Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Các giải pháp thúc đẩy hoạt động của trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ địa phương theo cơ chế tự chủ (nghiên cứu trường hợp Trung tâm Ứng dụng ti

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.09 KB, 83 trang )


2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN








PHẠM HỒNG VIỆT




CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG
CỦA TRUNG TÂM ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ ĐỊA PHƢƠNG THEO CƠ CHẾ TỰ CHỦ
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP TRUNG TÂM ỨNG DỤNG TIẾN
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI BÌNH)



LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ









Hà Nội, 2013

3


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHẠM HỒNG VIỆT




CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG
CỦA TRUNG TÂM ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ ĐỊA PHƢƠNG THEO CƠ CHẾ TỰ CHỦ
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP TRUNG TÂM ỨNG DỤNG TIẾN
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI BÌNH)



LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH CHI
́
NH SA
́
CH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 60.34.70



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Xuân Long





Hà Nội, 2013

4


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 6
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 7
MỞ ĐẦU 8
1. Lý do nghiên cứu 8
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 9
3. Mục tiêu nghiên cứu 10
4. Đối tƣợng nghiên cứu 10

5. Phạm vi nghiên cứu 11
6. Câu hỏi nghiên cứu 11
7. Giả thuyết nghiên cứu 11
8. Phƣơng pháp nghiên cứu 12
9. Luận cứ nghiên cứu 12
10. Kết cấu của luận văn 13
CHƢƠNG 1 14
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG TỰ CHỦ, TỰ CHỊU
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC KH&CN 14
1.1. Những vấn đề cơ bản về tổ chức khoa học và công nghệ 14
1.1.1 Tổ chức 14
1.1.2. Hoạt động khoa học và công nghệ 14
1.1.3. Tổ chức khoa học và công nghệ 17
1.2. Lý luận về tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN 20
1.2.1 Tự chủ 20
1.2.2 Tự chịu trách nhiệm 22
1.2.3. Ý nghĩa của tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các tổ chức KH&CN 25
1.3. Chủ trƣơng, chính sách về tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức
KH&CN ở nƣớc ta 27
1.4 Một số kinh nghiệm về hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ
chức KH&CN trong và ngoài nƣớc 36
1.4.1. Kinh nghiệm về hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
KH&CN ngoài nước 36
1.4.2. Kinh nghiệm về hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
KH&CN ở một số địa phương trong nước 38
1.4.3. Bài học kinh nghiệm về hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các
tổ chức KH&CN trong và ngoài nước 41
Kết luận Chƣơng 1 43
CHƢƠNG 2 44
THỰC TRẠNG CỦA TRUNG TÂM ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KH&CN THÁI

BÌNH HIỆN NAY 44

5


2.1. Hiện trạng của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Thái Bình 44
2.1.1. Về cơ cấu tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực 44
2.1.2. Về công tác quản lý của đơn vị cấp trên đối với Trung tâm Ứng dụng
tiến bộ KH&CN Thái Bình 47
2.1.3. Hoạt động của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Thái Bình trong
giai đoạn 2008-2012 48
2.1.4. Tình hình tài chính 52
2.1.5. Cơ sở vật chất hạ tầng 53
2.2. Đánh giá hiện trạng của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Thái Bình
54
Kết luận Chƣơng 2 57
CHƢƠNG 3 59
CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM ỨNG
DỤNG TIẾN BỘ KH&CN THÁI BÌNH THEO CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU
TRÁCH NHIỆM 59
3.1. Mục tiêu phát triển của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Thái Bình
khi thực hiện chuyển đổi theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm 59
3.1.1. Về lựa chọn hình thức chuyển đổi 59
3.1.2. Về xây dựng cơ sở vật chất 59
3.1.3. Về phát triển nguồn nhân lực 60
3.1.4. Về hoạt động của Trung tâm 60
3.2. Một số thuận lợi, khó khăn trong thực tiễn khi thực hiện chuyển đổi theo
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm 61
3.3. Các giải pháp thúc đẩy hoạt động của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN
Thái Bình theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. 63

3.3.1. Xác định lộ trình chuyển đổi theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm 63
3.3.2. Chuyển đổi cơ cấu tổ chức, bộ máy 64
3.3.3. Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực 70
3.3.4. Chuyển đổi hoạt động KH&CN 73
Kết luận Chƣơng 3 79
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82








6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

UBND: Ủy ban nhân dân
KH&CN: Khoa học và Công nghệ
KT-XH: Kinh tế - Xã hội
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
NC-UD: Nghiên cứu - Ứng dụng
SX-KD: Sản xuất - kinh doanh
CNSH: Công nghệ sinh học
CBCNV: Cán bộ công nhân viên
CCHC: Cải cách hành chính
CNTT: Công nghệ thông tin




























7



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

TT
Số hiệu
Nội dung
Trang
1
Hình 1.1
Quan hệ giữa các loại hình nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ
13
2
Hình 1.2
Hoạt động KH&CN – Cơ sở để phân loại
tổ chức KH&CN
14
3
Hình 1.3
Sơ đồ lưu trình xây dựng và triển khai
công tác tổ chức KH&CN
16
4
Hình 2.1
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Trung tâm Ứng
dụng tiến bộ KH&CN Thái Bình
41
5
Bảng 2.1
Danh sách CBCNV trong đơn vị
42

6
Bảng 2.2
Phân loại nguồn nhân lực
43
7
Bảng 2.3
Danh mục các đề tài, dự án KH&CN giai
đoạn 2008-2012
47
8
Hình 3.1
Sơ đồ tổ chức bộ máy của Trung tâm Ứng
dụng tiến bộ KH&CN khi chuyển đổi
66
9
Bảng 3.1
Nhân lực dự kiến của trung tâm
69























8


MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Khoa học và công nghệ (KH&CN) là nền tảng và động lực đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển bền vững của mỗi Quốc gia,
phát triển dựa vào cơ sở KH&CN trở thành xu thế tất yếu của thời đại ngày
nay.
Trong quá trình xây dựng, bảo vệ đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng
và Nhà nước ta luôn xác định vai trò then chốt của KH&CN và coi các chính
sách phát triển KH&CN là quốc sách hàng đầu. Tuy nhiên, hoạt động
KH&CN của nước ta hiện nay vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, nhất là trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển
kinh tế tri thức trên thế giới.
Các tổ chức KH&CN là hệ thống tổ chức các cơ quan nghiên cứu –
phát triển tuy đã được sắp xếp và thay đổi từng bước, nhưng vẫn còn trùng
lặp, chưa đồng bộ, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, giảng dạy với
thực tiễn sản xuất - kinh doanh và với quốc phòng - an ninh; giữa các ngành
khoa học, giữa khoa học tự nhiên và công nghệ với khoa học xã hội và nhân

vǎn. Tinh thần hợp tác giữa các nhà khoa học, giữa các cơ quan nghiên cứu
khoa học còn yếu. Từ những đánh giá trên, quan điểm chỉ đạo về phát triển
KH&CN của Đảng và Nhà nước đã được chỉ rõ trong các văn kiện như: Nghị
quyết Trung ương 2 khoá VIII, Luật khoa học và công nghệ, Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ IX, Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX, Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số
20-NQ/TW) về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Từ năm 2000 đến nay, Nhà nước đã tiến hành công cuộc đổi mới triệt
để hơn và mang tính hệ thống về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động
của các tổ chức KH&CN. Xu hướng của đổi mới là từng bước thực hiện xã
hội hoá hoạt động KH&CN, hợp lý hoá phương thức tài trợ của Nhà nước,
từng bước xoá bỏ bao cấp, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của

9


các tổ chức KH&CN, đặc biệt là các tổ chức KH&CN công lập. Chủ trương
này được cụ thể hóa tại Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của
Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN
công lập (sau đây gọi tắt là Nghị định 115).
Các Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN ở địa phương trực thuộc Sở
KH&CN là đơn vị thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 115, tuy nhiên
hiện nay việc chuyển đổi hoạt động của các đơn vị này sang cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm theo tinh thần của Nghị định 115 vẫn gặp nhiều khó khăn, vì
trong quá trình tổ chức thực hiện, đơn vị đã gặp phải một số vướng mắc về
phương án chuyển đổi, cơ cấu bộ máy, tổ chức và hoạt động sau khi chuyển
đổi, điều kiện về cơ sở vật chất, hạ tầng, nhân lực để chuyển đổi…
Từ những lý do này, học viên đã lựa chọn “Các giải pháp thúc đẩy
hoạt động của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN địa phương theo cơ chế

tự chủ” (Nghiên cứu trường hợp Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và
Công nghệ Thái Bình) làm tên của luận văn với mục đích tìm ra các giải pháp
phù hợp giúp quá trình chuyển đổi theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tổ
chức và hoạt động của các Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN địa phương
nói chung và của Thái Bình nói riêng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo tinh
thần Nghị định 115.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Một trong những đặc điểm nổi bật ngày nay trong hoạt động KH&CN
là xu hướng hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Để tạo ra sự
gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động KH&CN với hoạt động sản xuất đòi hỏi các
tổ chức KH&CN nói chung phải chủ động mở rộng quan hệ, năng động trước
các diễn biến của tình hình kinh tế - xã hội, điều đó mới thể hiện đúng bản
chất của việc tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
KH&CN.
Ở nước ngoài, việc tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ
chức KH&CN được chú trọng và trở thành một trong nhiều yếu tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển KH&CN của quốc gia. Các nước cùng khu vực như

10


Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia, Singapo được coi là những nước
đi tiên phong và đã đạt được kết quả cao trong việc đẩy mạnh hoạt động của
các tổ chức KH&CN theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính, cơ
chế quản lý và nhân sự.
Ở Việt Nam, để thực hiện mục đích phát triển các tổ chức KH&CN ở
địa phương nói chung, các Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN nói riêng,
Chính phủ và các bộ, ngành chức năng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn
thực hiện trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị này trong việc tổ
chức công việc sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính

để hoàn thành nhiệm vụ được giao, phát huy mọi khả năng của đơn vị. Một
số Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN ở các tỉnh thành đã xây dựng Đề án
và chuyển đổi hoạt động theo cơ chế mới để nâng cao chất lượng hoạt động
KH&CN, tuy nhiên đối với thực tế tỉnh Thái Bình thì việc áp dụng các chính
sách của Trung ương, của tỉnh vào hoạt động của Trung tâm Ứng dụng tiến
bộ KH&CN Thái Bình còn gặp nhiều bất cập, khó khăn, còn thiếu những cơ
chế, chính sách phù hợp với việc chuyển đổi hoạt động theo cơ chế mới của
các tổ chức KH&CN nói chung trên địa bàn tỉnh và của Trung tâm ứng dụng
tiến bộ KH&CN Thái Bình nói riêng.
Với đề tài này, tác giả đã tổng hợp, tiếp thu những kết quả, kinh
nghiệm trong hoạt động KH&CN theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
các tổ chức KH&CN trong và ngoài nước; từ đó tiếp cận và đưa ra các giải
pháp gắn với thực tiễn tại địa phương nhằm khắc phục những bất cập, khó
khăn trong việc chuyển đổi hoạt động của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ
KH&CN Thái Bình theo cơ chế mới.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp chính sách phù hợp góp phần thúc
đẩy hoạt động của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Thái Bình trong quá
trình chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
4. Đối tƣợng nghiên cứu

11


Nghiên cứu và xác định mối quan hệ giữa các yếu tố tác động tới hoạt
động KH&CN theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
KH&CN địa phương nói chung và của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học
và công nghệ Thái Bình nói riêng.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn, trên cơ sở nội dung đã lựa chọn, luận văn

nghiên cứu trong phạm vi hoạt động của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ
KH&CN Thái Bình và các nội dung liên quan đến việc lựa chọn thông tin, tài
liệu phục vụ cho nghiên cứu luận văn trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2012.
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Thế nào là tự chủ, tự chịu trách nhiệm? Hoạt động tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các tổ chức KH&CN?
- Thực trạng hoạt động của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Thái
Bình hiện nay khi chưa chuyển sang hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm là
gì? Những bất cập còn tồn tại, cần phải giải quyết?
- Những giải pháp chính sách nào để nâng cao hiệu quả hoạt động của
Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Thái Bình theo cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm?
7. Giả thuyết nghiên cứu
- Khó khăn trong việc chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm theo Nghị định 115.
Các Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN địa phương nói chung và
của Thái Bình nói riêng đã trải qua rất nhiều giai đoạn khó khăn về cơ sở vật
chất, hạ tầng, trang thiết bị, con người cũng như hoạt động của đơn vị, nguồn
thu ít không đảm bảo được kinh phí và phải hoạt động dựa vào ngân sách nhà
nước cấp là chính.
Với điều kiện như vậy, việc tự chủ ngay theo Nghị định 115 là rất khó
nên các đơn vị này cần kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động để
thực hiện Nghị định 115 theo hướng phục vụ quản lý nhà nước.

12


- Chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm là thời cơ để
Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Thái Bình phát triển và hoạt động bền
vững

Việc chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định
115 vừa là thời cơ vừa là thách thức. Tuy nhiên, để chuyển đổi thành công,
đúng lộ trình và sau khi chuyển đổi hoạt động bền vững và phát triển, Trung
tâm cần phải lựa chọn mô hình hợp lý và bước đi thích hợp, đặc biệt là cần có
những giải pháp hỗ trợ kịp thời từ phía Nhà nước, từ vấn đề pháp lý, cơ chế
hoạt động, chế độ ưu đãi, đầu tư hạ tầng cơ sở, xây dựng tiềm lực trang thiết
bị, tiềm lực cán bộ cũng như phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ v.v.
- Các giải pháp chính sách để nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm
là kiện toàn lại và hoàn chỉnh bộ máy tổ chức, nhân lực, cơ sở hạ tầng nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động, do đó giữa công tác tổ chức và hoạt động phải có
sự gắn kết và đồng bộ với nhau.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
a, Phương pháp chứng minh giả thuyết
- Thu thập, nghiên cứu, tổng kết để có nguồn thông tin thứ cấp về hoạt
động của các tổ chức KH&CN nói chung và của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ
KH&CN Thái Bình nói riêng từ đó đưa ra được những nhận xét về thực trạng
hoạt động hiện nay của Trung tâm.
b, Phương pháp tiếp cận
- Tiếp cận về lịch sử: kinh nghiệm về hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN trong và ngoài nước;
- Tiếp cận về xã hội học: đánh giá về thực trạng hoạt động hiện nay của
Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Thái Bình trước khi chuyển đổi sang
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, từ đó rút ra những bất cập, khó khăn còn
tồn tại để khắc phục.
9. Luận cứ nghiên cứu
- Luận cứ lý thuyết: Một số vấn đề lý luận về tổ chức, tổ chức
KH&CN; khái niệm, vai trò, đặc điểm hoạt động của các tổ chức KH&CN;

13



vai trò của hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN
trong phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Luận cứ thực tiễn:
+ Một số vấn đề liên quan đến hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các tổ chức KH&CN trong và ngoài nước.
+ Các chủ trương, chính sách của Trung ương và địa phương và sự tác
động đối với hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN
trong nước.
+ Hiện trạng về cơ cấu tổ chức, bộ máy và hoạt động KH&CN của
Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Thái Bình.
10. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các tổ chức KH&CN.
Chương 2: Thực trạng của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Thái
Bình hiện nay.
Chương 3: Các giải pháp thúc đẩy hoạt động của Trung tâm Ứng dụng
tiến bộ KH&CN Thái Bình theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
















14


CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT
ĐỘNG TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC
KH&CN

1.1. Những vấn đề cơ bản về tổ chức khoa học và công nghệ
1.1.1 Tổ chức
Một tổ chức thường được định nghĩa là hai hay nhiều người làm việc,
phối hợp với nhau để đạt kết quả chung, hoạt động của tổ chức là một quá
trình đề ra những sự liên hệ chính thức giữa những con người và tài nguyên
để đi đến mục tiêu. Chức năng của tổ chức là tiến hành phối hợp các nỗ lực
qua việc thiết lập một cơ cấu về cách thực hiện công việc trong tương quan
với quyền hạn. Nói một cách khác, chức năng tổ chức là tiến trình sắp xếp các
công việc tương đồng thành từng nhóm, để giao phó cho từng khâu nhân sự
có khả năng thi hành, đồng thời phân quyền cho từng khâu nhân sự tùy theo
công việc được giao phó.
1.1.2. Hoạt động khoa học và công nghệ
Theo Luật KH&CN được Quốc hội thông qua số 21/2000/QH10 ngày
09/6/2000: hoạt động KH&CN bao gồm nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và
phát triển công nghệ, dịch vụ KH&CN, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến
kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển KH&CN.

Mục tiêu của hoạt động KH&CN là xây dựng nền KH&CN tiên tiến,

hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý; sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường; đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người mới Việt Nam; góp phần phát triển nhanh, bền vững KT-XH.
Trong hoạt động KH&CN, phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:
- Hoạt động KH&CN phải phục vụ nhiệm vụ phát triển KT-XH, bảo
đảm quốc phòng, an ninh;
- Xây dựng và phát huy năng lực nội sinh về KH&CN kết hợp với việc
tiếp thu có chọn lọc các thành tựu KH&CN của thế giới, phù hợp với thực
tiễn Việt Nam;

15


- Kết hợp chặt chẽ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ
với khoa học xã hội và nhân văn; gắn nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ với giáo dục và đào tạo, với hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển
thị trường công nghệ;
- Phát huy khả năng lao động sáng tạo của mọi tổ chức, cá nhân;
- Trung thực, khách quan, đề cao đạo đức nghề nghiệp, tự do sáng tạo,
dân chủ, tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Hoạt động khoa học là lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp vì nó khám phá
ra các tri thức về thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó sáng tạo ra các
nguyên lý giải pháp mới hay sáng tạo ra các mô hình kỹ thuật quản lý xã hội
mới phục vụ cho con người cải tạo thế giới, phát triển kinh tế xã hội, văn hóa.
Hoạt động khoa học tạo nên tính sáng tạo, tính mới, mang tính rủi ro cao và
đặc biệt vai trò cá nhân trong hoạt động khoa học rất lớn. Thực tiễn sản xuất,
hoạt động xã hội đặt ra nhiều vấn đề cho khoa học giải quyết và đòi hỏi khoa
học đưa ra những căn cứ, những nguyên lý giải pháp hay mô hình để phát
triển tri thức, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội phục vụ cho xã hội.

Hoạt động công nghệ là tất cả những hoạt động liên quan đến các quá
trình nghiên cứu - triển khai sản xuất và thị trường áp dụng công nghệ. Nội
dung chính của hoạt động công nghệ là biến các tri thức tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến thành những yếu tố của sản xuất nhằm nâng cao
sức sản xuất của xã hội và con người. Hoạt động công nghệ là hoạt động tạo
ra và hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới gồm các bước triển khai thực
nghiệm và sản xuất thử nghiệm.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng,
sự vật của tự nhiên, xã hội và tư duy, sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng
vào thực tiễn. Một trong các cách phân loại nghiên cứu khoa học là phân loại
theo tính chất của sản phẩm nghiên cứu. Theo đó nghiên cứu khoa học bao
gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.

16


Phát triển công nghệ là hoạt động tiếp theo nhằm tạo ra và hoàn thiện
công nghệ mới, sản phẩm mới. Sản phẩm của hoạt động này mới chỉ là những
vật mẫu, hình mẫu có tính khả thi về kỹ thuật để áp dụng vào một điều kiện
kinh tế hoặc xã hội nào đó. Ngoài ra còn phải nghiên cứu những tính khả thi
khác, như khả thi về tài chính, về kinh tế, về môi trường, về xã hội và chính
trị… Phát triển công nghệ bao gồm triển khai thực nghiệm và sản xuất
thử nghiệm. Quan hệ giữa các loại hình nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ
1

:













Hình 1.1. Quan hệ giữa các loại hình nghiên cứu

Đặc điểm chung nhất của nghiên cứu khoa học là tìm tòi những sự vật
mà người nghiên cứu chưa hề biết. Đặc điểm này dẫn đến hàng loạt các đặc
điểm khác nhau của nghiên cứu khoa học mà người nghiên cứu cũng như
người quản lý nghiên cứu cần phải quan tâm khi xử lý những vấn đề cụ thể về
mặt phương pháp luận về nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu. Các đặc tính cơ
bản của nghiên cứu khoa học là tính mới, tính kế thừa, khoa học sáng tạo,
khách quan và khả thi. Sản phẩm KH&CN mang tính thông tin. Mặt khác,
trong nghiên cứu KH&CN cũng có thể xẩy ra rủi ro, phi kinh tế.


1
: Theo PGS TS Vũ Cao Đàm (2009), Giáo trình Khoa học luận đại cương
Nghiên cứu cơ bản
Nghiên cứu
ứng dụng
Triển khai
Sản xuất thử
ở Serie 0
Làm pilot để tạo

quy trình
Tạo mẫu sơ khởi
(Prototype)
Nghiên cứu cơ bản
định hướng
Nghiên cứu cơ bản
thuần túy
Nghiên cứu
chuyên đề
Nghiên cứu
nền tảng

17


1.1.3. Tổ chức khoa học và công nghệ
a. Các loại hình tổ chức KH&CN
Theo Luật KH&CN, các tổ chức KH&CN bao gồm:
- Tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ (sau đây gọi chung là tổ chức nghiên cứu và phát triển);
- Trường đại học, học viện, trường cao đẳng ;
- Tổ chức dịch vụ KH&CN.
Trong đó các tổ chức nghiên cứu và phát triển được tổ chức dưới các
hình thức: viện nghiên cứu và phát triển, trung tâm nghiên cứu và phát triển,
phòng thí nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử nghiệm và cơ sở
nghiên cứu và phát triển khác.

















Hình 1.2. Hoạt động KH&CN – Cơ sở để phân loại tổ chức KH&CN
2

Căn cứ vào mục tiêu, quy mô tổ chức và phạm vi hoạt động, các tổ
chức nghiên cứu và phát triển được phân thành:
+ Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp quốc gia;


2
: Theo bảng phân loại hoạt động KH&CN ban hành kèm theo Quyết định số 12/2008/QĐ-BKHCN ngày
04/9/2008 của Bộ trưởng Bộ KH&CN
Hoạt động khoa học
và công nghệ
Sản xuất thử nghiệm
Phát triển công nghệ
Nghiên cứu khoa học
Dịch vụ khoa học
và công nghệ

Triển khai thực
nghiệm
Nghiên cứu
ứng dụng
Nghiên cứu cơ bản

18


+ Tổ chức nghiên cứu và phát triển của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp
bộ); tổ chức nghiên cứu và phát triển của tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi chung là tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp tỉnh); tổ chức
nghiên cứu và phát triển của cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương.
+ Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp cơ sở.
Tổ chức nghiên cứu và phát triển là một bộ phận thuộc các tổ chức
KH&CN. Dựa vào mục tiêu, nhiệm vụ của các tổ chức KH&CN mà người ta
phân loại như sau:
* Phân loại theo lĩnh vực KH&CN: Khoa học tự nhiên; khoa học kỹ
thuật (KH&CN); khoa học xã hội và nhân văn; khoa học nông nghiệp; khoa
học y dược học.
* Phân loại theo các hoạt động KH&CN: Nghiên cứu và phát triển
(R&D); Chuyển giao công nghệ; Dịch vụ KH&CN.
* Phân loại theo chủ thể sở hữu: Tổ chức KH&CN thuộc khu vực Nhà
nước; Tổ chức KH&CN thuộc khu vực tư nhân; Tổ chức KH&CN thuộc khu
vực tập thể; Tổ chức KH&CN thuộc khu vực đa quốc gia.
b. Nguyên lý hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ
Theo nguyên lý chung về tổ chức, tổ chức KH&CN được tạo ra nhằm
thực hiện mục tiêu của hoạt động KH&CN. Tổ chức KH&CN hoạt động theo

Luật KH&CN và các quy định có liên quan.
Theo Luật KH&CN, mục tiêu của hoạt động KH&CN là:
- Xây dựng nền KH&CN tiên tiến, hiện đại để phát triển lực lượng sản
xuất, nâng cao trình độ quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
môi trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng
con người mới, góp phần phát triển nhanh và bền vững KT-XH, nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm quốc phòng an ninh.


19



























Hình 1.3. Sơ đồ lưu trình để xây dựng và triển khai công tác
tổ chức KH&CN

Hoạt động của các tổ chức KH&CN thực hiện theo các nguyên tắc:
- Phục vụ nhiệm vụ phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng an ninh;
- Xây dựng và phát huy năng lực nội sinh về KH&CN của đất nước,
tiếp thu có chọn lọc các thành tựu KH&CN của thế giới phù hợp với thực tiễn
của đất nước;
XÂY DỰNG BỘ MÁY TỔ CHỨC
- Khung tổ chức cần thiết; sơ đồ tổ
chức; cấp quản lý (2-3 cấp)
• Yêu cầu người làm tổ chức: Phải
am hiểu chức năng nhiệm vụ từng
người (vị trí).
•Cứ 3-5 năm xem xét lại bộ máy tổ
chức và phải bổ sung, điều chỉnh hợp

QUY ĐỊNH CHỨC
NĂNG
- Các công việc phải
làm (cụ thể) để đạt
mục tiêu vạch ra.
- Yêu cầu người làm

tổ chức: Phải có
hiểu biết, hiểu quy
trình công nghệ.
- Chức năng của tổ
chức là “cỗ máy”.
XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU CỦA TỔ CHỨC
a. Các mục tiêu phải lập thành 1 hệ thống hỗ trợ
nhau:
- Mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội,
- Nhiệm vụ của tổ chức,
- Mục tiêu chiến lược dài hạn của tổ chức,
- Các mục tiêu cụ thể,
- Các mục tiêu của từng bộ phận trong tổ chức,
- Các mục tiêu cá nhân.
b. Các mục tiêu phải mang tính xác đáng (hội
nhập đủ các yếu tố định lượng, định tính và khả
thi), sắp xếp các mục tiêu theo thứ tự ưu tiên.
BỐ TRÍ CÁN BỘ ĐÚNG YÊU CẦU
- Bố trí người vào các tổ chức biên
chế.
- Yêu cầu người làm tổ chức: Phải am
hiểu nghề nghiệp, hiểu nguời cần bố
trí để hoàn thành nhiệm vụ
XÂY DỰNG CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐƠN VỊ.
- Để hoạt động có nề nếp.
- Để xử lý mọi công việc, các mối quan hệ (cách thức, thể
thức) – ( Mô tả, phân tích công việc của từng người, quản lý
trên cơ sở sơ đồ tổ chức, mục đích, yêu cầu, chức năng
quyền hạn )



20


- Kết hợp chặt chẽ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ
với khoa học xã hội và nhân văn, gắn khoa học với công nghệ với giáo dục
đào tạo;
- Phát huy khả năng lao động và sáng tạo của mọi tổ chức, cá nhân;
- Trung thực, khách quan và đề cao đạo đức nghề nghiệp, tự do sáng
tạo, dân chủ và tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Theo Luật KH&CN, nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động KH&CN là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và vận dụng vào thực tiễn để xây
dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách, luật pháp
và phát triển kinh tế-xã hội đất nước, làm giàu kho tàng tri thức thế giới;
- Nâng cao năng lực KH&CN để làm chủ và sáng tạo công nghệ.
- Tiếp thu các thành tựu KH&CN và thực hiện chuyển giao công nghệ
tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao.
1.2. Lý luận về tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức Khoa
học và Công nghệ
1.2.1 Tự chủ
Thuật ngữ “tự chủ” (Autonomy) đi với nhiều từ khác nhau, tạo ra các
cụm từ với khái niệm khác nhau như: tự chủ tài chính, tự chủ về kinh tế, tự
chủ về chuyên môn, tự chủ của tổ chức, cơ quan Thuật ngữ tự chủ trong các
cụm từ trên được hiểu là sự chủ động, tự quyết của chủ thể được tự quyết định
về một số lĩnh vực, một số mặt nào đó. Theo đó, thực hiện tự chủ là một sự
chia sẻ quyền lực, giao quyền cho cấp dưới nhiều hơn, giảm bớt sự tập trung
hoá và như vậy sẽ tăng hiệu quả quản lý của các cấp trong bộ máy quản lý.
Các cấp quản lý cần phải có thông tin đầy đủ hơn, nhất là trong quá trình phát
triển ngày càng phức tạp của xã hội hiện đại, Nhà nước sẽ khuyến khích việc
tự điều hành của cấp dưới.

Nguyên tắc tự chủ là cho phép tự do cần thiết, không có sự can thiệp
của bên ngoài, trong việc sắp xếp tổ chức và điều hành nội bộ cũng như phân
bổ trong nội bộ nguồn tài chính và tạo thêm thu nhập từ các nguồn ngoài phần
cấp phát của Nhà nước; tự do trong việc tuyển dụng nhân lực và bố trí điều

21


kiện làm việc cho họ; và tự do trong việc điều hành giảng dạy và nghiên cứu.

Khi một tổ chức được tự chủ thì tổ chức đó sẽ được tự mình quyết định các
mục tiêu, các ưu tiên và thực hiện các mục tiêu, ưu tiên này nếu các tổ chức
đó phục vụ xã hội tốt.
Theo các cách diễn đạt về tự chủ của tổ chức nói trên, thì tự chủ chính
là sự độc lập và tự do của các tổ chức trong việc xác định mục tiêu và các
phương tiện để thực hiện chúng. Theo tác giả Berdahl, 1990, có 2 loại tự chủ :
"tự chủ thực sự” hay “tự chủ về mặt bản chất”, và “tự chủ về quy trình”. Tự
chủ về bản chất là loại tự chủ mà ở đây, các tổ chức KH&CN được toàn
quyền, từ khâu tự định đoạt các hướng nghiên cứu, phát triển, các dịch vụ, và
đến khâu điều hành, không có sự can thiệp của các cấp quản lý trong việc
phân bổ, bố trí nguồn lực. Hoạt động của các tổ chức này chịu sự điều chỉnh
của pháp luật có liên quan, như: luật lao động, luật về tài chính, kiểm toán,
luật về thuế, luật chuyển giao công nghệ,
Tự chủ về bản chất thường gắn với các tổ chức tư nhân, nơi mà quyền
sở hữu thuộc về một hoặc một nhóm người, thì nhóm người này quyết định
phương thức hoạt động và điều hành của tổ chức. Người đứng đầu tổ chức
này có thể là người chủ sở hữu nhưng cũng có thể là người do chủ sở hữu
thuê và thường là người có uy tín khoa học trong cộng đồng. Họ được giao
quyền tự chủ (tự điều hành) tổ chức trên cơ sở điều lệ mà Hội đồng quản trị
đã thông qua. Quyền tự xác định hướng nghiên cứu do các tổ chức này quyết

định, dựa trên cơ chế thị trường và hạch toán kinh tế.
Tuy nhiên, tự chủ về bản chất cũng không phải là tuyệt đối đối với các
tổ chức KH&CN. Có rất nhiều tác động khác lôi cuốn các hướng hoạt động
của họ dựa trên định hướng chung về phát triển khoa học và công nghệ quốc
gia cũng như định hướng phát triển KT-XH. Trường hợp các tổ chức này
nhận các dự án nghiên cứu từ các quỹ là một ví dụ. Quỹ phát triển khoa học
và công nghệ ở các nước, phần lớn là có nguồn kinh phí từ chính phủ, các
chương trình nghiên cứu định hướng vào các ưu tiên quốc gia về KH&CN.

22


Và như vậy, định hướng phát triển KH&CN quốc gia tác động trực tiếp đến
hướng hoạt động của tổ chức này.
Tự chủ về quy trình (thủ tục): theo các học giả nước ngoài, tự chủ về
quy trình nghĩa là tự điều hành, từ khâu điều hành kế hoạch hoạt động, đến
khâu điều hành tài chính, nhân lực và đánh giá tổ chức. Tự chủ hay tự điều
hành này thường gắn với các tổ chức KH&CN công lập.
Tính tự chủ là một phạm trù khách quan, phản ánh thuộc tính tự do,
bình đẳng của các thực thể hoạt động trong nền kinh tế thị trường, bất kể
chúng thuộc hình thức sở hữu nào. Khi tính tự chủ của một tổ chức được Nhà
nước nhận thức và thể chế hoá thành văn bản, chỉ thị, quyết định và áp dụng
đối với thực thể nào đó thì gọi là quyền tự chủ. Khác với tính tự chủ, quyền tự
chủ là một phạm trù mang tính chủ quan, phụ thuộc vào nhận thức của chủ
thể quản lý, ra quyết định công nhận sự tự chủ của thực thể với mức độ khác
nhau.
Tự chủ của tổ chức KH&CN thường gắn liền với tự do trong hoạt động
KH&CN, tuy nhiên chúng không đồng nghĩa với nhau. Tự do trong hoạt động
KH&CN là một yếu tố rất tốt cho tự chủ, song lý tưởng nhất vẫn là có hiện
diện cả hai. Trên thực tế, có thể có tự chủ nhưng không có tự do trong hoạt

động KH&CN và ngược lại. Tuy nhiên, quyền thực hiện, huy động các nguồn
trí thức để thực hiện các mục tiêu đã được thông qua, cho dù có bị hạn chế
không ít nhưng vẫn được tăng cường trong trường hợp có mức tự chủ cao
3
.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng, tự chủ của các tổ chức khác nhau giữa các nước
và các địa phương nhưng bất kỳ tổ chức tự chủ nào cũng đều chịu sự điều
chỉnh của Nhà nước, chính phủ.
1.2.2 Tự chịu trách nhiệm
Giao quyền tự chủ cho các đơn vị là thực hiện việc phân quyền ra quyết
định cho các đơn vị, tổ chức. Ngày nay, nhiều nước có xu hướng mở rộng
quyền tự chủ cho các tổ chức KH&CN và mở rộng khía cạnh được tự chủ


3
: Theo Brooker Group,1999

23


cùng với việc đòi hỏi trách nhiệm của tổ chức cao hơn về kết quả hoạt động
của họ. Trách nhiệm ở đây có nghĩa là phải chứng minh các hoạt động đem lại
những kết quả nhất định bằng việc sử dụng hiệu qủa các phương tiện.
Theo quan niệm của Anh Quốc, thể hiện trong khái niệm tự chịu trách
nhiệm, Bộ Tài chính Anh Quốc đưa ra năm 1987, thì “tự chịu trách nhiệm là
trách nhiệm của ai đó về sự phát triển và thực thi chính sách và/hay quản lý
công việc và nguồn lực chứng tỏ được không chỉ sự đúng đắn mà cả tính kinh
tế, hiệu suất và hiệu quả của các chính sách và/hay việc quản lý trong suốt
một khoảng thời gian”.
Ở Mỹ, Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia (National Comusion on

Research) năm 1988 đưa ra 3 loại trách nhiệm:
- Trách nhiệm tài chính và hành chính: trách nhiệm đối với vốn về tài
chính và các qui định về hành chính.
- Trách nhiệm khoa học: Liên quan đến việc đạt được các kết quả và
tiến bộ như mục tiêu đã đề ra.
- Trách nhiệm xã hội: Liên quan đến các mục tiêu xã hội cụ thể mà tổ
chức phải thực hiện.
Tự chịu trách nhiệm của một tổ chức được Mortimer (1972) phân biệt
ra trách nhiệm bên trong và trách nhiệm bên ngoaì, tức là trách nhiệm đối với
xã hội nói chung và trách nhiệm đối với chính tổ chức nơi họ đang làm việc,
hoạt động. Ở đây liên quan đến chịu trách nhiệm về các quyền lợi khác nhau
với các cơ quan khác nhau, chịu trách nhiệm về chức năng của mình, chịu
trách nhiệm với các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp về hiệu quả hoạt
động về hành vi của đội ngũ nhân lực mà tổ chức đó quản lý và về sự đúng
đắn và quá trình ra quyết định trong nội bộ tổ chức.
Theo Mortimer (1972), cần có sự kiểm tra đối với tự chịu trách nhiệm.
Nhưng vấn đề là ở chỗ ai là người thực hiện việc kiểm tra đó. Trong xã hội
quản lý tập trung, cả giới chuyên môn và quản lý đều thực hiện việc này.
Trong xã hội thị trường, hầu hết sự kiểm tra được tiến hành thông qua kiểm
định. Trong xã hội hiện đại, dư luận công chúng luôn là yếu tố phản ánh sự

24


chịu trách nhiệm. Nhưng trong các nước đang phát triển, cơ chế dư luận công
chúng ít có tác dụng và sự chịu trách nhiệm không thực hiện được là mấy.


Tóm lại, quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm là hai mặt đi đôi với nhau
trong một cơ chế thống nhất. Cơ chế tự chịu trách nhiệm đòi hỏi người đại

diện cho quyền lực, cho cơ quan có quyền lực phải chịu trách nhiệm về các
mặt liên quan đến phạm vi được giao quyền quản lý, như: tự chịu trách nhiệm
về tài chính nói riêng và các nguồn lực được giao cho nói chung; tự chịu trách
nhiệm về kết quả đầu ra, về mức độ hoàn thành các nhiệm vụ đã đề ra hoặc
được cấp trên giao; tự chịu trách nhiệm về các quyết định ứng xử trong nội bộ
tổ chức.
Nói về tự chịu trách nhiệm phải đề cập đến các vấn đề sau:
- Ai phải chịu trách nhiệm?
- Chịu trách nhiệm về vấn đề gì?
- Chịu trách nhiệm trước ai?
- Chịu trách nhiệm như thế nào?
- Đánh giá, xem xét việc chịu trách nhiệm ra sao?
Có thể gộp hai khía cạnh chịu trách nhiệm về vấn đề gì và chịu trách
nhiệm như thế nào vào làm một. Ai chịu trách nhiệm liên quan đến mối quan
hệ giữa các tổ chức chịu trách nhiệm: có thể là những cá nhân, những tổ chức
đại diện hoặc toàn bộ tổ chức và cũng có thể là toàn bộ những đối tượng này.
Vấn đề chịu trách nhiệm liên quan đến những nhiệm vụ cụ thể hoặc các hành
động của tổ chức, trong đó kể cả mục tiêu và các hệ quả.
Vấn đề chịu trách nhiệm trước ai là đề cập tới người có trọng trách
trong mối quan hệ trách nhiệm. Người có trọng trách là người ra quyết định,
giao nhiệm vụ và cấp nguồn lực cho tổ chức. Trách nhiệm có thể là bên trong
hoặc bên ngoài. Trường hợp chịu trách nhiệm bên trong, người có trọng trách
có thể là cấp trên trực tiếp, người đứng đầu của cả tổ chức, nghiên cứu viên
cao cấp, nhóm chuyên gia,… hay toàn bộ những người nêu trên với tư cách là
chịu trách nhiệm tập thể. Trách nhiệm bên ngoài, người có trọng trách mà
phía tổ chức phải chịu trách nhiệm có thể là khách hàng, người đặt hàng về

25



nhiệm vụ KH&CN, kiểm toán nhà nước, các hiệp hội có liên quan, chính phủ,
các tổ chức KH&CN khác…
Vấn đề chịu trách nhiệm như thế nào là nói đến hệ thống giá trị của
chịu trách nhiệm. Nó quyết định các nguyên tắc, tiêu chuẩn về thất bại hay
thành công trong mối quan hệ trách nhiệm. Các tiêu chuẩn này tựa như thấu
kính quyết định trọng tâm của chịu trách nhiệm. Hệ thống giá trị của trách
nhiệm có thể là chính trị, pháp lý, chuyên môn, tinh thần,…Đối tượng chịu
trách nhiệm, chẳng hạn cương lĩnh chính trị, có thể thành công về mặt trách
nhiệm chính trị của người thực hiện nhưng lại thất bại về trách nhiệm tài
chính cũng của người thực hiện. Chính vì vậy cần có sự phân biệt về đối
tượng chịu trách nhiệm và trọng tâm (trọng điểm) của chịu trách nhiệm.
Đánh giá về chịu trách nhiệm là nói đến các phương pháp xác định,
đảm bảo và tiến hành đánh giá việc chịu trách nhiệm: các quy định trong xác
định mục tiêu, việc cấp kinh phí, các công cụ đo lường về số lượng và chất
lượng của việc thực hiện mục tiêu và mối tương tác giữa người có trọng trách
với tổ chức trong quá trình đánh giá.
1.2.3. Ý nghĩa của tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các tổ chức
KH&CN
Một là góp phần thúc đẩy đổi mới chính sách quản lý KH&CN: Thực
hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức KH&CN tạo ra một cơ
chế vận hành mới, một cách quản lý mới. Một mặt tiếp tục duy trì sự can
thiệp đối với tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN, mặt
khác, điều chỉnh cách can thiệp của nhà nước đối với hoạt động của các tổ
chức này. Những can thiệp quá sâu, quá cụ thể đã tỏ ra không thích hợp, làm
mất tính chủ động, năng động và linh hoạt của các tổ chức. Các nỗ lực cải
cách tập trung vào việc điều hành chủ yếu thông qua các công cụ gián tiếp và
giảm dần sự can thiệp vi mô trong tổ chức KH&CN; đưa một số yếu tố thị
trường trong hoạt động của các tổ chức này, trước hết là khâu xây dựng nhiệm
vụ, khâu thu hút tài chính…


26


Hai là tăng cường hoạt động đổi mới và phát triển nghiên cứu: Cùng
với việc mở rộng tính tự chủ, các tổ chức KH&CN phải đảm nhiệm tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cao hơn, kể cả trách nhiệm bên trong cũng như bên ngoài.
Các Chính phủ chỉ tập trung đầu tư cho các tổ chức hoạt động có kết quả và
đúng hướng, đúng trọng điểm ưu tiên của mình. Để tồn tại và phát triển buộc
các tổ chức KH&CN phải biết định hướng nghiên cứu theo trọng điểm ưu tiên
của nhà nước, Nhà nước cũng trang bị cho một số chính sách "bà đỡ" cho các
tổ chức này hướng vào nghiên cứu đổi mới.
Ba là thu hẹp mâu thuẫn giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng trong
các tổ chức KH&CN: Vấn đề quan trọng quyết định đến sự tồn tại của các tổ
chức KH&CN là quyền sở hữu của tổ chức đó. Quyền sở hữu bao gồm:
Quyền chiếm giữ, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối tượng sở hữu. Với
sở hữu Nhà nước, chủ thể chiếm giữ và chủ thể định đoạt là Nhà nước nhưng
chủ thể sử dụng lại là các đơn vị cụ thể. Vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm sẽ
phụ thuộc vào sự độc lập nhất định của quyền sử dụng và khả năng nắm giữ
quyền sử dụng của các tổ chức KH&CN.
Tách quyền sử dụng với quyền chiếm giữ và quyền định đoạt đối tượng
sở hữu nhằm tạo tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chủ thể sử dụng đối tượng
diễn ra khá nhiều và khá sớm. Các chủ tư bản thuê những giám đốc điều hành
hoạt động kinh doanh của công ty. Dưới thời phong kiến, lúc đầu các lãnh
chúa phong kiến trực tiếp chặn chiếm lao động thặng dư của nông dân, cưỡng
bức họ dành phần lớn thời gian làm việc trên lãnh địa của mình; tiếp theo,
hình thức địa tô công dịch được thay thế bởi địa tô hiện vật và địa tô tiền, tức
là người nông dân tự làm theo những cách của mình và nộp tiền cho địa chủ.
Trước nữa, tách quyền sử dụng và quyền chiếm giữ cũng xuất hiện trong thời
kỳ chiếm hữu nô lệ. Rõ ràng đây là những kinh nghiệm thực tế để các nước
tiến hành thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở tổ chức nghiên cứu-phát

triển Nhà nước.
Tóm lại, để thực hiện chính sách tăng quyền chủ động cho các tổ chức
KH&CN, ở các nước đã thúc đẩy một loạt các đổi mới chính sách trong quản

×