Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn chính tả phần nghe đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.94 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
hân môn chính tả trong nhà trường tiểu học giúp học sinh tiểu học
hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả. Nói rộng hơn
là năng lực và thói quen viết chuẩn Tiếng Việt. Vì vậy, phân môn chính
tả có vò trí quan trọng trong nội dung chương trình môn Tiếng Việt ở phổ
thông, nhất là ở tiểu học.
P
Giống như các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, tính chất của
phân môn chính tả là tính thực hành. Bởi lẻ chỉ có thể rèn luyện các kó
xảo chính tả cho học sinh thông qua việc thực hành luyện tập, trong
phân môn này các quy tắc chính tả, các đơn vò kiến thức mang tính chất
lí thuyết không được bố trí trong tiết dạy riêng mà dạy lồng trong hệ
thống bài tập chính tả.
Mặc dù được học tập chính tả dười hình thức thực hành là chủ yếu,
nhưng những năm qua, chúng ta thấy chất lượng học tập phân môn chính
tả vẫn còn thấp. Các bài văn, bài kiểm tra đều có nhiều lỗi chính tả viết
sai chính tả dẫn đến lệch nghóa giáo viên đọc,chấm bài quá vất vả mới
hiểu được học sinh muốn viết điều gì. Đây là một thực trạng đặt ra cho
giáo viên dạy Tiểu học, các cấp quản lý cần nổ lực tìm kiếm những giải
pháp thiết thực nhằm nâng dần chất lượng học chính tả, rèn kó năng viết
đúng chính tả cho học sinh.
Trong những năm gần đây, trong quá trình giảng dạy học sinh lớp 5.
Tôi đã tìm tòi một số biện pháp cần thiết để nhằm giúp học sinh lớp tôi
rèn kỹ năng nghe viết đúng chính tả phần “nghe đọc”.
1
Trong năm 2005-2006 tôi đã phấn đấu thi giáo viên giỏi cấp cơ sở
và chọn đề tài” Những biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn chính
tả phần nghe đọc”
Như đã nêu trên đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học
tốt phân mơn chính tả phần nghe đọc” sẽ góp phần giúp học sinh lớp 5
nói riêng và học sinh tiểu học nói chung, bước đầu hình thành kỹ năng


viết đúng chính tả trong giờ học chính tả và trong quá trình học tập, sử
dụng chữ viết Tiếng Việt trong giao tiếp.
Đề tài này đã được tôi nghiên cứu và thực hiện năm trước (2004-
2005) và tôi tiếp tục thực hiện đề tài này( 9/2005). Qua các biện pháp
tôi đã thực hiện được, xem xét, đối chiếu các đề tài hiện nay, đề tài của
tôi có phần khác vì tôi tập trung vào những việc làm của giáo viên nhằm
cung cấp, rèn luyện cho học sinh nhớ và thực hành viết đúng chính tả.
Đề tài này tôi áp dụng trên đối tượng là học sinh lớp 5 của tôi phụ
trách tại điểm trường ấp 6 Tân Lập.
2
PHẦN 1: THỰC TRẠNG
ua những năm giảng dạy tại Trường Tiểu học Tân Lập A. Tôi
theo dõi liền gần đây thấy học sinh lớp tôi học yếu nhất là môn
chính tả(nghe đọc). Kết quả cụ thể như sau:
Q
Năm học Lớp
SS Giỏi Khá TB Yếu
SL TL SL TL SL TL SL TL
2003-2004 4 21 6 28,6% 7 33,3% 3 14,3% 5 23,8%
2004-2005 4 20 4 20% 6 30% 3 15% 7 35%
Từ những số liệu ở bảng trên cho thấy:
_Năm học 2003-2004 chỉ có 61,9% học sinh khá giỏi phân môn
chính tả và còn 38,1% học sinh chính tả trung bình, yếu.
_ Năm học 2004-2005 chỉ có 50% học sinh khá-giỏi phân môn
chính tả, còn 50% học sinh học chính tả trung bình yếu.
Nguyên nhân của tình hình nêu trên là do:
_Về phía giáo viên đứng lớp.
Trong giảng dạy giáo viên chưa thể hiện hết sự tận tụy trong nghề
nghệp. Gíao viên chỉ cần dạy đủ chương trình chứ không tận tình chỉ dẫn
_ Về phía học sinh

+ Một phần do ảnh hưởng của cách phát âm đòa phương, phát âm
còn sai những từ có phụ âm đầu dễ lẫn như: r / g, ch/ tr, v/d/g…
+ Đa số học sinh chưa hiểu ích lợi của việc viết đúng chính tả, học
sinh chưa có phương pháp học tập, một số học sinh còn lười học tập.
_ Về phía phụ huynh học sinh:
+ Trong lớp trên dưới 90% cha mẹ học sinh đều làm nghề nông,
không có thời gian kèm cặp con cái học và chiếm một phần lớn phụ
huynh học sinh không quan tâm đến việc học tập của con cái, gia đình
3
chưa xác đònh đúng vai trò của việc học, gia đình cho con mình đi học
miễn sao cho con em biết đọc và viết được là đủ rồi
Từ thực trạng vừa nêu trên tôi nhận thấy cần phải có những giải
pháp cụ thể phù hợp với lớp nhằm giúp học sinh lớp 5 của tôi học tốt
phân môn chính tả(nghe đọc)
4
PHẦN 2: GIẢI PHÁP
ể học sinh viết tốt hơn phần chính tả nghe đọc, tôi lần lượt áp
dụng các biện pháp sau:Đ
1/ Chuẩn bò của giáo viên và học sinh
1.1 Chuẩn bò của giáo viên
Trước khi dạy một bài chính tả mới. Tôi cần nắm vững kiến thức
thuộc nội dung bài dạy và có phương pháp dạy phù hợp để cung cấp
kiến thức cho học sinh nhằm giúp học sinh dễ ghi nhớ mà viết đúng
chính tả.
Ngoài việc tôi cần đọc kỹ bài chính tả nhiều lần, tôi còn phải dự
kiến các từ khá nếu học sinh chưa phát hiện ra khi chuẩn bò bài ở nhà.
Tôi còn chuẩn bò hệ thống câu hỏi gợi ý cho phần bài viết và bài tập
thực hành
1.2Chuẩn bò của học sinh:
Tôi yêu cầu từ đầu năm mỗi học sinh trong lớp đều có 2 quyển vở

học chính tả, một quyển vở ở lớp và một quyển vở ở nhà, bảng con,
phấn…
Ngày hôm sau viết chính tả bài “Em bé”. Trước đó tôi dặn học sinh về
nhà viết trước bài đó vào vở chuẩn bò ở nhà, sau đó đọc bài từ 4-5 lần và
tìm các từ khó trong bài viết, dùng bút chì gạch chân các từ khó viết vào
bảng con. Làm như vậy nhằm giúp học sinh đọc hiểu nội dung bài chính
tả, rèn luyện chữ viết và giúp học sinh viết chính tả nhanh và ít sai hơn.
2/ Phát huy tính tích cực chủ động trong học tập phân môn
chính tả của học sinh
5
2.1 Tăng cường việc tri giác chữ viết bằng thò giác cho học sinh:
Muốn ngăn ngừa lỗi chính tả cho học sinh tôi giúp các em ghi nhớ
chữ viết gắn liền với nghóa của từ: Từ có vấn đề chính tả, cách tốt nhất
là cung cấp cho học sinh từ trong ngữ cảnh. Mỗi tiết học có thể cung cấp
cho học sinh nhiều từ trong một hoặc nhiều ngữ cảnh. Ngữ cảnh có ý
nghóa đặc biệt, giúp học sinh nắm được nghóa của từ dễ dàng, nhẹ nhàng
làm điểm tựa cho trí nhớ.
Khi cần sử dụng từ, nếu còn phân vân về chữ viết, các em sẽ liên
tưởng đến ngữ cảnh và suy luận ra cách viết chữ. Trong một tiết dạy
chính tả tôi tạo điều kiện cho học sinh trở đi trở lại với từ cần ghi nhớ
nhiều lần.
Chẳng hạn lần 1: Vào bài học tôi yêu cầu học sinh đọc thầm bằng
mắt, ngữ cảnh để hiểu nghóa từ và nhớ ngữ cảnh.
Lần 2: Tôi yêu cầu học sinh lựa chọn các từ trong ngữ cảnh vừa
cung cấp để điền vào một ngữ cảnh khác
Lần 3: Tôi cho học sinh đặt câu với từ vừa học, tìm từ láy, từ ghép
với tiếng có vấn đề chính tả… Chưa kể việc học sinh thực hiện bài tập về
nhà và kiểm tra bài cũ ở buổi học sau. Trong một tiết, học sinh đã được
mắt nhìn tay viết chữ có vấn đề chính tả nhiều lần.
Ví dụ: Bài chính tả “Xóm tôi”(TV5 )

Lần 1: Em hãy đọc thầm các câu sau đây và tìm tiếng có phụ âm
đầu x
Học sinh tìm: xôi, xúp, xanh, xuống
Lần 2: Em hãy lựa chọn từ có phụ âm x đầu tiếng trên đây để điền
vào câu sau:
6
“Tưới cho tươi mát một vùng lúa ….”
Lần 3: Em hãy tạo từ ghép có tiếng”xanh”(xanh xanh, xanh xao)
_Em hãy tạo từ láy có tiếng”xanh”( xanh tươi, xanh ngắt…)
Lần 4: Em hãy đặt câu với mỗi từ xanh, xanh tươi, xanh ngắt
Những thao tác trên tôi đã cho các em thực hiện điền từ, đặt câu,
tạo từ đều được thực hiện bằng mắt và tay, giảm nói và đọc
2.2Tăng cường thao tác phân tích chữ viết ở hocï sinh
Lỗi chính tả có thể xảy ra ở âm và vần trong tiếng việt. Vì vậy, tôi
cho họcï sinh phân tích chữ viết để có tác dụng ghi nhớ chữ viết, khắc
sâu cách viết đi liền với nghóa từ mà nó biểu đạt. Việc phân tích chữ
viết này là phải để cho học sinh làm. Khi tiến hành phân tích chữ viết
tôi buộc học sinh phải quan sát chữ viết một cách tường tận buộc học
sinh phải viết ra chữ, thao tác nhiều, chữ và nghóa sẽ gắn chặt vào trí
nhớ, chắc chắn lỗi viết của học sinh sẽ giảm. Tôi đưa ra một biểu bảng
giáo viên làm mẫu một từ, còn lại tôi lần lượt cho học sinh trung bình
yếu làm tiếp.
Với phương pháp này, tôi yêu cầu mỗi học sinh tự tìm từ khó rồi
phân tích theo mẫu cho sẵn. Như vậy mỗi học sinh có thể tự tìm và phân
tích được nhiều từ
Ví dụ: Dạy bài” Những con đường ở Trường Sơn”
Từ hoặc cụm từ Chữ Phụ âm đầu vần Dấu thanh
Trường Sơn Trường
Sơn
Tr

S
ương
ơn
huyền
ngang
đoàn xe đoàn
xe
đ
x
oan
e
huyền
ngang
trong long suối trong tr ong ngang
7
lòng
suối
l
s
ong
uôi
huyền
sắc
đan nhau









… … …








2.3Tăng cường yêu cầu học sinh tự chữa lỗi chính tả:
Khi chấm bài chính tả, tôi chỉ cho học sinh thấy loại mà thường
mắc. Tôi yêu cầu những em thường mắc lỗi chính tả trả lời câu hỏi
_ Trong bài chính tả vừa qua em thường mắc các lỗi nào?
_Những lỗi đó ở bộ phận nào của tiếng?
_Khi học sinh đã có biết được lỗi của mình thường mắc, nếu gặp
những chữ có “vấn đề chính tả” của mình thì các em sẽ thận trọng hơn
khi viết chữ. Trong lúc soát lại bài viết, tôi đưa ra mẫu đúng, yêu cầu
học sinh phân tích chữ viết các em sẽ thấy được lỗi của mình và tự chữa.
Tôi kiểm tra việc chữa lỗi của học sinh. Dần dần năng lực tữ kiểm tra và
tự chữa lỗi của các em được hình thành.
3/ Tạo hứng thú học tập cho học sinh
Trong giờ học chính tả, để học sinh hứng thú học tập khi học sinh
phát biểu đúng, làm đúng các bài tập khó, tôi cần động viên, khuyến
khích khen thưởng kòp thời.
Phần luyện tập trong viết chính tả cũng rất quan trọng, để học sinh
làm tốt phần luyện tập tôi cần sử dụng những phương pháp dạy học
thích hợp gây hứng thú học tập cho học sinh. Tuỳ theo nội dung phần bài
tập, tôi có thể cho học sinh làm việc cá nhân, theo cặp nhóm (tổ) nhằm

tránh sự nhàm chán cho học sinh khi học phân môn chính tả.
8
Ví dụ: Dạy bài” Lên đường đánh giặc Mó”
Bài tập 1:: Điền ang hoặc oang vào chỗ trống.
Tôi hướng dẫn học sinh chơi trò chơi tiếp sức, trước tiên học sinh
nêu yêu cầu bài tập, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bải tập. Sau đó, tôi
chia lớp thành 2 dãy (mỗi dãy chọn ra 7 em).
Tôi chia bảng làm 2 cột có ghi sẳn bài điền, mời 2 dãy thi đua lên
bảng điền đúng và nhất. Mỗi em điền một từ rồi chuyền phấn cho bạn.
Hết thời gian qui đònh, các nhóm ngừng viết.
_ Cả lớp cùng nhận xét, tuyên dương dãy làm đúng và nhanh.
Tạo hứng thú học tập cho học sinh nhằm giúp học sinh ham thích
học chính tả, học sinh không những đọc đúng, viết đúng chính tả và còn
mở rộng được một số từ ngữ, mở rộng hiểu biết về cuộc sống.
4/ Thống nhất giữ học sinh với giáo viên trong cách đọc, cách
phát âm; Rèn chính tả qua các môn học khác:
4.1 Thống nhất giữa giáo viên và học sinh trong cách đọc và cách
phát âm.
Trong tiết chính tả nghe đọc, ngoài các cách ghi nhớ bằng nghóa từ,
từ trong ngữ cảnh mà cách đọc của giáo viên cũng là một phần rất quan
trọng. Do đó tôi thống nhất với học sinh để phân biệt và nhận biết các từ
có phụ âm đầu là ch/ tr, x/s, r/d/gi…
Ví dụ:
Ch: đọc bình thường
Tr: đọc đưa lưỡi lên vòm miệng
X: đọc bình thường
S: đọc cong lưỡi lên
9
R: đọc cong lưỡi lên
D: đọc bình thường

Gi: đọc xì hơi ra
Bên cạnh việc thống nhất cách đọc với học sinh tôi còn kết hợp cho
học sinh thực hành với bài tập rèn luyện kó năng viết chính tả để học
sinh lónh hội ngay và ghi nhớ. Khi học sinh điền xong, tôi yêu cầu học
sinh phát âm đúng như hướng thống nhất.
Ví dụ: Dạy bài” Xóm tôi”
Điền vào chỗ trống s hoặc x
_Mương …óm tôi bắt cong…ườn núi
Phai làng anh đào lủi ven rừng
Đôi dòng nước chảy tong bừng
Tưới cho tươi mát một vùng lúa…anh
_Xóm trên làng dưới ta cùng
Mương phai đào….ửa cho dòng nước….uôi
Ví dụ 2: Dạy bài” Dưới đáy biển”
_ Điền r/ d/gi vào chỗ trống.
_ Lửa cháy… ừng …ực
_ Dạo này công việc…ồn…ập quá
_Dừng có…ại…ột nghe theo những lời đồn nhãm
Ví dụ 3: Dạy bài “Buổi sáng ở Thành Phố Hồ Chí Minh”
Điền vào chỗ trống ch/ tr
Trên…ời có đám mây xanh
Ở giữa mây…ắng, xung quanh mây vàng
_ Cơn đằng đông vừa…ông vừa …ạy
10
Côn đằng nam vừa làm vừa …ơi
Với phương pháp dạy chính tả này, học sinh lónh hội chính xác, phát
âm đúng và nhớ lâu
4.2 Học sinh viết đúng chính tả qua các môn học khác
Đọc đúng sẽ giúp học sinh viết đúng chính tả . Chính vì vậy, để
khắc phục tình trạng học sinh viết sai chình tả, người giáo viên cần

hướng dẫn học sinh phát âm chuẩn tiếng việt qua các môn, phân môn
khác như: tập đọc, tập làm văn, toán, đạo đức…
Tôi rèn luyện cho học sinh học tốt ở phân môn Tập đọc, tập trung
sửa sai các âm,vần khó hoặc dễ lẫn lộn do cách phát âm của đòa
phương.
Ví dụ: ch/tr, s/x, ang/an, it/ich, r/d/gi… Trong Tiếng Việt phân môn
Tập đọc tạo nền móng vững chắc cho phân môn chính tả.
Chẳng hạn dạy bài” Bà cụ bán hàng nước chè” Tôi cần hướng dẫn
học sinh đọc các từ khó sau: diễn viên tuồng chèo, rợp bóng, chõng tre…
Ngoài ra khi dạy phân môn Tập làm văn tiết tả bài viết, tôi cũng
cần hướng dẫn cho các em soát lỗi, chữa từ, câu rất tỉ mó để các em thấy
được chỗ sai, rút kinh nghiệm và có hướng viết chính tả tốt hơn.
5/ Sử dụng các mẹo luật, quy tắc chính tả.
Đối với học sinh tiểu học phương án này tương đối có hiệu quả
nhất, bởi vi tư duy”máy móc”, trí nhớ”máy móc” của các em chiếm ưu
thế là thích ứng cho việc xây dựng các mẹo luật vừa dễ nhớ vừa áp dụng
lúc viết.
11
Ví dụ 1
Mẹo quy tắc dành cho một số phụ âm đầu dễ nhầm.
Chữ: ng, g ghép được o,ô,ơ,a,ă,â,u,ư
Chữ ng, g không ghép được e,ê,i(không có nghóa)
Chữ ngh, gh chỉ ghép được e, ê, i
Sau chữ “q” không ghép được chữ o mà phải viết là u
Ví dụ 2: căn cứ vào nghóa từ vựng ta có mẹo chính tả của cặp ch/tr
Ch
+ Chỉ đồ dùng trong nhà: chăn, chiếu, chảo, chén, chổi, chõng,
chậu….
+Chỉ tên những người thân thuộc: cha, chú, chò, chồng, cháu,….
Sử dụng mẹo luật, quy tắc chính tả là giúp các em khi gặp các từ

viết trên các em nhớ ngay ra chữ viết, không còn lúng túng phân vân khi
viết chính tả.
6/ Kết hợp với phụ huynh học sinh và các lực lượng khác
Ngay từ đầu năm học, khi nhận lớp, tôi cần tìm hiểu chất lượng học
chính tả của từng em để tôi đònh hướng giúp đỡ, uốn nắn cho những em
viết yếu theo yêu cầu riêng. Tôi đến thăm từng gia đình học sinh, đặc
biệt traổi với phụ huynh các em học yếu chính ta û(Minh Phong, Thế
Hiển. Hoài Thương, Cảnh), nêu nguyên nhân các em học yếu môn này,
để trao đổi tìm hướng giúp em học tốt hơn
Còn đối với các em lười học tập, tôi luôn kiểm tra, uốn nắn hàng
ngày, thường xuyên phụ đạo đúng theo lòch quy đònh một tuần 2 buổi,
củng cố lại kiến thức, luật chính tả để giúp các em học tốt hơn. Ngoài ra
tôi còn kết hợp Ban giám hiệu và tổng phụ trách để nhắc nhở những em
lười học nhằm giúp các em học tốt hơn.
12
PHAÀN 3: KEÁT QUAÛ
13
ới các biện pháp đã đặt ra mà tôi nêu trên, tôi đã áp dụng trong
suốt năm học, thường xuyên theo dõi chuyển biến của học sinh.
Qua từng tháng, tôi nhận thấy học sinh của mình đã có nhiều tiến bộ
trong học tập môn chính tả nói chung và chính tả nghe đọc nói riêng.
Các em viết ít sai lỗi hơn, về lỗi phụ âm đầu, lỗi về vần được giảm dần.
Việc luyện đọc, viết ở nhà giúp các em viết đúng bài viết khi học trên
lớp. Việc giải các bài tập, vận dụng các mẹo luật chính tả, đọc sách báo
nhiều lần giúp các em viết các bài kiểm tra luôn ít sai chính tả. Kết quả
thống kê ở cuối HKI năm 2005-2006 tôi nhận thấy chất lượng lớp tôi đã
có sự chuyển biến
V
Đầu năm
2005-

2006
SSHS
Giỏi Khá TB
Yếu
SL TL SL TL SL TL SL TL
20 4 20% 5 25% 5 25 6 30%
Giữa HKI 20 4 20% 6 30% 6 30% 4 20%
Cuối HKI 20 6 30% 6 30% 6 30% 2 10%
Việc nghiên cứu các giải pháp trên, đã giúp chất lượng ở phân môn
chính tả của lớp tôi đạt học sinh khá giỏi tăng và số học sinh trung bình-
yếu giảm
Đến cuối năm phấn đấu tỉ lệ học sinh viết chính tả yếu không còn.
KẾT LUẬN
14
ua thời gian tích cực, kiên trì thực hiện, chất lượng học phân môn
chính tả(nghe đọc) của học sinh lớp tôi có chuyển biến tốt. Để
thực hiện kết quả trên người giáo viên cần chú ý.
Q
_Xác đònh yêu cầu rèn luyện kó năng đọc đúng, viết đúng chính tả
là nhiệm vụ trọng tâm.
-Ngay từ đầu năm học, khi nhận lớp giáo viên cần tìm hiểu chất
lượng học chính tả của từng em.
Để giáo viên đònh hướng giúp đỡ , uốn nắn kòp thời cho từng em
theo yêu cầu riêng
_ Giáo viên cần kiên trì, tích cực các việc dạy dỗ, kiểm tra thường
xuyên việc chuẩn bò, luyện viết từ khó ở nhà cho học sinh
_Sử dụng phối hợp linh hoạt nhiều phương pháp, sử dụng mẹo luật
chính tả giúp học sinh chủ động tự tìm ra kiến thức, thể hiện ý kiến suy
nghó của mình một cách độc lập sáng tạo, nhằm cho học sinh ghi nhớ từ
khó và học tốt bài chính tả trên lớp.

_Tạo nhiều hứng thú trong học tập nhằm giúp học sinh ham thích
học, say mê học chính tả hơn. Hàng tháng, tuần giáo viên cần tổng kết
và biểu dương những tổ, cá nhân đã được nhiều bông hoa điểm 10 nhất
ở phân môn chính tả. Đồng thời có kế hoạch phụ đạo cho học sinh yếu
chính tả để cung cấp lại những kiến thức mà các em chưa nắm bắt được.
_Kết hợp Ban giám hiệu nhà trường, tổng phụ trách, phụ huynh
học sinh để kiểm tra nhắc nhở, động viên đối với những em lười học tập.
Đề tài này áp dụng ở lớp 5 Trường Tiểu học Tân Lập A. Đối
tượng nghiên cứu là học sinh trường Tiểu học Tân Lập A.
Thời gian tới, tôi hy vọng rằng nếu là người giáo viên dạy lớp
phải biết vận dụng các giải pháp một cách sáng tạo, hợp lý và đồng thời
15
phải đựoc sự quan tâm của phụ huynh học sinh, sự hỗ trợ của nhà trường
thì kết quả sẽ tốt hơn.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Sách Tiếng Việt 5 tập 1 NXB GD, 1998
2/ Giáo dục tiểu học 2/1999
3/ Trần Văn Sáu” Phương pháp dạy học Tiếng Việt tiểu học”
4/ TS Bùi Văn Sơm”Hướng dẫn cán bộ quản lý trưởng học và giáo
viên viết sáng kiến kinh nghiệm”NXB Tổng hợp TP H Chí Minh, năm
2005
5/ GS.TS Nguyễn Như Ý” Sổ tay chính tả tiểu học”
17

×