.
W: tỷ lệ thu nhập từ thiết bị và con người
RM, RB, RE: hiệu suất danh nghĩa dự kiến của tiền tệ , trái phiếu và cổ
8
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
phiếu.
GP: tỷ lệ lạm phát dự kiến
U: hằng số biểu thị tất cả các yếu tố khác nhau có thể giải thích những
nhu cầu cá nhân về tiền tệ.
Theo M.Friedman, muốn kìm hãm lạm phát cần kìm chế sự tăng thêm
tiền, và để không có lạm phát thì nhịp độ phát hành tiền vào lưu thông phải
cùng với nhịp độ tăng trưởng sản xuất đích thực.
2.2. Lạm phát do cầu kéo
Tổng cầu của người tiêu dùng, người kinh doanh và chính phủ về hàng
hóa và dịch vụ vượt quá tổng cung, vượt quá năng lực tạo ra của nền kinh tế
( kể cả những lượng hàng hóa và dich vụ dự trữ trong các kho và do nhập
khẩu gộp lại), khiến giá cả nói chung tăng lên và phát sinh lạm phát.
9
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
HÌNH 1.1 MÔ HÌNH LẠM PHÁT DO CẦU KÉO
P

J.M.keynes coi lạm phát cầu kéo là quốc sách, chủ trương lạm phát để
tăng tài trợ cho sản xuất công nghiệp, đầu tư xây dựng cơ bản, để “kích
cầu”, tạo ra cầu dư thừa, coi như động lực phát triển sản xuất, phát triển kinh
tế. Ông quan niệm trước khi có toàn dụng nhân công và năng lực sản xuất
trong toàn xã hội thì mọi khoản tài trợ làm tăng cầu xã hội đó không những
cần thiết mà còn chưa gây ra lạm phát, hay chỉ tạo ra lạm phát lành mạnh.
Còn lạm phát tuyệt đối trong giai đoạn toàn dụng vẫn có ích, vì nó làm hưng

thịnh nền kinh tế, cứu vãn suy thoái, thất nghiệp. Vì thế, theo Keynes, nhà
nước phải chủ động can thiệp trực tiếp vào mọi mặt của đời sống kinh tế tạo
ra tổng “ nhu cầu có hiệu lực” mạnh mẽ trong nền kinh tế.
Theo Keynes, lạm phát xuất hiện khi mức tăng cầu vượt quá mức cung.
Song ở đây,lạm phát có tác dụng thúc đổi sản xuất phát triển, chống suy
thoái, nhất là khi nó cho phép nền kinh tế phát triển hiệu quả, tiến bộ kỹ
thuật được áp dụng tích cực, cơ cấu kinh tế được đổi mới nhanh và đúng
hướng. Thực tiễn các nền kinh tế thị trường thế giới sau Chiến tranh thế giới
thứ 2 đến đầu thập kỷ 70 đã chứng tỏ điều đó, nhưng khi nền kinh tế đã rơi
vào thời kỳ phát triển kém hiệu quả, tiến bộ kỹ thuật áp dụng chậm, cơ cấu
kinh tế trì trệ hoặc đổi mới không đúng hướng nữa thì lý thuyết lạm phát cầu
dư thừa tổng quát không còn thích hợp nữa.
2.3. Lạm phát do chi phí đẩy
10
Trong đồ thị tổng cầu, tổng
cung.Lạm phát cầu kéo xuất hiện
khi có sự dịch chuyển dang bên
phải của tổng cầu ( dịch
chuyển lên )
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
Lạm phát do chi phí đẩy ( hay còn gọi là lạm phát cung) cho rằng chi
phí sản xuất kinh doanh tăng nhanh hơn năng suất lao động ( mức tăng chi
phí này chủ yếu do tăng tiền lương, giá nguyên nhiên vật liệu, do công nghệ
cũ kỹ và thể chế quản lý lạc hậu), khi đó các doanh nghiệp sẽ đối phó lại
bằng cách tăng giá cả hàng hóa, và lạm phát xuất hiện, mặc dù cầu về sản
phẩm của họ không tăng.
Như vậy , luận thuyết “ lạm phát chi phí đẩy” đã giải thích được nguyên
nhân vì sao lại có lạm phát trong trường hợp cầu giảm xuống hoặc không
đổi, tại sao việc thu hẹp cầu nhờ giảm đầu tư và tín dụng nhà nước có thể
gây ra thất nghiệp và suy thoái kinh tế, chứ không giúp giảm lạm phát. Xuất

phát từ quyền lực thị trường thuộc về người lao động và doanh nghiệp, đôi
khi các nhà kinh tế còn gọi “ lạm phát chi phí đẩy” là lạm phát do “ quản lý
giá” hay lạm phát của người bán.
11
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
.HÌNH 1.2: MÔ HÌNH LẠM PHÁT CHI PHÍ ĐẨY
P


Y
Ba loại chi phí có thể gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và
giá nguyên liệu nhập khẩu.Khi công đoàn thành công trong việc đẩy mạnh
tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm
phát xuất hiện.Vòng xoáy đi lên tiền lương và giá cả tiếp diễn và trở nên
nghiêm trọng nếu chính phủ tìm cách tránh suy thoái bằng mở rộng tiền
tệ.Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà
sản xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Điểm đáng chú ý là nếu như “ lạm phát
cầu kéo” xuất hiện do cầu vượt quá cung khi nền kinh tế đạt tới hoặc vượt
quá mức sản xuất tiềm năng, có sự toàn dụng nhân công và công suất máy
móc, thì lạm phát “ chi phí đẩy” phát sinh ngay cả khi nguồn tài nguyên
chưa được sử dụng hết,chưa có trạng thái toàn dụng đó, thậm chí lạm phát
ngay cả khi nền kinh tế đang suy thoái. Có thể coi “ lạm phát chi phí đẩy” là
hiện tượng mới của nền kinh tế công nghiệp hiện nay.Mặt khác tồn tại một
quan hệ tuyến tính giữa “lạm phát cầu kéo” là “ lạm phát chi phí đẩy tăng”:
tăng giá do cầu kéo dẫn đến tăng giá do chi phí đẩy”: tăng giá do cầu kéo dẫn
đến tăng giá do chi phí đẩy. Cụ thể , do tổng cầu về thành phẩm và dịch vụ
tăng lên làm mở rộng cầu dẫn xuất của các doanh nghiệp về nguyên vật liệu
và lao động, dẫn đến chi phí sản xuất tăng , giá thành tăng , sinh ra lạm phát.
12
Trong mô hình ,

tổng cung tổng cầu,
một cú sốc sẽ làm
cho tổng cung dịch
chuyển lên trên,
sang bên trái (
lên )
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
2.4. Lạm phát do thiên lệch cơ cấu
Lạm phát do sự thiên lệch trong cơ cấu kinh tế hoặc bóp méo giá cả.Dễ
thấy nhất là khi nền kinh tế phụ thuộc lớn vào nông nghiệp.Mỗi khi có thiên
tai, mất mùa, dịch bệnh gây hại nguồn thực phẩm chính đều gây ảnh hưởng
trực tiếp mạnh mẽ đến tăng giá; bắt đầu từ lương thực, thực phẩm sau đó là
phản ứng dây chuyền đến nhiều loại hàng hóa khác.Tình trạng lạm phát của
Việt Nam trong các năm từ 1979 đến 1986 và đến 1990, đều có nguyên nhân
từ lương thực, do cơ cấu kinh tế lúc ấy phụ thuộc lớn vào nông nghiệp và
sản xuất lúa gạo.Lạm phát do cơ cấu còn do nguyên nhân khó thấy hơn, là
sự thiên lệch trong chính sách.Việc khuyến khích một ngành này bằng cách
tập trung các nguồn lực có thể làm nhiều ngành khác không có điều kiện để
phát triển. Giá cả của hàng hóa được khuyến khích có thể rẻ tương
đối,nhưng nhiều loại hàng hóa cần thiết khác lại quá đắt làm cho cơ cấu giá
cả bị bóp méo.Chính sách bảo hộ hàng trong nước không chỉ làm cho giá
hàng hóa được bảo hộ có mức giá cao gây méo mó cơ cấu giá mà còn tạo ra
kênh phân phối độc quyền.Với các chủng loại hàng hóa tiêu dùng thiết yếu,
thì hệ thống phân phối này sẽ thường xuyên làm “ giá” với bất kỳ lý do nào
– từ chính sách trong nước, từ tỷ giá hay việc nhập khẩu trở nên khó khăn.
Lạm phát do cơ cấu kinh tế lạc hậu sẽ thay đổi khi cơ cấu kinh tế thay
đổi.Nhưng lạm phát do sự thiên lệch trọng chính sách thì sự thay đổi phức
tạp hơn nhiều.
3. Phân loại lạm phát
Trên thực tế, căn cứ vào các mặt khác nhau của lạm phát, có thể phân

chia làm phát thành những loại khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài
này,chúng ta sẽ tìm hiểu các loại lạm phát căn cứ vào tốc độ của lạm phát,
nguyên nhân gây ra lạm phát và căn cứ vào tác động của lạm phát.
13
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
3.1. Phân loại lạm phát căn cứ vào tốc độ của lạm phát
Căn cứ vào tốc độ của lạm phát, có thể chia lạm phát thành thiểu phát,
lạm phát thấp, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
3.1.1.Thiểu phát
Thiểu phát là hiện tượng mức giá chung của một nền kinh tế giảm liên
tục và kéo dài trong một khoảng thời gian. Thiểu phát làm thu hẹp nhu cầu
tiêu dùng và nhu cầu đầu tư, kéo theo sự suy giảm của các nghiệp vụ truyền
thống của các ngân hàng thương mại. Chính vì nhu cầu đầu tư giảm nên xu
hướng gửi tiền vào các ngân hàng thương mại tăng, làm tăng lượng vốn huy
động trong khi nhu cầu vay vốn của các chủ thể kinh tế giảm, đẩy ngân hàng
tới sự thua lỗ, giảm mức cung tiền tệ. Do đầu tư giảm nên thu nhập của
người lao động cũng giảm, đồng thời làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Thu
nhập của người lao động giảm dẫn tới giảm chi tiêu, tiêu dùng; chi tiêu và
tiêu dùng giảm trong một thời gian sẽ làm cho nền kinh tế rơi vào suy thoái.
3.1.2.Lạm phát thấp
Lạm phát thấp hay còn gọi là lạm phát vừa phải, là lạm phát xảy ra với
mức độ tăng chậm của giá cả, được giới hạn ở mức độ một con số hàng năm,
có nghĩa là chỉ số giá cả tăng từ 1% đến 9% trên một năm. Nếu giữ lạm phát
ở một mức độ vừa phải, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thì lạm
phát sẽ đóng một vai trò tích cực trong phát triển kinh tế.
3.1.3.Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã là loại lạm phát chỉ xảy ra khi giá cả hàng hóa biến
động mạnh, tăng từ hai con số trở nên hàng năm, có nghĩa chỉ số gía cả tăng
từ 10% đến 99%. Lạm phát phi mã có ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế, giá cả
các mặt hàng trong nền kinh tế tăng cao, kéo theo là tình trạng thất nghiệp

gia tăng, hoạt động sản xuất đình trệ, nền kinh tế kém phát triển.
14
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
3.1.4.Lạm phát siêu tốc
Lạm phát siêu tốc hay còn gọi là siêu lạm phát, là loại lạm phát xảy ra
khi chỉ số giá cả hàng hóa biến động rất mạnh, tăng từ ba con số trở nên
hàng năm, có nghĩa chỉ số giá cả tăng từ 100% trên một năm trở nên. Ví dụ
như ở Đức từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923 chỉ số giá cả tăng
10.000.000 lần, vào thời kỳ đó một ngân phiếu có trị giá 30.000.000 DEM,
sau hai năm 30.000.000 không mua nổi một chiếc kẹo cao su, vì vậy trong
một khoảng thời gian ngắn từ 1921 đến 1923 mà kho tiền của nước Đức tăng
7.000.000.000 lần.
3.2. Phân loại căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát
Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát, lạm phát được chia thành lam
phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.
3.2.1.Lạm phát cầu kéo
Lạm phát cầu kéo là loại lạm phát xảy ra khi nhu cầu hàng hóa tăng quá
cao, vượt quá khả năng cung ứng của nền kinh tế. Do nhu cầu hàng hóa tăng
cao, cung ứng hàng hóa không tăng, điều đó làm giả cả của các loại hàng
hóa tăng lên. Trong thực tế chính phủ có thể kiềm chế lạm phát này ở mức
độ nhất định, lợi dụng lạm phát cầu kéo làm tăng trưởng kinh tế tạo thêm
công ăn việc làm.
3.2.2.Lạm phát chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy là loại lạm phát xảy ra khi chi phí đầu vào cho
một đơn vị hàng hóa tăng, làm cho giá thành sản phẩm tăng đẩy giá cả hàng
hóa tăng lên. Khi mức giá cả càng cao, nhu cầu hàng hóa, dịch vụ của nền
kinh tế sẽ càng giảm, hậu quả làm cho sản lượng của nền kinh tế giảm, kéo
theo tổng sản phẩm quốc dân giảm.
3.3. Phân loại căn cứ vào tác động của lạm phát
Căn cứ vào tác động của lạm phát, có thể chia lạm phát ra làm bốn loại

15
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
là lạm phát cân bằng và có thể dự đoán, lạm phát không cân bằng và có thể
dự đoán, lạm phát cân bằng không thể dự đoán , và lạm phát không cân bằng
và không thể dự đoán.
3.3.1.Lạm phát cân bằng và có thể dự đoán trước được
Là loại lạm phát xảy ra khi giá tất cả các loại hàng hóa đều tăng cùng
với một tốc độ và có thể dự đoán trước được. Lạm phát cân bằng và có thể
kiểm soát được không gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế, do giá cả các loại
hàng hóa tăng đều nhau nên lưu thông tiền tệ ít bị ảnh hưởng,các ngành sản
xuất tăng trưởng bình thường, ít gây ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất
kinh tế. Tỷ lệ lạm phát đã được dự đoán trước và trở thành tỷ lệ lạm phát
được trông đợi, người ta có thể chỉ số hóa các hành vi kinh tế, do đó thu
nhập không bị phân phối lại.
3.3.2Lạm phát không cân bằng và có thể dự đoán
Lạm phát không cân bằng và có thể dự đoán là loại lạm phát xảy ra khi
giá cả các loại hàng hóa tăng không đều, nhưng có thể dự đoán trước được.
Do giá cả các loại hàng hóa tăng không đếu làm cho sản xuất bị mất cân đối,
lưu thông tiền tệ bị rối loạn, xuất hiện hiện tượng “chạy trốn” khỏi tiền tệ.
các tác động trên làm ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế.
3.3.3.Lạm phát cân bằng và không thể dự đoán
Lạm phát cân bằng và không thể dự đoán là loại lạm phát xảy ra khi giá
cả các loại hàng hóa tăng đều nhau nhưng bất ngờ và không thể dự đoán
trước được.
3.3.4.Lạm phát không cân bằng và không thể dự đoán
Lạm phát xảy ra khi giá cả các loại hàng hóa tăng không đếu nhau và
bất ngờ không thể dự đoán trước được. Do không dự đoán trước được. loại
lạm phát này làm phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội một cách
sâu sắc.Lưu thông tiền tệ rối loạn, sản xuất mất cân đối, ảnh hưởng nghiêm
16

Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
trọng đến phát triển kinh tế. Loại lạm phát này rất khó kiểm soát và có thể
dẫn tới lạm phát phi mã và lạm phát siêu tốc.
4. Đo lường lạm phát
4.1. Một số phương pháp tính chỉ số giá.
4.1.1. Chỉ số giá tiêu dùng ( CPI )
Chỉ số giá tiêu dùng ( CPI) là chỉ số quan trọng mà một số nước thường
lấy để đo tỷ lệ lạm phát và được xem là để đo lường chi phí liên quan đến rổ
hàng hóa và dịch vụ cụ thể được người tiêu dùng mua. Chỉ số giá hàng tiêu
dùng ( CPI là một chỉ số Laspeyres) được tính theo công thức:
Trong đó:
- là giá hàng hóa sản phẩm i trong giai đoạn t
- là giá hàng hóa sản phẩm i trong giai đoạn cơ sở
- Là tổng sản lượng hàng hóa sản phẩm i ( i=1 đến n) trong giai
đoạn cơ sở ( Rổ hàng hóa được ấn định đối với một năm cơ sở và Q là trọng
số, n là tổng sản phẩm)
Các tính chỉ số CPI không phải là cộng các giá cả lại và chia cho tổng
khối lượng hàng hóa mà là cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng của
nó trong nền kinh tế.
4.1.2. Chỉ số giá bán buôn
Chỉ số bán buôn còn được gọi là chỉ số giá sản xuất ( PPI – Producer
price index), phản ánh mức giá đầu vào, mà thực chất là chi phí sản xuất
bình quân của xã hội.Sự biến động của chi phí sản xuất tất yếu sẽ tác động
đến xu hướng biến động của mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ thành
17
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
phầm trên thị trường.
Chỉ số giá bán buôn được xác định theo phương pháp tương tự chỉ số
CPI nhưng do việc thu nhập số liệu và xác định tỷ trọng phức tạp nên không
phải quốc gia nào cũng tính và công bố chỉ số này.

4.1.3. Chỉ số giảm phát
Chỉ số giảm phát GDP được coi là chỉ số giá phản ánh bình quân giá
của tất cả các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước. Do vậy , chỉ số
này có thể nói là toàn diện hơn chỉ số giá tiêu dùng CPI vì bao quát hết tất cả
các loại hàng hóa dịch vụ. Chỉ số này được dùng để tính giảm phát GDP
danh nghĩa và tính GDP thực. Có thể tình chỉ số giảm phát GDP theo công
thức sau:
- là chỉ số giảm phát GDP ( chỉ số Paasche)
- lượng hàng hóa sản phẩm i (i=1 đến n) trong giai đoạn t
4.1.4. Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân
Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính
sách tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo Humphrey-
Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee
(FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của
mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá
nhân".
Tuy nhiên, ở Việt Nam để tính chỉ số lạm phát chúng ta thường chỉ
quan tâm đến chỉ số điều chỉnh- DGDP Và chỉ số giá tiêu dùng- CPI để đo
lường mức giá chung.
4.1.5.Chỉ số lạm phát cơ bản
18
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
Do CPI là chỉ số lạm phát cho bất kỳ thời kỳ nào, có thể là tháng, quý,
năm…Vậy làm thế nào để xác định được xu hướng thay đổi giá cả hàng hóa
và dịch vụ trong dài hạn.Để làm được điều này, người ta dùng chỉ tiêu lạm
phát cơ bản.Đây là chỉ số phản ánh sự tăng giá trong dài hạn sau khi đã loại
bỏ những dao động về giá mang tính thời vụ, và những đột biến về giá bắt
nguồn từ những cú “ sốc cung” tạm thời .Có thể nói, xu hướng lạm phát
trong thời gian dài luôn là đối tượng điều chỉnh và là mục tiêu của chính
sách tiền của Ngân hàng Nhà nước.Chỉ số lạm phát cơ bản không thay thế

cho CPI, mà chỉ đóng vai trò làm chỉ tiêu bổ sung cho CPI, có cung cấp
thông tin dài hạn về giá tiêu dùng và được sử dụng như chỉ số lạm phát
tương lai. Như vậy lạm phát cơ bản được hiểu là tỷ lệ lạm phát đã được điều
chỉnh loại bỏ những biến động ngắn hạn về giá cả, giúp các nhà hoạch định
chính sách xu hướng lạm phát trong dài hạn, là thông tin hữu ích để hoạch
định chính sách tiền tệ.
4.2. Đo lường lạm phát
Tỷ lệ lạm phát có thể được tính theo công thức
Trong đó:
- Tỷ lệ lạm phát thời điểm t (%)
- Chỉ số giá tiêu dùng thời điểm t
- Chỉ số giá tiêu dùng thời điểm t-1.
Tại Việt Nam, bắt đầu từ tháng 1 năm 1998, Tổng cục Thống kê chính
thức công bố chỉ tiêu giá tiêu dùng CPI của toàn quốc tính theo phương pháp
cải tiến:
19
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
- Chỉ số giá tiêu dùng chung của toàn quốc được tính trên cơ sở chỉ
số giá tiêu dùng của các tỉnh, thành phố trong cả nước.
- Chỉ số tiêu dùng của các tỉnh, thành phố được tính theo công thức
LASPARYE với quyền số cố định là cơ cấu chi tiêu hộ gia đình đa mục tiêu
do tổng cục Thống kê tiến hành năm 1995.Danh mục mặt hàng đại diện thu
nhập giá gồm 296 mặt hàng, được phân chia theo 10 nhóm tiêu dùng cấp I,
34 nhóm cấp II và 86 nhóm cấp III, trong mỗi nhóm đều bao gồm cả hàng
hóa và dịch vụ.Giá tiêu dùng bình quân năm 1995 được dùng làm giá cố
định.
- Hàng tháng, chỉ số giá tiêu dùng được công bố với 4 gốc so sánh:
+ Kỳ gốc ( so với giá tiêu dùng bình quân năm 1995);
+ Tháng trước ( hàng tháng);
+ Cùng tháng năm trước ( sau 12 tháng);

+ Tháng 12 năm trước ( sau 1,2,…11 tháng).
- Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đôla Mỹ cũng được công bố hàng
tháng với 4 gốc so sánh như trên, nhưng tính riêng, không năm trong những
chỉ số giá tiêu dùng.
5. Tác động của lạm phát
5.1. Hiệu ứng tích cực
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát vừa
phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu tả tác
động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế
mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này
khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo
thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
5.2 Hiệu ứng tiêu cực
Khi nền kinh tế xảy ra lạm phát cao chúng ta không thể lường trước hết
được những tổn hại nó gây ra cho nền kinh tế. Thông thường thì thu nhập
thực tế giảm đi, dân cư nghèo đi một cách tương đối so với lúc trước. Cuộc
20
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
sống trở nên khó khăn hơn.
Tính chất của lạm phát có ảnh hưởng quan trọng đến tổn thất mà lạm
phát gây ra cho xã hội. Theo tính chất của lạm phát chúng ta chia lạm phát
làm hai loại là lạm phát được dự tính trước và lạm phát không được dự tính
trước. Với mỗi loại thì tổn thất lại khác nhau.
5.2.1 Đối với lạm phát được dự tính trước
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể
tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, mọi khoản vay
cũng như hợp đồng về các biến danh nghĩa đã được điều chỉnh phù hợp với
lạm phát tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội, cụ thể:
- Chi phí mòn giày: lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm
cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn.

"Chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời
gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
- Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các
doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
- Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường
hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí
thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh
chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương
đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực
dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên
góc độ vi mô. Sự thay đổi giá cả không đều, làm méo mó giá tương đối thì sức
mạnh của thị trường tự do bị suy giảm. Sự phân bổ không hiệu quả này khiến
cho nội dung truyền đạt thông tin của giá cả bị suy giảm.
- Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái
với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh
hưởng của lạm phát.
21
Lạm phát - dự báo lạm phát bằng mô hình ARIMA
- Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm
thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này
co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của
mình. Trong một chừng mực nào đó lạm phát làm cho các nhà đầu tư khó
phân biệt doanh nghiệp nào hoạt động có hiệu quả, doanh nghiệp nào hoạt
động kém hiệu quả. Kết quả là nhà đầu tư không biết phải đầu tư vào doanh
nghiệp nào. Từ đó, cản trợ thị trường tài chính trong việc phân bổ một cách
hiệu quả các khoản tiếp kiệm của nền kinh tế cho các dự án đầu tư.
- Lạm phát ảnh hưởng đến hai loại thuế đánh vào thu nhập từ tiếp kiệm
là tiền lãi vốn và tiền lãi danh nghĩa.
5.2.2 Đối với lạm phát không dự kiến được
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của

cải giữa các cá nhân một cách độc đoán, không phù hợp với nỗ lực, cống
hiến và nhu cầu của họ. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập
trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được
hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến
người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không
dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn.
Lạm phát không dự tính được còn gây tổn thất cho những người nhận
thu nhập danh nghĩa cố định hoặc thu nhập danh nghĩa chậm điều chỉnh với
lạm phát. Ví dụ điển hình là trường hợp tiền lương của công nhân và doanh
nghiệp. Lạm phát cao hơn dự kiến công nhân là người chịu thiệt, thấp hơn
dự kiến thì doanh nghiệp lại là người chịu thiệt hại.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động
tiêu cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm
phát gây ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát
ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội
22

×