Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Thực trạng tìm kiếm tài liệu của sinh viên trong quá trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ (nghiên cứu trường hợp Trường Đại học Khoa học Xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 94 trang )

đại học quốc gia hà nội
trờng đại học khoa học xã hội và nhân văn
khoa xã hội học




Ngô thị kim h-ơng





Thực trạng tìm kiếm tài liệu của sinh viên trong
quá trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế
sang đào tạo tín chỉ
(Nghiên cứu tr-ờng hợp Tr-ờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội



luận văn thạc sỹ
chuyên ngành xã hội học
mã số 603130


giáo viên hƯớng dẫn: PGS.ts.Vũ Hào quang






Hà Nội - 2009




MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Lí do chọn đề tài: 3
2. Ý nghĩa khoa học & ý nghĩa thực tiến: 4
2.1. Ý nghĩa khoa học: 4
2.2 Ý nghĩa thực tiễn: 4
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu: 4
3.1 Mục đích nghiên cứu: 4
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: 5
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu: 5
4.1 Đối tượng nghiên cứu: 5
4.2 Khách thể nghiên cứu: 5
4.3 Phạm vi nghiên cứu: 6
4.4 Mẫu nghiên cứu: 6
5. Phương pháp nghiên cứu: 6
6. Giả thuyết nghiên cứu, khung lý thuyết: 8
6.1 Giả thuyết nghiên cứu: 8
6.2. Sơ đồ khung lý thuyết 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 10
1. Cơ sở lý luận 10
1.1. Phương pháp luận nghiên cứu: 10
1.2. Lý thuyết áp dụng: 11
1.2.1. Lý thuyết hành động xã hội của Max Weber 11
1.2.2. Lý thuyết chức năng cấu trúc của T. Parsons: (AGIL) 13

1.3 Các khái niệm công cụ: 15
1.3.1. Sinh viên: 15
1.3.3 . Đào tạo theo niên chế: 19
1.3.4. Tài liệu: 19

2
2. Cơ sở thực tiễn: 19
2.1 Tổng quan địa bàn nghiên cứu: 19
2.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu: 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN TÀI LIỆU, LOẠI TÀI LIỆU VÀ
MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG VIỆC TÌM KIẾM TÀI LIỆU CỦA SINH VIÊN 29
2.1. Thực trạng nguồn tài liệu, loại tài liệu và mức độ đáp ứng việc tìm
kiếm tài liệu của sinh viên : 29
2.1.1. Các nguồn tài liệu sinh viên hay tìm kiếm : 29
2.1.2. Loại tài liệu sinh viên hay tìm kiếm: 36
2.1.3.Mức độ tìm kiếm tài liệu của sinh viên: 42
2.1.4. Mức độ hài lòng của sinh viên về các nguồn tài liệu hay tìm kiếm: 49
2. 2. Các yếu tố tác động tới việc tìm kiếm tài liệu của sinh viên: 53
2.2.1. Chương trình đào tạo và nguồn nhân lực của nhà trường : 54
2.2.2. Điều kiện cơ sở vật chất, hệ thống tài liệu, phục vụ tra cứu tại thư
viện: 58
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 64
1. Kết luận: 64
2. Khuyến nghị: 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
PHỤ MỤC 71
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN 71
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU 76

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Chưa khi nào vai trò của giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học được
Đảng và nhà nước quan tâm như hiện nay.Đứng trước bất cập của tình hình
giáo dục hiện nay, Bộ giáo dục và đào tạo đã có chủ trương từ nay đến năm
2010 tất cả các trường đại học trong cả nước phải chuyển từ hình thức đào
tạo niên chế sang hình thức đào tạo tín chỉ
( hptt//vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2006/605425). Đây là mô hình
đào tạo khá mới mẻ đối với giáo dục Việt Nam. Việc chuyển đổi từ hình
thức đào tạo niên chế sang hình thức đào tạo tín chỉ sẽ giúp sinh viên Việt
Nam có cơ hội hội nhập với bạn bè quốc tế vì hầu hết các trường đại học trên
thế giới đào tạo theo hình thức đào tạo tín chỉ. Tuy nhiên, để việc chuyển
sang hình thức đào tạo tín chỉ được thành công đòi hỏi sự cố gắng không chỉ
của giảng viên mà còn của cả những người quản lý, những nhà hoạch định
chính sách giáo dục trong việc đưa ra những chính sách phù hợp lý. Trên cơ
sở đó, cùng với một số trường Đại học khác, năm học 2007-2008 Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội bắt
đầu áp dụng hình thức đào tạo tín chỉ thay cho đào tạo niên chế. Tuy nhiên,
do mới chuyển sang hình thức đào tạo tín chỉ nên chưa hoàn thiện được
phương pháp giảng dạy và học tập để phù hợp với hình thức đào tạo tín chỉ.
Dù là ngành khoa học mới hay những ngành đã làm nên bề dày truyền thống
giảng dạy – đào tạo trong nhà trường thì nhiệm vụ chính của sinh viên luôn
là học tập đạt chất lượng cao và bước đầu tham gia nghiên cứu khoa học
thông qua các hoạt động đa dạng như: làm seminar, viết tiểu luận cho tới báo
cáo thực tập, khóa luận hoặc tham gia vào đề tài nghiên cứu khoa
học…Việc tìm kiếm các loại tài liệu này dường như là nhu cầu tất yếu của
mỗi
sinh viên. Ở mức độ nào đó, nếu việc tìm kiếm trên được thoả mãn, nó sẽ
khuyến khích, tạo nên động lực cũng như hứng thú và tăng cường tính tích

cực chủ động cho họ trong hoạt động học tập, nghiên cứu.

4
Xác định được tầm quan trọng của việc tìm kiếm tài liệu của sinh viên
trong quá trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ, đặc biệt
với mong muốn góp phần giúp lãnh đạo nhà trường, lãnh đạo các khoa có
những thông tin cần thiết để nâng cao hơn chất lượng học tập - giảng dạy,
chúng tôi lựa chọn nghiên cứu: “ Thực trạng tìm kiếm tài liệu của sinh
viên trong quá trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ”.
2. Ý nghĩa khoa học & ý nghĩa thực tiến:
2.1. Ý nghĩa khoa học:
Các kết quả thu được ghi nhận về mặt lý thuyết cũng như thực nghiệm
của nghiên cứu nhằm vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, lý thuyết hành động xã hội của M.Weber, lý thuyết hệ thống xã hội
của Parson trong xã hội học.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn:
Từ thực trạng về tìm kiếm tài liệu của sinh viên trong quá trình chuyển
đổi từ đào tạo niên chế sang đào tao tín chỉ, đề tài hướng tới tìm hiểu những
nguyên nhân tác động tới việc tìm kiếm đó. Đồng thời, người nghiên cứu đề
xuất một số giải pháp làm cơ sở tham khảo cho lãnh đạo nhà trường, các
phòng tư liệu khoa, giúp nhà quản lý nắm được tâm tư, nguyện vọng của
sinh viên, từ đây tìm ra cách thức phù hợp đáp ứng nhiều hơn nữa việc tìm
kiếm tài liệu của sinh viên trong đào tạo tín chỉ nhằm nâng cao chất lượng
học tập của sinh viên.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu hướng tới việc đánh giá thực trạng tìm kiếm các tài liệu
của sinh viên như: nguồn và loại tư liệu sinh viên hay tìm trong quá trình
chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ sau khi đã qua một năm
học đào tạo theo học chế tín chỉ. Qua đây, người nghiên cứu phần nào có

được cái nhìn tổng quan về thực trạng tìm kiếm tài liệu của sinh viên hiện
nay, từ đó đưa ra giải pháp thiết thực để nâng cao hơn nữa hiệu quả học tập,
nghiên cứu cho sinh viên trong quá trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang
đào tạo tín chỉ.

5
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
 Tìm hiểu thực trạng tìm kiếm tài liệu của sinh viên trong quá
trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ gồm: nguồn tài liệu
hay tìm đọc, mức độ hài lòng về các nguồn tìm kiếm, mức độ tìm kiếm tài
liệu, loại tài liệu sinh viên hay tìm kiếm.
 Phân tích một số yếu tố tác động tới việc tìm kiếm tài liệu của
sinh viên tróng quá trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ
như: Giới tính, Khoa, chương trình giảng dạy - đào tạo của nhà trường;
nguồn nhân lực, điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, hệ thống tài liệu
phục vụ tra cứu của thư viện trường, phòng tư liệu các khoa và bộ môn trực
thuộc.
 Thời gian phục vụ, phương thức phục vụ đã đáp ứng nhu cầu
của sinh viên chưa?
 Đề xuất giải pháp cải tiến cách thức phục vụ và kinh phí phục
vụ.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu:
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng tìm kiếm tài liệu của sinh viên trong quá trình chuyển đổi
từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ.
4.2 Khách thể nghiên cứu:
Sinh viên K.51 trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn (hiện
đang học tại trường) là khóa học theo cả 2 hình thức đào tạo niên chế và đào
tạo tín chỉ. Do điều kiện thời gian và kinh phí không cho phép nên tác giả đề
tài đã tiến hành khảo sát một số khoa trong trường như: khoa Lịch sử, khoa

Triết học (hai khoa có truyền thống lâu đời của trường), khoa Xã hội học,
khoa Văn thư lưu trữ và Quản trị văn phòng, Khoa Du lịch học ( ba khoa
tương đối mới) với sinh viên năm K.51. Lựa chọn như vậy, người nghiên
cứu có thể xem xét thực trạng tìm kiếm tài liệu của sinh viên trong quá trình
chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ phù hợp với mục đích,
nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra.

6
4.3 Phạm vi nghiên cứu:
Thời gian: Tháng 9 năm 2008 đến tháng 11 năm 2009
Không gian: Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – Đại học
Quốc gia Hà Nội
4.4 Mẫu nghiên cứu:
 Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện: Phát phiếu tại các lớp
học vào buổi sáng & chiều tại khu giảng đường nhà G, nhà nối A – B, nhà
nối B – C và phòng tư liệu các khoa thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội
& Nhân văn vào hai ngày 26, 27 tháng 12 năm 2008
 Dung lượng mẫu: 290 phiếu dành cho các đối tượng là sinh viên hệ
chính quy K.51 khoa Lịch sử, Triết học, Xã hội học, Du lịch học, Lưu trữ và
quản trị văn phòng thuộc trường Đại học Khoa Học Xã hội & Nhân văn.
 Cơ cấu mẫu:
 Giới tính:
Nam: 33 người (11.4 %)
Nữ: 257 người (88.6 %)
 Khoa:
Khoa Lịch sử: 57 sinh viên (19.7 %)
Khoa Triết học: 59 sinh viên (20.3%)
Khoa Xã hội học: 58 sinh viên ( 20%)
Khoa Du lịch học: 52 sinh viên (18 %)
Khoa Văn thư lưu trữ và Quản trị văn phòng: 64 sinh viên ( 22%)


5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài luận văn sử dụng
các phương pháp sau: phương pháp phân tích tài liệu, điều tra bằng phiếu
trưng cầu ý kiến, phương pháp phỏng vấn sâu,
Phương pháp phân tích tài liệu:

7
- Nghiên cứu các lý thuyết để làm rõ cơ sở lý luận cho việc phân tích sự tác
động của các nhân tố đến thực trạng tìm kiếm tài liệu của sinh viên trong quá
trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ.
- Nghiên cứu tài liệu, các công trình khoa học liên quan để trình bày tổng
quan về vấn đề nghiên cứu và thu thập cơ sở thực tiễn cho việc phân tích các
nguyên nhân ảnh hưởng tới quá trình tìm kiếm tài liệu của sinh viên trong
quá trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ.
- Thu thập số liệu thống kê về sinh viên ở Trường Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn khóa K.51.
Phương pháp trưng cầu ý kiến:
- Phương pháp này được người nghiên cứu sử dụng nhằm thu thập những
thông tin cơ bản & có ý nghĩa nhất cho đề tài.
- Đối tượng điều tra: Sinh viên K51 khoa Xã hội học, khoa Du lịch, khoa
Lưu trữ và Quản trị văn phòng, khoa Lịch sử, khoa Triết học
- Nội dung điều tra: Hướng trọng tâm vào tìm hiểu thực trạng tìm kiếm tài
liệu của sinh viên trong quá trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo
tín chỉ
Phương pháp trao đổi, phỏng vấn sâu cá nhân:
- Trao đổi với các cán bộ phụ trách phòng tư liệu các khoa và bộ môn trực
thuộc trường, các thủ thư của thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Phỏng vấn sâu sinh viên K.51 để thu thập thêm các ý kiến về việc tìm kiếm
tài liệu của họ trong quá trình chuyển đổi từ đàíao tạo niên chế sang đào tạo

tín chỉ. Số lượng 09 sinh viên K.51.

Phương pháp quan sát:
- Đo đếm số lượt sinh viên K.51 đến phòng tư liệu khoa và bộ môn trực
thuộc so với sinh viên khóa khác trước kỳ thi để đánh giá sự khác nhau.
Ngoài các phương pháp nêu trên, quá trình nghiên cứu đề tài còn sử
dụng các phương pháp khác như quan sát, hỏi ý kiến chuyên gia, tâm tình trò
chuyện với cán bộ quản lý và sinh viên vào những thời điểm thuận lợi

8
6. Giả thuyết nghiên cứu, khung lý thuyết:
6.1 Giả thuyết nghiên cứu:
- Trong quá trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ sinh
viên tích cực và chủ động hơn trong việc tìm kiếm tài liệu phục vụ cho quá
trình học tập và nghiên cứu.
- Chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy của giảng viên có tác động
rất lớn đến việc tìm kiếm tài liệu của sinh viên trong quá trình chuyển đổi từ
đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ
- Phòng tư liệu các khoa chưa đáp ứng được hết các nhu cầu tìm kiếm tài
liệu của sinh viên trong quá trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào
tạo tín chỉ

6.2. Sơ đồ khung lý thuyết
Có rất nhiều nhân tố tác động đến thực trạng tìm kiếm tài liệu của sinh
viên trong quá trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ, đề
tài chỉ hướng vào phân tích nguồn tài liệu, loại tài liệu và mục đích tìm tài
liệu của sinh viên và 3 yếu tố chủ yếu tác động đến thực trạng đó là: chương
trình đào tạo của nhà trường, phương pháp giảng dạy của giáo viên và điều
kiện cơ sở vật chất, hệ thống kho tư liệu.


9
































Hình
thức
đào tạo
của
nhà trường


Nguồn nhân
lực của nhà
trường



Nhận thức
của sinh viên
Cơ sở vật chất, hệ thống tra cứu
tài liệu của thư viện trường,
phòng tư liệu khoa và các loại
tài liệu
Đặc điểm cá nhân của sinh viên:
 Giới
 Khoa
 Nơi ở


THỰC TRẠNG
TÌM KIẾM
TÀI LIỆU CỦA

SINH VIÊN

Loại tài
liệu tìm
kiếm

Mục
đích tìm
kiếm tài
liệu

Mức độ
tìm kiếm
tài liệu

Nguồn
tài liệu
tìm kiếm

10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI


1. Cơ sở lý luận
1.1. Phương pháp luận nghiên cứu:
* Lý luận xã hội học Mác Lênin:
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở nguyên tắc của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử luôn xem xét sự vật hiện
tượng trong quá trình phát triển và các mối liên hệ phổ biến.Chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là phương pháp luận để

lý giải các hiện tượng được nghiên cứu, hiện tượng nhu cầu xã hội cần ìm
kiếm tài liệu và thực trạng của việc tìm kiếm đó diễn ra như thế nào.
Nghiên cứu các hiện tượng xảy ra một cách bình thường, xem xét và
nghiên cứu nó như nó đang tồn tại khách quan. Cụ thể, chúng tôi nghiên cứu
các hoạt động tìm kiếm tài liệu của sinh viên diễn ra hàng ngày trên thư viện
và các phòng tư liệu đúng như những gì nó tồn tại. Quá trình nhận thức
không chỉ dừng lại ở các hiện tượng bên ngoài mà cần nhận thức được bản
chất bên trong của nó. Cụ thể là khi nghiên cứu thực trạng tìm kiếm tài liệu
của sinh viên trong quá trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín
chỉ chúng tôi không chỉ dừng lại ở việc mô tả thực trạng đó mà còn hướng
tới nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó. Nghiên cứu xã hội
học phải xuất phát từ thực tế lịch sử của mỗi xã hội cụ thể. Khi nghiên cứu
thực trạng tìm kiếm tài liệu của sinh viên trong quá trình chuyển đổi từ đào
tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ, rõ ràng chúng ta phải đặt nó trong bối cảnh
điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay của đất nước và đặt nó trong bối cảnh của
nền giáo dục ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay đó là muốn hội nhập với
nền giáo dục tiên tiến chúng ta phải thay đối chương trình học. Các trường
Đại học nổi trên thế giới đều đào tạo theo học chế tín chỉ, do đó thay đổi từ
học đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ là một tất yếu để giáo dục Việt
Nam tiến dần đến hội nhập với nền giáo dục chung của thế giới

11
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục:
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất đề cao vai trò của giáo dục. Bởi vì theo
Người, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con
người xã hội chủ nghĩa; tính người trong mỗi con người phần nhiều do giáo
dục mà nên. Hồ Chí minh xác định, xây dựng nền giáo dục mới là một nhiệm
vụ cấp bách, mang tính chiến lược. Mục tiêu của giáo dục phải vừa nâng cao
dân trí, vừa bồi dưỡng lý tưởng và tình cảm cách mạng, vừa bỗi dưỡng phẩm
chất tốt đẹp trong mỗi con người. Phương châm giáo dục của Người là “ học

đi đôi với hành”; “ lý luận đi đôi với thực tiễn”, kết hợp gia đình – nhà
trường – xã hội để giáo dục; dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; học suốt đời,
tự học, tự đào tạo. Trong giáo dục phải coi trọng xây dựng những đội ngũ
những người thầy xứng đáng là thầy giáo. Thầy giáo là những người thật là
yêu nghề, yêu người, giỏi chuyên môn, thuần thục về phương pháp và ham
học hỏi. Để giáo dục đạt hiệu quả cao, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải luôn
tự vươn lên về trình độ mọi mặt, đủ sức lãnh đạo công cuộc giáo dục, cải tổ
nền giáo dục của đất nước; mọi cán bộ , đảng viên của Đảng phải ra sức học
tập để làm gương cho quần chúng. Tư tưởng Hồ Chí Minh có thể rút ra
những vấn đề về phương pháp chỉ đạo trong đào tạo đội ngũ giáo viên. Hồ
Chí Minh căn dặn: “ Giáo viên thi đua tìm cách dạy cho dề hiểu, cho chóng
tiến bộ. Học sinh thì thi đua học cho chóng, cho nhiều, cho tốt” và “nhà
trường phải tạo điều kiện để giáo viên dạy tốt, học viên học tốt”( Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 6, trang 319). Điều này rất phù hợp với cách dạy trong
đào tạo tín chỉ hiện nay đó là đổi mới phương pháp giảng dạy trong đào tạo
tín chỉ.

1.2. Lý thuyết áp dụng:
1.2.1. Lý thuyết hành động xã hội của Max Weber

Hành động xã hội là một phạm trù trung tâm trong lý thuyết xã hội
học của Max Weber. Ông cho rằng, xã hội học là khoa học giải nghĩa hành

12
động xã hội. Không phải mọi hành vi của con người đều được coi là hành
động xã hội, nó chỉ trở thành hành động xã hội khi chủ thể gán cho nó một ý
nghĩa chủ quan và hướng tới người khác. Hành động có nghĩa là một thái độ
của con người (tự có hành động bên ngoài hoặc bên trong, không được phép
hoặc được phép), khi và chỉ khi chủ thể gắn liền thái độ của mình với một ý
nghĩa chủ quan. “ Hành động xã hội” thì lại là hành vi có định hướng ý nghĩa

theo thái độ của những người khác. < Hermann Korte, Nhập môn lịch sử Xã
hội học, NXB thế giới,1997, tr157>. Theo cách lý giải của M.Weber, hành
động xã hội là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội, đồng thời nó là sản phẩm của
ý chí chủ thể - tức con người xã hội.
M.Weber cho rằng phân loại các hành động xã hội là một cơ sở đề
nhận diện, mô tả các hành động xã hội phong phú, đa dạng của con người.
Trong lý thuyết của mình, M.Weber phân chia ra 4 hành động xã hội: hành
động duy cảm, hành động duy lý truyền thống, hành động duy lý giá trị và
hành động duy lý công cụ (hành động phù hợp với mục đích; hành động phù
hợp với gía trị; hành động truyền thống và hành động cảm xúc). Để có cơ sở
phân tích hành động xã hội, M.Weber đã đề xuất phương pháp “thông hiểu”
và vận dụng các kiểu điển hình lý tưởng. Thực chất, theo ông khi phân tích,
giải nghĩa hành động xã hội phải kết hợp kinh nghiệm của nhà xã hội học với
sự thấu hiểu văn hóa. Lý thuyết hành động xã hội của M.Weber đã gợi mở
những vấn đề phương pháp luận: hành động xã hội của con người dù ở kiểu
loại nào đều tính đến yếu tố ngoại cảnh, đều chịu sự chi phối, tác động của
xã hội ở mức khác nhau. Khi phân tích các trạng thái hành động xã hội của
con người phải căn cứ vào ý chí, nhu cầu, động cơ chủ thể; đồng thời phải
chú ý sự chi phối, tác động của các yếu tố xã hội.
Nghiên cứu lý thuyết hành động xã hội của M.Weber cho phép chúng
ta rút ra một số vấn đề về phương pháp luận: Mọi hành động xã hội của con
người xét cho cùng đều ít nhiều có liên quan hoặc chịu sự tác động của môi
trường xã hội. Do đó, trạng thái hành động của họ hợp chuẩn hay lệch chuẩn

13
hoàn toàn không phải do trạng thái tâm lý của họ quyết định, mà còn chịu sự
tác động của các yếu tố xã hội trong môi trường hoạt động của họ. Như vậy,
xét về mặt lý thuyết, thực trạng tìm kiếm tài liệu của sinh viên trong quá
trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ luôn chịu sự tác
động của nhiều yếu tố của môi trường giáo dục đại học. Trong trường Đại

học Khoa học xã hội và Nhân văn chương trình đào tạo của nhà trường,
phương pháp giảng dạy của giáo viên, cơ sở vật chất có tác động rất lớn đến
việc tìm tài liệu của sinh viên.

1.2.2. Lý thuyết chức năng cấu trúc của T. Parsons: (AGIL)
Parsons nổi tiếng với lý thuyết về hệ thống chức năng AGIL. Theo
ông, hệ thống bất kì trong đó kể cả hệ thống hành động phải được đáp ứng
bằng hệ thống chức năng AGIL.
 Thích nghi (Adaption): Một hệ thống phải đương đầu với các nhu cầu
khẩn thiết của hoàn cảnh bên ngoài. Nó phải thích nghi với môi trường của
nó và làm cho môi trường thích nghi với các nhu cầu của nó
 Đạt được mục tiêu (Goal attainment): Một hệ thống phải xác định và đạt
được các mục tiêu cơ bản của nó
 Hòa hợp (Integration): Một hệ thống phải điều hòa mối tương quan của
các thành tố bộ phận. Nó cũng phải điều hành mối quan hệ trong ba yếu tố
tất yếu chức năng còn lại (A,G,L)
 Sự tiềm tàng (Sự duy trì khuôn mẫu)( Latency): Một hệ thống phải cung
cấp, duy trì và tân tạo cả động lực thúc đẩy của các cá thể cũng như các
khuôn mẫu văn hóa đã sáng tạo và duy trì động cơ thúc đẩy
Trong đề tài này, chúng ta chỉ quan tâm tới chức năng về sự thích ứng
(Adaption). Ông đã định nghĩa chức năng là phức hợp các hành động nhằm
đáp ứng một hay nhiều nhu cầu của hệ thống. Với chức năng Adaption, ông
đưa ra luận điểm: một hệ thống bất kì cần phù hợp với đòi hỏi của môi

14
trường bên ngoài & những đòi hỏi của môi trường phải đáp ứng được nhu
cầu của hệ thống.
Từ đó vận dụng vào đề tài, nếu coi trường đại học như một hệ thống xã
hội, trong đó các khoa, bộ môn là bộ phận nằm trong hệ thống với nhiệm vụ
đào tạo sinh viên có chất lượng cao thì hệ thống thư viện trường, thư viện

khoa chính là những tiểu hệ thống đảm nhận chức năng cung cấp thông tin,
tài liệu hữu ích. Do đó, mọi hoạt động của tiểu hệ thống này cần phải hướng
vào thích ứng với chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu của hệ thống tức là đảm bảo
đáp ứng nhu cầu tìm đọc tài liệu của sinh viên học trong nhà trường, trong
mỗi khoa. Và để tiểu hệ thống thư viện hoạt động hiệu quả, hệ thống nhà
trường, các khoa cũng nên tạo điều kiện nhất định về cán bộ, cơ sở vật chất,
kinh phí, đào tạo nhân lực…
1.2.3. Lý thuyết trao đổi của G. Homans:
Với lý thuyết này, ông đưa ra một số định đề cơ bản về hành vi con
người trong đó có định đề về giá trị. Theo Homans, “kết quả hành động càng
có giá trị cao với chủ thể bao nhiêu thì chủ thể càng có xu hướng thực hiện
hành động đó bấy nhiêu”
Từ định đề của Homans, đối chiếu vào đề tài, rõ ràng nguồn tài liệu
nào càng có giá trị thì sinh viên sẽ khai thác nguồn đó nhiều hơn do nhu cầu
bản thân. Nói cách khác, nếu việc tìm kiếm tài liệu từ nguồn như thư viện
trường, phòng tư liệu các khoa hay bộ môn trực thuộc, mạng internet… có
thể đáp ứng một cách hiệu quả nhu cầu của sinh viên thì họ sẽ tìm kiếm tài
liệu càng nhiều cũng như sẽ tích cực tìm kiếm thêm những gì họ cần.
1.2.4. Lý thuyết lựa chọn hợp lý của Coleman
Coleman cho rằng xã hội tồn tại khách quan bên ngoài cá nhân và thực
tại xã hội là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên, cá nhân tồn tài trong
thực tại đó chỉ lựa chọn những nhân tố hợp lý với hoạt động của mình nhằm
đạt tới những mục tiêu chủ quan, có ý thức. Coleman đưa ra mô hình hành
động hợp lý để giải thích mối quan hệ duy lý. Vận dụng cách tiếp cận chọn

15
lựa hợp lý của mình, Coleman lý giải một loạt hiện tượng ở cấp độ vĩ mô.
Điều quan trọng trong lý thuyết này thể hiện ở chỗ các cá nhân lý giải các sự
kiện xã hội dựa trên cơ sở nhận thức chủ quan của cá nhân. Hành động mà
anh ta thực hiện bao giờ cũng thể hiện một mục đích nào đó. Hành vi của các

cá nhân mà xã hội quan sát được liên quan đến động cơ nào đó trong chủ thể
hành động. Tính hợp lý về mặt mục tiêu chỉ có thể giải thích được bằng
chính chủ thể hành động. Sự hài hòa giữa cá nhân và thực tại xã hội là ở chõ
cá nhân lựa chọn lĩnh vực hay loại hành động nào để phù hợp với môi trường
hành động của nó ( môi trường xã hội).
Lý thuyết lựa chọn hợp lý của Coleman được vận dụng vào lý giải
nhận thức của sinh viên về lợi ích tìm kiếm tài liệu trong điều kiện môi
trường xã hội là trường đại học hiên nay. Với việc trường Đại học Khoa học
xã họi và Nhân văn chuyển đổi sang hình thức đào tạo tín chỉ thay cho đào
tạo niên chế thì sinh viên phải lựa chọn nguồn tìm tài liệu hợp lý cho môi
trường học tập mới. Nói cách khác sinh viên cần có sự thay đổi trong việc
tìm nguồn tài liệu phục vụ học tập và nghiên cứu để có thể thích ứng được
với hình thức đào tạo mới. Những sinh viên này muốn học tập tốt hơn thì họ
cần lựa chọn cho mình một phương pháp học tập hợp lý và hoạt động tìm
kiếm tài liệu của sinh viên bao giờ cũng thể hiện một mục tiêu chủ quan, có
ý thức của sinh viên. Việc tìm kiếm tài liệu của sinh viên ở các phòng tư liệu
khoa và bộ môn trực thuộc cũng thể hiện sự lựa chọn hợp lý của họ trong
môi trường học tập mới – đào tạo tín chỉ, qua đó sinh viên có thể đạt tới
những mục tiêu trong học tập của mình.
1.3 Các khái niệm công cụ:
1.3.1. Sinh viên:
 Sinh viên bắt nguồn từ tiếng Latin “students” nghĩa là “những người làm
việc nhiệt tình, người tìm hiểu khai thác tri thức”.
(Theo Phạm Minh Hạc, “Tâm lí học sư phạm”, 1998)

16
 Theo quy chế đào tạo công tác học sinh – sinh viên trong trường đào
tạo: Sinh viên là những người đang học trong hệ đại học, cao đẳng.
 Có thể hiểu: sinh viên là những người đang học tập, rèn luyện, trau dồi tri
thức trong các trường cao đẳng - đại học. Họ sẽ là tầng lớp trí thức, đội ngũ,

cán bộ kế cận của đất nước. Nói đến sinh viên là nói đến hoạt động học tập
của một bộ phận thanh niên có mục đích, có lý tưởng; là lớp người tiên tiến,
nắm bắt khoa học – kỹ thuật nhanh nhạy, có năng lực làm chủ. Sinh viên có
kiến thức vững vàng cho thấy một nền giáo dục tiên tiến, một đất nước phát
triển.
 Sinh viên là những người theo học ở bậc Đại học (từ điển tiếng Việt)
Sinh viên là nhóm xã hôi luôn phấn đấu trong học tập và các hoạt động khác
ở trọng và ngoài trường, luôn hình thành cho mình một lý tưởng sống, những
mục đích trong cuộc sống và phấn đấu, rèn luyện để đạt được những mục
đích đó. Đặc biệt họ chính là nguồn nhân lực, có vai trò là đàu tầu đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Trong đề tài này người nghiên cứu sử dụng khái niệm “ Sinh viên”
theo từ điển Tiếng Việt.
1.3.2. Đào tạo theo tín chỉ:
- Tín chỉ ( có góc tiếng Anh là “ credit”) là đơn vị đo lường kiến thức mà sinh
viên tích luỹ được qua quá trình nghe giảng lý thuyết, làm bài tập, tự nghiên
cứu và tham gia các hoạt động thảo luận, thuyết trình việt tiểu luận… theo
yêu cầu và hướng dẫn của giáo viên. Học chế tín chỉ cho phép sinh viên đạt
được văn bằng Đại học qua việc tích luỹ đủ số tín chỉ theo quy đinh của
chương trình đào tạo. Một tín chỉ bao gồm nội dung 1 tiết lý thuyết trong một
tuần và kéo dài suốt một học kỳ ( 15 – 18 tuần). Các tiết học loại khác nhau
như thực hành, thực tập, 1 tín chỉ được tính bằng 3 tiết học trong một tuần và
kéo dài suốt một học kỳ. Để tiếp thu được nội dung 1 tiết học lý thuyết, sinh
viên bắt buộc phải có thời gian chuẩn bị, tự học, tự nghiên cứu bằng 2 tiết. Ở
Việt nam hiện nay, theo yêu cầu của Quyết định 31/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày

17
30/7/2001, số tín chỉ tối thiểu để sinh viên đạt được bằng cử nhân là 140 tín
chỉ. Trong đó 1 tín chỉ được quy định bằng:
- 15 giờ học lý thuyết (mỗi tiết học bằng 45 phút)

- 30 giờ thảo luận trên lớp, bài tập, thực hành
- 45 đến 60 giờ làm tiểu luận
- 45 giờ thực tập tại cơ sở
Chương trình đào tạo bao gồm 2 khối kiến thức: Khối kiến thức gíao dục đại
cương và khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp.Mỗi khối kiến thức có 2 học
phần:
* Nhóm học phần bắt buộc: Bao gồm những nội dung kiến thức chính yếu của
ngành đào tạo bắt buộc sinh viên phải tích luỹ.
* Nhóm học phần tự chọn bao gồm những học phần chưa đựng những kiến
thức cần thiết nhưng sinh viên có thể lựa chọn theo nhu cầu tích lũy kiến thức
và đảm bảo đủ số học phần quy định.
- Học phần là khối kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận lợi cho người học tích
luỹ trong quá trình học tập. Mỗi hoc phần có số lượng tối thiểu là 2 tín chỉ và
tối đa là 6 tín chỉ, được bố trí trọn vẹn và phân bổ trong cùng 1 học kỳ.
Với hình thức đào tạo tín chỉ, sinh viên có thể rút ngắn thời gian học tối
đa 2 học kỳ và kéo dài tối đa 4 học kỳ.
Điều kiện cần có để tiến hành hình thức đào tạo tín chỉ:
- Đã thiết kế hoàn chỉnh chương trình đoà tạo theo học chế tín chỉ. Mỗi ngành
dào tạo phải có nhiều học phần tự chọn để sinh viên có thể lựa chọn theo định
hướng phát triển nghề nghiệp.
- Có đủ các hướng dẫn về tổ chức đào tạo, chương trình đào tạo của từng
ngành đào tạo, chương trình chi tiết các học phần sẽ bố trí giảng dạy trong
từng học kỳ và lịch trình giảng dạy để cung cấp cho sinh viên.
- Có đủ số lượng giảng viên có trình độ chuyên môn để giảng dạy về lý
thuyết, thực hành, thực tập theo yêu cầu chuyên môn.
- Có đội ngũ tham gia làm cố vấn học tập để giúp đỡ sinh viên trong quá trình
học.

18
Hiện nay Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã bước đầu

thực hiện hình thức đào tạo tín chỉ. Theo “ Quy định đào tạo đại học hệ chính
quy theo tín chỉ ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn” có quy
định về tín chỉ học tập như sau:
1/ Tín chỉ là đại lượng xác định khối kiến thức, kỹ năng ( trung bình) mà sinh
viên tích luỹ được từ môn học trong 15 giờ tín chỉ ( cùng loại hoặc khác loại)
được thực hiện mỗi tuần 01 giờ tín chỉ và kéo dài trong học kỳ gồm 15 tuần.
Tín chỉ được sử dụng làm đơn vị để tích luỹ khối lượng học tập của sinh viên.
2/ Giờ tín chỉ là đại lượng được dùng làm đơn vị để đo thời lượng lao động
học tập của sinh viên. Giờ tín chỉ được phân thành 3 loại theo cơ cấu các hình
thức dạy – học, định lượng thời gian và được xác định như sau:
- Giờ tín chỉ lên lớp gồm 1 tiết lên lớp và 2 tiết tự học.
- Giờ tín chỉ thực hành gồm 2 tiết thực hành và 1 tiết tự học
- Giờ tín chỉ tự học gồm 3 tiết tự học.
( Mỗi tiết học được tính bằng 50 phút)
Hình thức tổ chức giờ tín chỉ là cách thức tổ chức thực hiện các hoạ
động của giảng viên và sinh viên theo quy định cảu đề cương môn học, trong
đó coi trọng khâu tự học, năng lực nghiên cứu, thực tập, thực hành, thực tế
nhằm tích luỹ đủ khối lượng kiến thức theo yêu cầu của môn học.
* Các hình thức tổ chức giờ tín chỉ như sau:
+ Dạy và học trên lớp: Dạy và học lý thuyết, làm bài tập, thảo luận và các
hoạt động khác do giảng viên yêu cầu.
+ Dạy và học trong phòng thí nghiệm, studio, hiện trường: Làm thí nghiệm,
thực hành
+ Dạy và học ngoài lớp, ngoài phòng thí nghiệm: Tự học, tự nghiên cứu, các
hoạt động theo nhóm để hỗ trợ thảo luận, thực hành, thực tập.
* Đặc điểm của chương trình đào tạo tín chỉ:
( Theo hướng dẫn chuyển đổi chương trình đào tạo của Đại học Quốc Gia)
chương trình đào tạo tín chỉ có những đặc điểm cơ bản sau:
- Khối lượng từ 120 đến 140 tín chỉ
- Khung chương trình mỗi môn học gồm có:


19
+ Thời gian học tập trên lớp
+ Thời gian thực tập, thực hành
+ Thời gian tự nghiên cứu, chuẩn bị bài ở nhà.
Ngoài các môn bắt buộc, các ngành học đếu có các môn học tự chọn, tạo
điều kiện thuận lợi cho người học lựa chọn, bố trí kế hoạch học tập phù hợp
với điều kiện, khả năng của mình.
* Ưu điểm của đào tạo tín chỉ: Lấy người học làm trung tâm của quá trình
đào tạo. Chương trình đào tạo phải mềm dẻo, linh hoạt để đại học dễ dàng
đáp ứng các nhu cầu luôn biến động của thị trường nhân lực.
1.3.3 . Đào tạo theo niên chế:
Chương trình đào tạo bao gồm 2 khối kiến thức: Khối kiến thức giáo
dục đại cương và khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp.Mỗi môn học được
tính bằng số đơn vị học trình ( 1 đơn vị học trình 15 tiết). Chương trình học
được chia làm 4 năm, mỗi năm học 10 tháng và chia ra làm 2 học kỳ. mỗi
học kỳ sinh viên học từ 20-22ĐVHT và sau 4 – 5 năm học sinh viên sẽ thi
tốt nghiệp và được cấp bằng. Sinh viên học theo khóa học nhất định
1.3.4. Tài liệu:
Là dạng vật chất ghi nhận những thông tin dưới dạng văn bản, âm
thanh, đồ hoạ, hình ảnh, phim, video nhằm mục đích bảo quản, phổ biến và
sử dụng.
(Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam)
Tài liệu trong nghiên cứu của đề tài là khóa luận, luận văn, luận án, sách báo
chuyên ngành.
2. Cơ sở thực tiễn:
2.1 Tổng quan địa bàn nghiên cứu:
Đại học Quốc gia Hà Nội (tên giao dịch bằng tiếng Anh: Vietnam
National University, Hanoi; viết tắt là VNU) được thành lập theo Nghị định
số 97/ CP ngày 10 tháng 12 năm 1993 của Chính phủ trên cơ sở tổ chức, sắp

xếp lại 3 trường đại học lớn ở Hà Nội: Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học
Sư phạm Hà Nội I và Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Đại học Quốc gia

20
Hà Nội (ĐHQGHN) chính thức bước vào hoạt động theo Quy chế do Thủ
tướng Chính phủ ban hành ngày 5/9/1994.
Truyền thống của ĐHQGHN gắn với lịch sử hình thành và phát triển của
những trường đại học tiêu biểu ở Việt Nam trong suốt bề dày của thế kỷ XX,
bắt đầu từ Trường đại học Đông Dương (16/5/1906) có cơ sở tại 19 Lê
Thánh Tông, Hà Nội. Đây là trường đại học kiểu hiện đại đầu tiên ở Việt
Nam (thời kỳ Pháp thuộc) được tổ chức theo mô hình trường đại học đa
ngành, đa lĩnh vực. Hiện nay Đại học Quốc gia có 6 trường thành viên:
- Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn
- Trường Đại học Khoa học tự nhiên
- Trường Đại học Ngoại ngữ
- Trường Đại học Khoa học Công nghệ
- Trường Đại học Kinh tế
- Trường Đại học giáo dục
Bảng 1: Thống kê hàng năm nhân lực khoa học ĐHQGHN
theo học hàm, học vị

NĂM
GIÁO

P. GIÁO

TSKH
TIẾN SĨ
TH.SĨ
GHI CHÚ

2004
88
269
49
660
563

2005
54
207
30
510
640

2006
41
225
25
530
700

2007
44
252
26
541
695

2008
44

252
26
541
695
Tính đến
31/6/2008
(Nguồn: Thống kê nhân lực KH&CN-Ban Tổ chức Cán bộ, ĐHQGHN, 7/2008)
Tổ chức tiền thân của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội là Trường Đại học Văn khoa Hà Nội (thành lập
theo sắc lệnh số số 45 do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ngày 10/10/1945), tiếp đó
là Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (thành lập ngày 05/06/1956). Ngày
10/12/1993, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 97/CP thành lập Đại

21
học Quốc gia Hà Nội, trong đó có Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, được thành lập trên cơ sở các khoa xã hội của Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội.
Trong hơn sáu mươi năm xây dựng và phát triển, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn luôn được nhà nước Việt Nam coi là một trung tâm đào
tạo và nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn lớn nhất của đất nước, có nhiệm
vụ đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học cơ bản trình độ cao, phục vụ cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn trực thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội chính thức thành lập tháng 9/ 1995. Hiệu trưởng đầu tiên
của Nhà trường là PGS.TS. Phùng Hữu Phú. Sự nghiệp đào tạo của trường
gắn với tên tuổi các đại học lớn của Việt Nam trong lịch sử. Tiền thân của
trường là Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập ngày 5/6/1956. Trường
có đội ngũ giảng viên chuyên môn cao, có nhiều giáo sư đầu ngành đã được
phong các danh hiệu cao quý: nhà giáo Nhân Dân, nhà giáo Ưu tú.
Thành tích về đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường được thể hiện

thông qua các danh hiệu: Huân chương Lao động hạng Nhất năm (1981),
Huân chương Độc lập hạng Nhất (2001), danh hiệu Anh hùng Lao động thời
kì đổi mới (2005); 8 nhà giáo được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và 13 nhà
giáo được tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học, công nghệ; 23 nhà giáo
được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân và 40 nhà giáo được phong
tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú.
Trung kiên và tiên phong, chuẩn mực và sáng tạo là những giá trị truyền
thống cốt lõi của nhà trường, luôn được các thế hệ cán bộ, sinh viên giữ gìn
và phát huy.
Là một trường đại học trọng điểm, đầu ngành, có uy tín và truyền
thống lâu đời, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội có sứ mệnh đi đầu trong sáng tạo, truyền bá tri thức và đào tạo

22
nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học xã hội và nhân văn, phục vụ sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Các chương trình đào tạo:
- Đào tạo đại học: 27 chương trình / 18 ngành
- Đào tạo thạc sĩ: 26 chuyên ngành
- Đào tạo tiến sĩ: 28 chuyên ngành
Các loại hình đào tạo:
- Chính quy: 18/18 ngành
- Không chính quy: 11/18 ngành
- Liên kết quốc tế: 06 ngành (đại học: 03; sau đại học: 03)
* Tổng số cán bộ, sinh viên của trường (tính đến 30/11/2008)
Tổng số cán bộ: 513, bao gồm 134 cán bộ hành chính và 379 giảng viên.
Tính đến 11/2008 nhân lực khoa học trường Đại học khoa học xã hội và
Nhân văn theo học hàm, học vị như sau
- Giáo sư: 06
- Phó giáo sư: 55

- Tiến sỹ: 130
- Thạc sỹ: 177
( Nguồn Phòng tổ chức cán bộ)
Ngoài số giảng viên cơ hữu trên còn có 176 giảng viên thỉnh giảng
* Sinh viên nước ngoài: 562, bao gồm:
+ Sinh viên đại học: 26
+ Học viên cao học: 21
+ Nghiên cứu sinh: 8
+ Học tiếng Việt: 507
Tổng số sinh viên chính qui là 5.472 sinh viên; tổng số sinh viên tại chức là
4.571 sinh viên ( Nguồn: Phòng chính trị và công tác sinh viên, trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn); tổng số học viên cao học 2.122 là học

23
viên; tổng số nghiên cứu sinh là 161 NCS ( Nguồn: Phòng Sau đại học,
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn)
Về cơ sở vật chất hiện tại, trường đóng trên địa bàn Thanh Xuân có
tổng diện tích là 23.000m
2
. Phòng làm việc và phòng học

với các trang thiết
bị thiết yếu phục vụ việc dạy và học như hệ thống âm thanh, máy vi tính và
các thiết bị trình chiếu như Overhead, Slide, Video, Projector…Năm học
2008-2009 nhà Trường đưa vào sử dụng 02 phòng học tầng 4 nhà nối A-B và
nhà I tăng thêm diện tích phòng học cho sinh viên. Năm học 2009-2010 Nhà
trường đã trang bị cho mỗi bộ môn trực thuộc khoa 01 máy tính xách tay.
Đây thực sự là sự cố gắng nỗ lực của nhà trường về cơ sở vật chất nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học trong đào tạo tín chỉ.
Từ nay đến năm 2010, nhà Trường thực hiện 6 chương trình hướng tới

mục tiêu chuẩn hoá và hiện đại hoá các mặt hoạt động của nhà Trường
1. Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức trong Nhà
Trường.
2. Chuẩn hoá đội ngũ cán bộ và công tác tổ chức, quản lý trong nhà Trường
3. Tiếp tục đổi mới các hoạt động đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo đại
học và sau đại học.
4. Mở rộng và nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác nghiên cứu
khoa học và hợp tac quốc tế.
5. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hoá cơ sở vật chất phục
vụ các hoạt động của nhà Trường.
6. Chuẩn hoá các hoạt động lao động, học tập và tiếp tục xây dựng môi
trường văn hoá nhân văn.
Lý do chúng tôi chọn trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn làm đại
bàn nghiên cứu vì những lý do sau:
Thứ nhất, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn là ngôi
trường giàu truyền thống. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
chính là sự tiếp nối và phát triển lên một bước truyền thống của Trường Đại

24
học Văn Khoa. Trong quá trình hình thành và phát triển, các thế hệ thầy và
trò của Nhà Trường đã không ngừng phấn đấu, phát huy những truyền thống
tốt đẹp của trường, đồng thời khắc phục những mặt chưa mạnh để đưa Nhà
Trường trở thành một trong những trung tâm đào tạo và nghiên cứu hàng đầu
của đất nước theo hướng công nghiệp hoá – hiện đại hoá.
Thứ hai, trong năm học 2007-2008 Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn đã chuyển đổi từ hình thức đào tạo niên chế sang hình thức đào
tạo tín chỉ. Trong quy định đào tạo Đại học chính quy theo tín chỉ ở Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã đưa ra mục tiêu đào tạo như sau:
Đào tạo cử nhân các ngành khoa học xã hội nhân văn:
1/ Có lập trường tư tưởng, chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, ý

thức nghề nghiệp đúng đắn, trung thực trong khoa học; nhận thức đúng đắn
về các giá trị xã hội và có thái độ ứng xử phù hợp với các giá trị đó; thể hiện
rõ ràng trách nhiệm nghề ngiệp và ý thức cộng đồng.
2/ Có kiến thức chuyên môn đủ sâu và rộng để hoạt động tốt trong lĩnh vực
chuyên môn của mình, có khả năng áp dụng kiến thức vào hoạt động thực tế.
3/ Có khả năng tự học hỏi và học tập suốt đời nhằm tự nâng cao năng lực cá
nhân và đạt được thành công trong hoạt động chuyên môn; có khả năng tự
đánh giá và thẩm định kiến thức hiện có của mình; hiểu và chấp nhận các
điểm yếu, điểm mạnh của bản thân, nắm được phương pháp và chiến lược
học tập phù hợp với bản thân; chủ động và linh hoạt trong việc thích ứng với
những thay đổi của môi trường làm việc cũng như trong cuộc sống.
4/ Có khả năng làm việc theo nhóm làm việc độc lập; có kỹ năng giải quyết
vấn đề một cách tích cực, sáng tạo và hiệu quả.
Đối với sinh viên chất lượng cao, ngoài việc đảm bảo mục tiêu về
kiến thức, kỹ năng và thái độ như trên, sinh viên còn phải đáp ứng các yêu
cầu: Có kiến thức chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo; có khả năng sử
dụng ngoại ngữ trong giao tiếp với các đồng nghiệp nước ngoài về chuyên
môn và những vấn đề xã hội thông thường; có khả năng sử dụng tốt các công

×