Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

Phép liên kết nối và phép liên kết từ vựng ( trong các văn bản tập đọc văn xuôi, sách tiếng Việt lớp 4,5 chương trình mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 155 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
* * *



LƯU THỊ LAN






PHÉP LIÊN KẾT NỐI VÀ PHÉP LIÊN KẾT TỪ VỰNG
(TRONG CÁC VĂN BẢN TẬP ĐỌC VĂN XUÔI,
SÁCH TIẾNG VIỆT LỚP 4, 5 CHƯƠNG TRÌNH MỚI)





LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC














HÀ NỘI - 2007

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
* * *



LƯU THỊ LAN




PHÉP LIÊN KẾT NỐI VÀ PHÉP LIÊN KẾT TỪ VỰNG
(TRONG CÁC VĂN BẢN TẬP ĐỌC VĂN XUÔI,
SÁCH TIẾNG VIỆT LỚP 4, 5 CHƯƠNG TRÌNH MỚI)


CHUYÊN NGÀNH : NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ : 60 22 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC




Người hướng dẫn khoa học :
TS. NGUYỄN THỊ THUẬN










HÀ NỘI - 2007

MỤC LỤC








Trang
MỞ ĐẦU







1
1
Lý do chọn đề tài

1
2
Lịch sử vấn đề

2
3
Đối tượng nghiên cứu

3
4
Ngữ liệu nghiên cứu

4
5
Nhiệm vụ nghiên cứu

4
6
Phương pháp nghiên cứu

5
7
Cấu trúc của luận văn

5

Chương 1







Cơ sở lí thuyết của đề tài



6
1.1
Về văn bản

6
1.2
Về liên kết

8
1.3
Phương tiện và phương thức liên kết



16

1.3.1 Khái niệm


16

1.3.2 Các phép liên kết trong tiếng Việt

17
Chương 2







Phép liên kết nối trong các văn bản tập đọc văn xuôi,
sách Tiếng Việt lớp 4, 5

25
2.1
Các phương tiện nối có mặt trong các văn bản tập đọc
văn xuôi lớp 4, 5

25

2.1.1 Các phương tiện nối có mặt trong các văn bản tập đọc
văn xuôi lớp 4

25

2.1.2 Các phương tiện nối có mặt trong các văn bản tập đọc
văn xuôi lớp 5


34

2.1.3 Đối chiếu các phương tiện nối trong các văn bản tập đọc
văn xuôi lớp 4 và lớp 5

40
2.2
Các kiểu quan hệ được tạo ra bằng phương tiện nối trong
các văn bản tập đọc văn xuôi lớp 4, 5

43

2.2.1 Các kiểu quan hệ được tạo ra bằng phương tiện nối trong
các văn bản tập đọc văn xuôi lớp 4

44

2.2.2 Các kiểu quan hệ được tạo ra bằng phương tiện nối trong
các văn bản tập đọc văn xuôi lớp 5

55

2.2.3 Đối chiếu giữa các kiểu quan hệ được tạo ra bằng phương
tiện liên kết nối trong các văn bản tập đọc văn xuôi lớp 4 và lớp 5

63
2.3
Khả năng tạo giá trị biểu đạt của một số phương tiện nối trong
các văn bản tập đọc văn xuôi lớp 4, 5


67

2.3.1 Khả năng tạo giá trị biểu đạt của một số phương tiện thuộc
phép liên kết nối trong các văn bản tập đọc văn xuôi lớp 4

68

2.3.2 Khả năng tạo giá trị biểu đạt của một số phương tiện thuộc
phép liên kết nối trong các văn bản tập đọc văn xuôi lớp 5

71

2.3.3 Nhận xét chung về khả năng tạo giá trị biểu đạt của một số
phương tiện thuộc phép liên kết nối trong các văn bản tập đọc
văn xuôi lớp 4 và lớp 5

73
Chương 3







Phép liên kết từ vựng trong các văn bản tập đọc
văn xuôi, sách Tiếng Việt lớp 4, 5

77

3.1
Phép liên kết từ vựng trong các văn bản tập đọc văn xuôi
lớp 4, 5

77

3.1.1 Phép liên kết từ vựng trong các văn bản tập đọc văn xuôi
lớp 4

77

3.1.2 Phép liên kết từ vựng trong các văn bản tập đọc văn xuôi
lớp 5

96

3.1.3 Đối chiếu phép liên kết từ vựng trong các văn bản tập đọc
văn xuôi lớp 4 và lớp 5

110
3.2
Khả năng tạo giá trị biểu đạt của phép liên kết từ vựng trong
các văn bản tập đọc văn xuôi lớp 4, 5

120

3.2.1 Khả năng tạo giá trị biểu đạt của phép liên kết từ vựng
trong các văn bản tập đọc văn xuôi lớp 4

120


3.2.2 Khả năng tạo giá trị biểu đạt của phép liên kết từ vựng
trong các văn bản tập đọc văn xuôi lớp 5

127

3.2.3 Nhận xét chung về khả năng tạo giá trị biểu đạt của phép
liên kết từ vựng trong các văn bản tập đọc văn xuôi lớp 4 và lớp
5

133
KẾT LUẬN






137
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN






1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về liên kết trong văn bản và giữa họ
có những cách hiểu về liên kết không hoàn toàn giống nhau. Một cách khái quát
nhất, đến nay cần phải nói đến hai quan niệm lớn về liên kết.
Quan niệm thứ nhất thịnh hành ở giai đoạn "các ngữ pháp văn bản"
[4,119] và ngày càng đƣợc phổ biến rộng rãi ở Việt Nam. Quan niệm này coi
liên kết văn bản thuộc mặt cấu trúc của hệ thống ngôn ngữ. Tiêu biểu cho quan
niệm này là quan niệm của nhà nghiên cứu ngôn ngữ Trần Ngọc Thêm với cuốn
"Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt" [37].
Quan niệm thứ hai thịnh hành vào những năm 70 của thế kỉ XX. Theo
quan niệm này thì liên kết không thuộc cấu trúc mà thuộc về hệ thống ngôn ngữ,
và đƣợc thực hiện bằng phƣơng tiện hình thức của hệ thống ngôn ngữ ở bậc từ
vựng - ngữ nghĩa. Với cách hiểu này, liên kết không giữ vai trò là yếu tố quyết
định cái "là văn bản" của sản phẩm ngôn ngữ mà vai trò này thuộc về mạch lạc.
Tiêu biểu cho quan niệm thứ hai này là hai nhà ngôn ngữ tên tuổi của Anh là
M.A.K. Halliday và R. Hasan với cuốn "Liên kết tiếng Anh".
Từ các quan điểm khác nhau đó mà có cách phân loại các phƣơng thức
liên kết khác nhau. Chỗ hai quan niệm gặp nhau là một số phƣơng tiện liên kết
cụ thể đƣợc xem xét.
Việc khảo sát một số công trình nghiên cứu về liên kết văn bản tiếng Việt
cho thấy rằng hệ thống liên kết của M.A.K Halliday và R. Hasan gần đây đƣợc
Diệp Quang Ban khai thác trong công trình nghiên cứu "Văn bản và liên kết
trong tiếng Việt" năm 1998 (in lần thứ ba năm 2005).
Việc chọn hệ thống liên kết của M.A.K Halliday và R. Hasan làm đối
tƣợng nghiên cứu không ngoài mục đích là để hiểu sâu sắc hơn một quan niệm
liên kết mới đang đƣợc chấp nhận rộng rãi trên thế giới.

2
Hệ thống liên kết của M.A.K Halliday và R. Hasan gồm có:
- Phép quy chiếu,
- Phép thế và phép tỉnh lƣợc,

- Phép nối,
- Phép liên kết từ vựng (bao gồm 3 phép nhỏ là phép lặp từ ngữ, phép
dùng từ ngữ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa và phép phối hợp từ ngữ).
Luận văn của chúng tôi chỉ đề cập đến phép liên kết nối và phép liên kết
từ vựng, ngoài lí do dung lƣợng hữu hạn của luận văn, còn có những lí do sau
đây :
- Tuy đã có một số công trình nghiên cứu đề cập tới phép liên kết nối và
phép liên kết từ vựng nhƣng cho đến thời điểm này, chƣa có một công trình
nghiên cứu nào xem xét hai phép liên kết này trong các tác phẩm tập đọc văn
xuôi sách Tiếng Việt lớp 4, 5 chƣơng trình mới.
- Đây là hai phép liên kết đƣợc sử dụng với tần số cao trong các văn bản
tập đọc văn xuôi, sách Tiếng Việt lớp 4, 5 (chƣơng trình mới); đồng thời chúng
là hai phép liên kết đƣợc học sinh tiểu học sử dụng nhiều nhất trong quá trình
tạo lập văn bản.
- Hai phép liên kết này đều có mặt trong cả "Hệ thống liên kết văn bản
tiếng Việt" của tiến sĩ Trần Ngọc Thêm lẫn trong hệ thống liên kết của Halliday
và Hasan với cách nhìn có phần khác nhau. Điều này chứng tỏ chúng là những
hiện tƣợng phổ biến.
2. Lịch sử vấn đề
Năm 1985 với sự ra đời cuốn "Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt" của
Trần Ngọc Thêm, vấn đề liên kết văn bản mới chính thức đƣợc đặt ra ở Việt
Nam. Trần Ngọc Thêm đã nghiên cứu liên kết văn bản từ quan điểm liên kết
thuộc hệ thống - cấu trúc của ngôn ngữ vì thế nên kết quả của công trình này
thực sự là một tƣ liệu quan trọng để so sánh, đối chiếu với quan niệm liên kết mà

3
chúng tôi trình bày trong luận văn theo quan điểm liên kết phi cấu trúc tính của
Halliday.
Liên kết phi cấu trúc tính đƣợc giới thiệu trong "Văn bản và liên kết trong
tiếng Việt" năm 1999 của tác giả Diệp Quang Ban [1]. Cuốn sách này là tài liệu

có tính gợi mở ban đầu rất quan trọng và cần thiết đối với các đề tài thuộc loại
này.
Cũng cần nhắc rằng, dƣới sự hƣớng dẫn của nhà nghiên cứu Diệp Quang
Ban, các học viên Phạm Thu Trang (2001), Dƣơng Thị Bích Hạnh (2003), Phan
Thị Thu Hà (2004) đã thực hiện thành công các luận văn thạc sĩ thuộc lĩnh vực
này. Các luận văn này đều đã đề cập tới phép liên kết nối hoặc phép liên kết từ
vựng nhƣng trên một tƣ liệu khác. Đó là các văn bản trong các sách ngữ văn
chƣơng trình Trung học cơ sở hoặc các tác phẩm văn học nổi tiếng. Xa hơn nữa,
các tài liệu tham khảo đƣợc quan tâm là các tạp chí chuyên ngành có đề cập hai
phép liên kết đƣợc chọn. Chúng tôi sử dụng các tài liệu trên đây làm cơ sở cho
phần lí thuyết và trong quá trình thực hiện đề tài những tài liệu này còn là những
gợi ý tốt cho hƣớng triển khai đề tài.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Việc tìm hiểu tất cả các phép liên kết trong hệ thống liên kết của Halliday
và Hasan trong tiếng Việt nói chung, cũng nhƣ trong các văn bản tập đọc văn
xuôi sách Tiếng Việt lớp 4, 5 chƣơng trình mới nói riêng là một vấn đề lớn. Thời
gian, khả năng, khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ không cho phép chúng tôi đi
sâu nghiên cứu tất cả. Vì thế chúng tôi chỉ hạn chế đối tƣợng nghiên cứu của đề
tài này ở hai phép liên kết theo quan niệm mới của Halliday và Hasan, đó là
phép liên kết nối và phép liên kết từ vựng (trong các văn bản tập đọc văn xuôi
sách Tiếng Việt lớp 4, 5 chƣơng trình mới). Với đối tƣợng này, chúng tôi hi
vọng sẽ có điều kiện xác định và phân loại một cách kĩ càng cách sử dụng các
phƣơng tiện trong phép liên kết nối và phép liên kết từ vựng. Và qua đó có thể

4
thấy đƣợc giá trị liên kết và đặc biệt khả năng tạo giá trị biểu đạt của các phƣơng
tiện liên kết thuộc hai phép liên kết này.
4. Ngữ liệu nghiên cứu
Nhƣ đã nói, nguồn ngữ liệu đƣợc sử dụng để phân tích là các văn bản tập
đọc văn xuôi, sách Tiếng Việt lớp 4, 5 chƣơng trình mới.

Các nguồn ngữ liệu này đƣợc chọn với những lí do sau đây :
- Sách Tiếng Việt 4 chƣơng trình mới là tài liệu mới đƣợc đƣa vào giảng
dạy ở bậc Tiểu học từ năm 2005 - 2006 và sách Tiếng Việt 5 chƣơng trình mới
đã đƣợc tiếp tục triển khai giảng dạy ở bậc Tiểu học từ năm 2006 - 2007. Hai
cuốn sách này đƣợc biên soạn theo quan điểm tích hợp, giao tiếp, phát huy tính
tích cực của học sinh và là hai nguồn ngữ liệu mới chƣa đƣợc tìm hiểu về
phƣơng diện liên kết nói trên.
- Về mặt thực tiễn, đề tài đƣợc chọn thích hợp với công tác của chúng tôi
là giảng dạy hai phân môn Tiếng Việt và Phƣơng pháp giảng dạy tiếng Việt cho
sinh viên Khoa Giáo dục Tiểu học, việc tìm hiểu phép liên kết nối và phép liên
kết từ vựng (đặc biệt là việc tìm hiểu khả năng tạo giá trị biểu đạt của một số
phƣơng tiện thuộc phép liên kết nối và liên kết từ vựng) trong các văn bản tập
đọc văn xuôi, sách Tiếng Việt lớp 4, 5 theo chƣơng trình mới là một việc làm
hữu ích đối với giáo viên tiểu học. Hi vọng việc làm này không chỉ có ý nghĩa
khoa học mà còn mang ý nghĩa thực tiễn, giúp ngƣời giáo viên tiểu học dạy tốt
các văn bản tập đọc văn xuôi trong sách Tiếng Việt lớp 4, 5 và tạo điều kiện cho
học sinh lớp 4, 5 tiếp nhận dễ dàng các văn bản đó.
Quan trọng hơn là đề tài này sẽ giúp các giáo viên tiểu học biết vận dụng
lí thuyết liên kết văn bản vào dạy liên kết câu cho học sinh tiểu học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định một số vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài để định hƣớng
cho công việc nghiên cứu.

5
- Xác định các phƣơng tiện nối, phƣơng tiện liên kết từ vựng, các quan hệ
ngữ nghĩa giữa các phƣơng tiện liên kết đó trong các văn bản tập đọc văn xuôi,
sách Tiếng Việt lớp 4, 5 chƣơng trình mới.
- Hệ thống hoá các phƣơng tiện liên kết đƣợc khảo sát và khai thác khả
năng tạo giá trị biểu đạt của chúng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phƣơng pháp chủ đạo dùng trong việc nghiên cứu đề tài này là phân tích
nghĩa trong ngữ cảnh.
Ngoài ra để có cơ sở làm việc, các phƣơng pháp, các thao tác nghiên cứu
ngôn ngữ học sau đây cũng đƣợc sử dụng:
a. Thao tác thống kê, phân loại
Thống kê và phân loại các trƣờng hợp sử dụng những phƣơng tiện liên kết
khác nhau, các quan hệ ngữ nghĩa khác nhau thuộc phép liên kết nối và liên kết
từ vựng trong các văn bản ở sách Tiếng Việt lớp 4, 5.
b. Phương pháp đối chiếu so sánh
Phƣơng pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu rõ hơn hai quan điểm lớn về
liên kết cũng nhƣ đối chiếu cách hiểu của Trần Ngọc Thêm qua một số phƣơng
thức liên kết với cách hiểu về phƣơng thức liên kết bằng phép nối và phép liên
kết từ vựng của Halliday và Hasan.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung của luận văn gồm
ba chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết của đề tài.
Chƣơng 2: Phép liên kết nối trong các văn bản tập đọc văn xuôi, sách
Tiếng Việt lớp 4, 5.
Chƣơng 3: Phép liên kết từ vựng trong các văn bản tập đọc văn xuôi, sách
Tiếng Việt lớp 4, 5.


6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI

1.1 Về văn bản
Trong suốt quá trình phát triển lịch sử của mình, từ lúc mới xuất hiện cho
tới những năm gần đây, ngôn ngữ học có một đặc điểm nổi bật nhất là nó không

bao giờ vƣợt ra khỏi giới hạn câu. Câu luôn luôn đƣợc coi là đơn vị hoàn chỉnh,
đơn vị cao nhất đƣợc nghiên cứu của ngôn ngữ học. Với giới hạn là câu, các lí
thuyết ngôn ngữ học ngày càng bộc lộ những hạn chế của mình trƣớc nhu cầu
của lí luận và thực tiễn. Để khắc phục những hạn chế đó, ngôn ngữ học phải
vƣợt qua giới hạn câu để đến với những đơn vị có quy mô mới và kích thƣớc lớn
hơn. Kết quả là hình thành bộ môn mới nghiên cứu các đơn vị trên câu gọi là
ngôn ngữ học văn bản.
Văn bản trở thành đối tƣợng nghiên cứu và đƣợc nhiều nhà ngôn ngữ xác
định. Sau đây là một số định nghĩa gần đây về văn bản (dẫn theo Diệp Quang
Ban) [4, tr. 15] :
1. "Chúng ta sẽ gọi khách thể của xuyên ngôn ngữ học (translinguistique)
là diễn ngôn (discours) - tƣơng tự với văn bản (texte) do ngôn ngữ học nghiên
cứu, và chúng ta sẽ định nghĩa nó (hãy còn là sơ bộ) nhƣ là một đoạn lời nói hữu
tận, tạo thành một thể thống nhất xét từ quan điểm nội dung, được truyền đạt
cùng với những mục đích giao tiếp thứ cấp, và có một tổ chức nội tại phù hợp
với những mục đích này, vả lại (đoạn lời này) gắn bó với những nhân tố văn hóa
khác nữa, ngoài những nhân tố có quan hệ đến bản thân ngôn ngữ (langue)"
(Barthes, 1970)
2. "Một văn bản là một đơn vị của ngôn ngữ trong sử dụng. Nó không
phải là một đơn vị ngữ pháp loại nhƣ một mệnh đề hay một câu; mà nó cũng
không đƣợc xác định bằng kích cỡ của nó [ ]. Một văn bản không phải là một

7
cái gì loại nhƣ một câu, chỉ có điều là lớn hơn; mà nó là một cái khác với một
câu về mặt chủng loại.
Tốt hơn nên xem xét một văn bản nhƣ là một đơn vị nghĩa: một đơn vị
không phải của hình thức mà là của ý nghĩa" ( Halliday, 1976 - 1994)
3. "Văn bản có thể định nghĩa là điều thông báo viết có đặc trƣng là tính
hoàn chỉnh về ý và cấu trúc và thái độ nhất định của các tác giả đối với điều
đƣợc thông báo [ ]. Về phƣơng diện cú pháp, văn bản là một hợp thể nhiều câu

(ít khi là một câu) liên kết với nhau bởi ý và bằng các phƣơng tiện từ vựng - ngữ
pháp" (L. M. Loseva, 1980)
4. "Nói một cách chung nhất thì văn bản là một hệ thống mà trong đó các
câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu - phần tử, trong hệ thống văn bản còn
có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan,
liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói
chung. Sự liên kết là mạng lƣới của những quan hệ và liên hệ ấy" (Trần Ngọc
Thêm, 1985).
5. "Văn bản
(1) Một quãng viết hay phát ngôn, lớn hoặc nhỏ, mà do cấu trúc, đề tài -
chủ đề v.v của nó, hình thành nên một đơn vị, loại nhƣ một truyện kể, một bài
thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đƣờng v.v
(2) Văn học; trƣớc hết đƣợc coi nhƣ một tài liệu viết, thƣờng đồng nghĩa
với sách.
(3) Trong PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN, đôi khi đƣợc đánh đồng với ngôn ngữ
viết, còn diễn ngôn thì đƣợc dành cho ngôn ngữ nói, hoặc diễn ngôn đƣợc dùng
bao gồm cả văn bản". (Bách khoa thƣ ngôn ngữ và ngôn ngữ học, 1994, tập 10,
do R.E. Asher chủ biên).
Định nghĩa (5) vừa có tính khái quát cao, vừa có tầm rộng cần thiết. Nó
bao gồm đƣợc nhiều quan niệm về văn bản cho đến nay và bao gồm cả cách hiểu

8
văn bản trong văn học và trong bộ môn phân tích diễn ngôn. Đây chính là tính bách
khoa và tính hiện đại của định nghĩa này.
Trong ba nội dung thuộc định nghĩa trên về văn bản, nội dung đầu xem là
định nghĩa về văn bản giản đơn và tiện dùng trong nhà trƣờng. Có thể hiểu văn
bản nhƣ sau:
"Văn bản là một loại đơn vị được làm thành từ một khúc đoạn lời nói hay
lời viết, hoặc lớn hoặc nhỏ, có cấu trúc, có đề tài loại như một truyện kể, một
bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đường " (Phỏng theo định nghĩa trong

Bách khoa thƣ ngôn ngữ và ngôn ngữ học 1994, tập 10, R.E. Asher chủ biên).
Định nghĩa trên có thể đƣợc làm rõ nhƣ sau:
- Tên gọi văn bản ở đây bao gồm cả sản phẩm ngôn ngữ nói lẫn sản phẩm
ngôn ngữ viết. Khi cần thiết có thể phân biệt giản đơn văn bản viết và văn bản
nói.
- Về mặt lƣợng, văn bản có độ dài bất kì, từ độ dài bằng một câu cho đến
quyển sách dày hàng trăm trang.
- Văn bản là một đơn vị gồm nhiều phƣơng diện nhƣ cấu trúc hình thức,
cấu trúc nội dung, cấu trúc tin, đề tài - chủ đề và những phƣơng tiện văn hóa, xã
hội khác nữa, do vậy văn bản đƣợc coi là một tổng thể hợp nhất.
- Về phƣơng diện loại hình, văn bản có thể thuộc tất cả những loại hình
cấu tạo khác nhau của lời nói đƣợc sử dụng trong thực tế giao tiếp bằng ngôn
ngữ (nói cũng nhƣ viết).
1.2 Về liên kết
Ở Việt Nam cho đến nay có hai quan niệm tiêu biểu về liên kết. Xuất phát
từ hai nền tảng tƣ tƣởng lí luận khác nhau, cách phân loại các phƣơng thức liên
kết khác nhau, song chúng cũng gặp gỡ nhau tại những điểm nhất định.
Quan niệm thứ nhất thịnh hành ở giai đoạn "các ngữ pháp văn bản" coi
liên kết văn bản thuộc về cấu trúc của hệ thống ngôn ngữ. Theo quan niệm này,
Trần Ngọc Thêm đã trình bày một cách có chọn lọc và sáng tạo một hệ thống

9
liên kết văn bản trên cơ sở một khái niệm hoàn chỉnh về liên kết trong Hệ thống
liên kết văn bản tiếng Việt (1985). Liên kết ở đây đƣợc khai thác cả ở mặt các
phƣơng tiện hình thức lẫn mặt ý nghĩa và vì có tính đến mặt ý nghĩa nên liên kết
đƣợc hiểu nhƣ là yếu tố quyết định làm cho một sản phẩm ngôn ngữ có đƣợc cái
phẩm chất "là một văn bản".
Liên kết nội dung đƣợc hiểu là liên kết không hiển lộ cho nên nó phải
đƣợc thể hiện bằng hệ thống các phƣơng thức hình thức. Và liên kết hình thức
có nhiệm vụ chủ yếu là diễn đạt liên kết nội dung trong những trƣờng hợp cụ

thể. Liên kết hình thức đƣợc hiểu là liên kết bằng các phƣơng tiện hình thức của
ngôn ngữ; nhƣng phải căn cứ vào mặt nghĩa của các yếu tố đƣợc liên kết với
nhau. Liên kết nội dung đƣợc biểu hiện ở liên kết chủ đề và liên kết logic (trong
liên kết chủ đề lại phân biệt liên kết duy trì chủ đề và liên kết phát triển chủ đề).
Liên kết chủ đề làm nhiệm vụ tổ chức mạng lƣới chủ đề của các phát ngôn, các
đoạn văn để tạo nên chủ đề của văn bản. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày một
cách giản lƣợc nội dung của cuốn Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt của Trần
Ngọc Thêm [37] :
1) Liên kết hình thức
Liên kết hình thức là "hệ thống các phƣơng thức liên kết hình thức" và
những cái đƣợc liên kết với nhau trong văn bản là các câu (phát ngôn). Cách
phân loại các phát ngôn trong văn bản có liên quan đến nhiệm vụ mô tả liên kết
hình thức, vì vậy mà trở nên cần thiết. Phƣơng diện liên quan trực tiếp đến liên
kết hình thức giữa các câu với câu là phƣơng diện nghĩa. Về phƣơng diện này,
các câu đƣợc phân loại thành câu tự nghĩa và câu hợp nghĩa, ngữ trực thuộc.
Câu tự nghĩa là câu hoàn chỉnh về nội dung và đầy đủ về cấu trúc câu, vì
vậy nó mang tính độc lập lớn nhất: nó đứng một mình vẫn có thể hiểu đƣợc.
Ví dụ: Hoa hồng rất đẹp.
Câu hợp nghĩa không hoàn chỉnh về nội dung và tuy vẫn đủ về cấu trúc
câu, vì vậy nó không mang tính độc lập về mặt nghĩa.

10
Ví dụ: Ngày hôm ấy nó đã tới trường.
Hôm ấy là hôm nào ? nó là ai ?
Ngữ trực thuộc không hoàn chỉnh về nội dung và không đầy đủ về cấu
trúc, vì vậy nó không độc lập cả ở hai phƣơng diện nội dung và cấu trúc câu.
Ví dụ: Huấn đi về trạm máy. Một mình, trong đêm.
(Nguyễn Thị Ngọc Tú)
Phƣơng thức liên kết là việc sử dụng các phƣơng tiện hình thức của ngôn
ngữ vào nhiệm vụ liên kết câu với câu, nhờ đó các phƣơng thức này góp phần

làm bộc lộ (chứ không quyết định) các kiểu câu đƣợc phân loại căn cứ vào tính
hoàn chỉnh vừa nêu. Trần Ngọc Thêm (1985) đã chia các phƣơng thức thành ba nhóm lớn:
- Các phƣơng thức liên kết chung, dùng chung đƣợc cho cả ba loại: câu tự
nghĩa, câu hợp nghĩa, ngữ trực thuộc.
- Các phƣơng thức liên kết hợp nghĩa, dùng cho loại câu hợp nghĩa và ngữ trực thuộc.
- Các phƣơng thức liên kết trực thuộc, chỉ dùng cho loại ngữ trực thuộc.
Sau đây là bảng tóm lƣợc hệ thống phƣơng thức liên kết (ptlk) và tác dụng
của từng nhóm trong hệ thống đó đối với ba loại phát ngôn kể trên :
Bảng tổng hợp các phƣơng thức liên kết và khu vực sử dụng chúng
Câu tự nghĩa
và ptlk đƣợc sử dụng
Câu hợp nghĩa
và ptlk đƣợc sử dụng
Ngữ trực thuộc
và ptlk đƣợc sử dụng
Lặp
Đối
Thế đồng nghĩa
Liên tƣởng
Tuyến tính
Lặp
Đối
Thế đồng nghĩa
Liên tƣởng
Tuyến tính
Lặp
Đối
Thế đồng nghĩa
Liên tƣởng
Tuyến tính


Thế đại từ
Tỉnh lƣợc yếu
Nối lỏng
Thế đại từ
Tỉnh lƣợc yếu
Nối lỏng

11


Tỉnh lƣợc mạnh
Nối chặt
Theo bảng trên, số lƣợng phƣơng thức liên kết tăng dần khi tính hoàn
chỉnh về cấu trúc và nội dung của đơn vị liên kết giảm dần (ngữ trực thuộc là
đơn vị có nhiều nhất các phƣơng thức liên kết trong khi nó là đơn vị có ít nhất
tính hoàn chỉnh về nội dung và cấu trúc, hình thức so với hai kiểu câu còn lại).
Theo cách phân loại của Trần Ngọc Thêm có 10 phép liên kết nhƣ ở trên
và mỗi phép lại đƣợc phân thành những phép liên kết nhỏ khác nhau theo từng
tiêu chí cụ thể [37]. Các phép này có tác dụng liên kết câu với câu. Trong hai
câu liên kết với nhau có một câu làm chỗ dựa đƣợc gọi là câu chủ (chủ ngôn) và
một câu nối kết với câu chủ đƣợc gọi là câu kết (kết ngôn).
Nhƣ vậy liên kết hình thức có thể đƣợc hiểu là sự liên kết giữa câu với
câu bằng các phƣơng tiện hình thức ngôn ngữ trên cơ sở nghĩa của các yếu tố
đƣợc liên kết với nhau. Cái đƣợc gọi là liên kết hình thức thuần tuý khá hạn hẹp,
chỉ diễn ra với phƣơng thức lặp ngữ âm và lặp cấu trúc cú pháp. Và trong tuyệt
đại đa số trƣờng hợp có kèm mặt nghĩa.
2) Liên kết nội dung
"Khái niệm "liên kết nội dung" rộng hơn khái niệm "liên kết ngữ nghĩa"
( ) nó nhấn mạnh nhiều hơn đến những nhân tố ngoài ngôn ngữ" [33, tr. 21].

Liên kết nội dung chỉ đƣợc nhận ra trong mối quan hệ với liên kết hình thức:
"liên kết nội dung đƣợc thể hiện bằng hệ thống các phƣơng thức liên kết hình
thức và liên kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung" [33, tr. 20].
Và chừng nào còn coi liên kết nội dung và liên kết hình thức là hai mặt gắn bó
mật thiết với nhau thì chừng ấy cái kết luận sau đây mới có khả năng đúng :
"tính liên kết chính là nhân tố quan trọng nhất có tác dụng biến một chuỗi câu
trở thành văn bản" [33, tr. 19]. Cho nên nói đến liên kết hình thức không đƣợc
quên nói đến liên kết nội dung, chừng nào chƣa bàn đến liên kết mạch lạc. Và
liên kết nội dung sẽ giúp hiểu đƣợc một phần trong mạch lạc.

12
Liên kết nội dung sẽ đƣợc nhận biết rõ hơn thông qua việc xem xét hai
bình diện của nó: liên kết chủ đề và liên kết logic.
Liên kết chủ đề đƣợc hiểu nhƣ đề tài, vật, việc đƣợc nói đến và nhƣ vậy
liên kết chủ đề là sợi dây kết nối hợp lí giữa những vật, việc đƣợc nói đến trong
các câu có liên kết với nhau. Liên kết chủ đề đƣợc thực hiện bằng hai cách :
- Duy trì chủ đề là nhắc lại cùng một vật, một việc nào đó trong các câu
có liên kết với nhau. Liên kết duy trì chủ đề đƣợc thực hiện bằng 5 phƣơng thức
liên
kết: Lặp từ vựng; thế đồng nghĩa; thế đại từ; tỉnh lƣợc yếu và tỉnh lƣợc mạnh.
Với 5 phƣơng thức liên kết này, có thể tạo ra một chuỗi chủ đề đồng nhất, tức là
duy trì đƣợc chủ đề qua một số chuỗi câu liên kết với nhau.
- Triển khai chủ đề là cùng với một (hoặc vài) chủ đề đã cho, đƣa thêm
vào một hoặc những chủ đề (vật, việc) khác nữa có liên quan với chủ đề ban
đầu, theo tiêu chuẩn cần và đủ của logic để bảo đảm cho các câu chứa chúng
liên kết với nhau. Các phƣơng thức liên kết để triển khai chủ đề gồm có: Phép
liên tƣởng và phép đối (ít đƣợc dùng). Với hai phƣơng thức liên kết này có thể
tạo ra chuỗi chủ đề khu biệt, tức là chuỗi của những chủ đề (đề tài) khác biệt
nhau. Những chủ đề này đƣợc dùng phục vụ cho chủ đề chung của chuỗi câu
đƣợc liên kết với nhau đó. Do sự tồn tại của chủ đề chung này mà các chủ đề cụ

thể đƣợc triển khai thêm phải đƣợc lựa chọn kĩ theo cái thƣớc đo cần và đủ của
logic.
Liên kết logic là phần nêu đặc trƣng của vật, việc đƣợc nói đến. Có thể
xem xét liên kết logic ở hai phạm vi rộng hẹp khác nhau :
- Bên trong một câu,
- Giữa câu với câu (hoặc rộng hơn nữa: giữa cụm câu này với cụm câu
khác, giữa phần này của văn bản với phần kia của văn bản).
Nhƣ vậy, có thể hiểu liên kết logic là sợi dây nối kết hợp lí giữa vật, việc
với đặc trƣng của chúng trong một câu và giữa đặc trƣng này với đặc trƣng kia

13
trong những câu liên kết với nhau. Các phƣơng thức liên kết đƣợc sử dụng ở đây
là: phép tuyến tính, phép nối lỏng, phép nối chặt. Có thể hình dung liên kết nội
dung các phƣơng thức liên kết đƣợc sử dụng trong hai bình diện của nó qua bảng sau :

Bảng về liên kết nội dung và các phƣơng thức liên kết đƣợc sử dụng
trong hai bình diện của nó
Chú thích: Dấu (+) đọc là "có sử dụng"
Dấu (-) đọc là " không sử dụng"
Liên kết nội dung

Phƣơng thức liên kết
Liên kết chủ đề
Liên kết logic
Duy trì
chủ đề
Triển khai
chủ đề
Cấp độ từ
Cấp độ câu

Lặp từ vựng
+
-
-
-
Thế đồng nghĩa
+
-
-
-
Thế đại từ
+
-
-
-
Tỉnh lƣợc yếu
+
-
-
-
Tỉnh lƣợc mạnh
+
-
-
-
Liên tƣởng
-
+
-
-

Đối
-
+
-
-
Tuyến tính
-
-
+
+
Nối lỏng
-
-
+
+
Nối chặt
-
-
+
+

Tóm lại, liên kết trong Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt của tác giả
Trần Ngọc Thêm [37] đƣợc hiểu nhƣ là thành tố thuộc hệ thống - cấu trúc của
ngôn ngữ. Đó là mạng lƣới các mối quan hệ, liên hệ giữa các câu trong văn bản
về mặt nội dung (các ý diễn đạt trong câu) và mặt hình thức (các phƣơng tiện
dùng để liên kết ý ấy lại với nhau). Đây là điểm quan trọng phân biệt một văn
bản có tính liên kết với một tập hợp câu không quan hệ đứng gần nhau. Vì thế

14
tính chất liên kết là một thuộc tính quan trọng của văn bản: "Tính liên kết chính

là nhân tố quan trọng nhất có tác dụng biến một chuỗi câu trở thành văn bản"
[33, tr. 19].
Quan niệm thứ hai bắt đầu vào giữa những năm 70 và ngày càng trở nên
phổ biến. Những ngƣời đề xƣớng quan niệm này là hai tác giả M.A.K. Halliday
và R. Hasan. Trên cứ liệu tiếng Anh, hai tác giả đã xem xét nhiều khía cạnh có
liên quan đến liên kết và tập trung trình bày trong cuốn Cohesion in English
(Liên kết trong tiếng Anh, in lần đầu năm 1976 và tái bản lần thứ 13 vào năm
1994). Tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn Văn bản và liên kết trong tiếng Việt
[1] đã sử dụng khái niệm liên kết phi cấu trúc tính nhằm phân biệt với liên kết
hình thức và liên kết nội dung của tác giả Trần Ngọc Thêm vừa nói ở trên. Liên
kết theo quan điểm này cũng lấy nghĩa làm cơ sở nhƣng chỉ đƣợc xem nhƣ là
một khái niệm chuyên môn, không thuộc về cấu trúc của ngôn ngữ và chỉ các
phƣơng tiện hình thức của ngôn ngữ làm nhiệm vụ liên kết mới thuộc liên kết.
Những yếu tố ngôn ngữ này tập hợp lại thành những hệ thống con cho ngƣời
dùng lựa chọn. Với cách hiểu này, liên kết không giữ vai trò yếu tố quyết định
cái "là văn bản" của sản phẩm ngôn ngữ. Nhiệm vụ đó thuộc về mạch lạc
(Coherence) hay tính văn bản (Textuality), hay chất văn bản (Texture). Ở đây
liên kết đƣợc xem là một loại quan hệ nghĩa (Semantic relation). Khi một yếu tố
rõ nghĩa ở câu này có tác dụng giải thích nghĩa cho yếu tố chƣa rõ nghĩa tƣơng
ứng với nó ở một câu khác, thì có hiện tƣợng liên kết.
Ví dụ:
Trần Đại Nghĩa tên thật là Phạm Quang Lễ, quê ở tỉnh Vĩnh Long. Sau
khi học xong bậc trung học ở Sài Gòn, năm 1935, ông sang Pháp học đại học.
Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa - [43, tr. 2]
Yếu tố Trần Đại Nghĩa là yếu tố rõ nghĩa, ông là yếu tố chƣa rõ nghĩa và
đƣợc giải thích bằng yếu tố Trần Đại Nghĩa. Yếu tố rõ nghĩa đƣợc gọi là yếu tố
"đƣợc tiền giả định" (presupposed); yếu tố chƣa rõ nghĩa đƣợc gọi là yếu tố
"(chứa) tiền giả định" (presupposing). Hai yếu tố này giải thích cho nhau và qua
đó thực hiện chức năng liên kết hai câu với nhau. Mỗi lần xuất hiện của một cặp


15
các yếu tố có quan hệ liên kết nhƣ vậy đƣợc gọi là một mối nối kết (Tie). Hai
câu có thể chỉ có một mối liên kết (nhƣ ở ví dụ trên) nhƣng cũng có thể gồm
nhiều hiện tƣợng liên kết hơn. Liên kết theo nghĩa mà chúng ta đang dùng ở đây
cũng không phải là hiện tƣợng của cấu trúc. "Liên kết là một quan hệ nghĩa giữa
một yếu tố trong văn bản và một vài yếu tố khác cần thiết (quan trọng) cho việc
giải thích nó". [Halliday - Hasan - Cohesion in English - 1976, tr. 8]. Cái "yếu tố
khác" ấy có thể tìm thấy trong hoặc ngoài văn bản. Nếu trong văn bản thì vị trí
của nó cũng không bị ấn định bởi cấu trúc ngữ pháp mà bởi các yếu tố trong hệ
thống từ vựng - ngữ pháp của một ngôn ngữ cụ thể.
Một cách khái quát về liên kết theo quan niệm này đƣợc hiểu nhƣ sau: "Ở
đâu mà việc giải thuyết một yếu tố bất kì trong diễn ngôn đòi hỏi phải quy chiếu
về một yếu tố nào trong diễn ngôn ấy thì ở đó có liên kết" [4, tr. 66]. Nói gọn
hơn, liên kết xuất hiện trong trƣờng hợp "MỘT YẾU TỐ ĐƢỢC GIẢI THUYẾT
BẰNG CÁCH QUY CHIẾU VỀ MỘT YẾU TỐ KHÁC" [4, tr. 66]. Liên kết theo quan
niệm này cũng đƣợc đặt trên cơ sở nghĩa. Đây là điểm gặp gỡ giữa hai cách hiểu
về liên kết.
Nhƣ vậy, vì xuất phát trong những thời kì khác nhau của ngôn ngữ học
văn bản nên phần lí luận của hai quan niệm này rất xa nhau và do đó việc phân
loại các phép liên kết cũng không hoàn toàn giống nhau. Nguồn gốc sâu xa của
sự khác biệt cơ bản giữa hai quan niệm về liên kết này là ở quan niệm chiến
lƣợc lấy làm xuất phát điểm.
Sau đây là bảng đối chiếu giữa hai quan niệm :








16
Bảng một số quan điểm riêng giữa hai quan niệm về liên kết

Liên kết hình thức và
liên kết nội dung
Liên kết phi cấu trúc tính
- Liên kết văn bản thuộc về hệ thống -
cấu trúc.
- Liên kết văn bản là thành tố phi cấu
trúc tính
- Liên kết bao gồm cả liên kết hình thức
và liên kết nội dung.
- Chỉ tính đến các phƣơng tiện hình thức
ngôn ngữ tạo liên kết.
- "Liên kết nội dung" không đƣợc đặt ra
thành đối tƣợng xem xét trực tiếp - phần
nhiều nó đƣợc xem xét trong mạch lạc.
- Cơ sở phân loại các phép liên kết là
các câu phân chia theo mức độ hoàn
chỉnh về cú pháp và về nghĩa (10 phép)
- Cơ sở: Dựa trên các phƣơng tiện hình
thức ngôn ngữ tạo liên kết (4 phép).

- Liên kết là yếu tố quyết định phẩm
chất "là một văn bản" của một sự kiện
nói.
- Liên kết không có vai trò quyết định
phẩm chất ''là một văn bản" của một sự
kiện nói. Vai trò đó thuộc mạch lạc.


Để giải quyết tốt nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi sử dụng quan niệm của
M.A.K. Halliday và R. Hasan, lấy nội dung của quan niệm này làm cơ sở lí
thuyết cho việc triển khai việc tìm hiểu phép liên kết nối và liên kết từ vựng
trong các văn bản tập đọc văn xuôi, sách Tiếng Việt 4, 5 chƣơng trình mới.
1.3 Phƣơng tiện và phƣơng thức liên kết
1.3.1 Khái niệm
Phương tiện liên kết là những yếu tố ngôn ngữ cụ thể đƣợc dùng trong
việc nối kết câu với câu. [1, tr. 221]

17
Phương thức liên kết là cách sử dụng các phƣơng tiện liên kết có cùng
một thực chất (tạo thành một hệ thống con) vào việc liên kết câu với câu.
Phƣơng thức liên kết còn đƣợc gọi gọn hơn là phép liên kết. [1, tr. 221]
1.3.2 Các phép liên kết trong tiếng Việt
Theo cách hiểu của Halliday và Hasan thì các phép liên kết đƣợc phân
chia nhƣ sau:
- Phép quy chiếu,
- Phép thế và phép tỉnh lƣợc,
- Phép nối,
- Phép liên kết từ vựng.
Do đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là xem xét phép liên kết nối và phép
liên kết từ vựng (trong các văn bản tập đọc văn xuôi, sách Tiếng Việt lớp 4, 5
chƣơng trình mới); đồng thời cũng do dung lƣợng hữu hạn của một đề tài thạc
sĩ, nên trong phần lí thuyết này, chúng tôi chỉ xin xem xét sâu hơn phép li ên
kết nối và phép liên kết từ vựng trong tiếng Việt.
1.3.2.1 Phép nối
a. Khái niệm phép nối
Khác với các phép liên kết quy chiếu, thế, tỉnh lƣợc, phép nối không phải
là cách để nhắc ngƣời đọc phải liên hệ với những sự vật, sự việc, hành động đã
đƣợc đề cập ở trƣớc đó mà phép nối là nhằm để báo hiệu các mối quan hệ.

Những mối quan hệ này chỉ có thể hiểu đƣợc qua việc tham khảo các phần khác
của văn bản. Có thể hiểu phép nối nhƣ sau:
"Phép nối (conjunction) là việc sử dụng tại vị trí đầu câu, hoặc trƣớc vị tố
(trƣớc động từ ở vị ngữ) những từ ngữ có khả năng chỉ quan hệ để làm bộc lộ
kiểu quan hệ giữa hai câu có quan hệ với nhau, và bằng cách đó liên kết hai câu
này với nhau." [3, tr. 375]
Một số trƣờng hợp các câu trong một văn bản có thể quan hệ với nhau mà
không cần đến mối quan hệ đƣợc báo hiệu tƣờng minh của phép nối. Ví dụ nhƣ:

18
1. Nga mở cửa. Anh ta bước vào nhà.
2. Nga mở cửa. Rồi anh ta bước vào nhà.
Việc đứng cạnh nhau của hai câu trong (1) cũng cho ta hiểu mối quan hệ
thuận logic (mở cửa - vào nhà). Quan hệ từ rồi trong (2) không tạo ra quan hệ
thuận logic mà chính mối quan hệ thuận logic đã tự nó giúp ta hiểu đƣợc quan
hệ nghĩa của hai câu. Từ rồi ở đây chỉ làm rõ thêm việc một hành động đã xảy ra
sau một hành động khác.
b. Phân biệt phép nối và phép thế
Phép nối và phép thế là hai phƣơng thức liên kết hoàn toàn khác nhau.
Song trong một số trƣờng hợp giữa hai phƣơng thức này cần có sự phân biệt.
Phép nối sử dụng các quan hệ từ và từ ngữ nối kết làm phƣơng tiện nối kết.
Trong những từ ngữ nối kết có chứa yếu tố đại từ thay thế nhƣ vì vậy, tuy vậy,
nếu vậy, để được như vậy xét về thực chất của từ vậy trong quan hệ với từ ngữ
mà nó thay thế, thì nó thuộc về phép thế: thế bằng đại từ thay thế. Tuy vậy, chúng
vẫn đƣợc xếp vào phép nối với lí do sau:
- Nội dung của chúng có liên quan với nội dung trong câu đứng gần đó và
đƣợc giải thích bởi nội dung này.
- Các yếu tố có chứa đại từ thay thế này đứng đầu câu chứa chúng (đôi khi
đứng sau chủ ngữ và trƣớc động từ làm vị tố), nhƣng không làm thành phần chủ
ngữ hay bổ ngữ của câu chứa chúng.

Phân tích các ví dụ sau để làm rõ sự khác nhau giữa phép nối và phép thế:
(1) Nhưng Tô Hiến Thành nhất định không nghe, cứ theo di chiếu lập
Long Cán làm vua. Đó là vua Lý Cao Tông.
Một người chính trực - [43, tr. 36]
Từ đó làm chủ ngữ trong câu đứng sau nên nó thuộc phép thế.
(2) Nhưng ba tôi chỉ buồn rầu bảo:
- Các con ráng bảo ban nhau mà học cho nên người.
Từ đó, tôi không bao giờ nói dối ba đi chơi nữa.

19
Chị em tôi - [43, tr. 60]
Từ đó trong từ đó không phải là một bộ phận thuộc mệnh đề tôi không bao
giờ nói dối ba đi chơi nữa. Cho nên từ đó trong trƣờng hợp này thuộc về phép nối.
c. Các phương tiện liên kết của phép nối trong văn bản tiếng Việt
Một trong những hệ thống dấu hiệu xác nhận sự liên kết giữa các câu
trong văn bản là các phƣơng tiện liên kết câu. Để văn bản đƣợc chính xác và rõ
ràng cần sử dụng các phƣơng tiện liên kết vì qua chúng ngƣời đọc, ngƣời nghe
hiểu đƣợc nội dung của văn bản. Phép nối là một trong những phép liên kết có
tần số sử dụng cao so với phép tỉnh lƣợc, phép thế, phép đối và phép lặp. Phép
nối sử dụng các phƣơng tiện nối kết sau đây :
- Quan hệ từ, chỉ quan hệ bình đẳng nhƣ và, vả lại, rồi, còn, nhưng, hay,
chỉ quan hệ phụ thuộc nhƣ vì, (cho) nên, nếu, tuy, để và những từ có giá trị
tƣơng đƣơng. Những quan hệ do những từ này diễn đạt là những quan hệ logic
giữa hai bộ phận do chúng nối kết lại.
- Từ ngữ nối kết, bao gồm:
+ Đại từ thay thế nhƣ vậy, thế, hoặc tổ hợp có chứa đại từ thay thế nhƣ và
thế (là), muốn vậy, có như thế (thì), từ đó, sau đó
+ Những tổ hợp từ ngữ khác có ý nghĩa quan hệ và có tác dụng liên kết,
nhƣ cuối cùng, ngược lại, chỉ một lát, thật ra thì, tóm lại, một là, hai là
Việc tìm hiểu nhƣ trên cho thấy phép nối sử dụng các phƣơng tiện nối kết

sau đây :
- Quan hệ từ bình đẳng,
- Quan hệ từ phụ thuộc,
- Tổ hợp chứa quan hệ từ và đại từ thay thế,
- Những tổ hợp từ ngữ khác có ý nghĩa quan hệ và tác dụng liên kết.
(Nội dung chi tiết của các phƣơng tiện nối kết nhƣ trên xin xem tr. 25-34 của luận
văn)
d. Các kiểu quan hệ được tạo ra bằng phương tiện liên kết nối trong tiếng
Việt

20
Trật tự sắp xếp của các yếu tố ngôn ngữ (ở dạng ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ
viết) đều tuân theo các quy luật hoạt động chặt chẽ của trật tự tuyến tính, điều này
hoàn toàn đúng nhƣ lời phát biểu của F. de Saussure trong [35, tr. 126-127] :
- "Vốn là vật nghe đƣợc, cái biểu hiện diễn ra trong thời gian", " những
yếu tố của nó hiện ra lần lƣợt cái này tiếp theo cái kia".
- "Nguyên lí này là hiển nhiên ", " đó là một nguyên lí cơ bản dẫn tới
vô số những hệ quả". "Toàn bộ cơ chế của ngôn ngữ đều do nó chi phối".
Trong văn bản khi phản ánh một hoặc nhiều đối tƣợng, nhiều quan hệ
trong cùng một lúc các câu sẽ tự nó phải xuất hiện theo một trình tự nhất định.
Để giúp các câu diễn đạt đƣợc chặt chẽ logic ngƣời ta đã sử dụng những thủ
thuật, những phƣơng thức khác nhau. Trong đó phƣơng thức nối là một trong
những phƣơng thức đƣợc sử dụng nhiều và đạt hiệu quả cao. Có đƣợc điều này
là nhờ sự đa dạng của các phƣơng tiện nối và đặc biệt là các kiểu quan hệ
thƣờng gặp giữa các câu liên kết với nhau bằng phép nối.
Theo Diệp Quang Ban [1, tr. 251] có 6 kiểu quan hệ thƣờng gặp giữa các
câu liên kết với nhau bằng phép nối là:
- Quan hệ bổ sung,
- Quan hệ thời gian (thời điểm, gồm: đồng thời, trƣớc sau, sau trƣớc, liên
tục, gián đoạn; thời đoạn; tần số hay số lần),

- Quan hệ nguyên nhân (bao gồm cả hệ quả),
- Quan hệ mục đích,
- Quan hệ điều kiện,
- Quan hệ tƣơng phản (bao gồm cả quan hệ nhƣợng bộ).
(Nội dung chi tiết của từng kiểu quan hệ xin xem tr. 44-56 của luận văn)
1.3.2.2 Phép liên kết từ vựng
a. Khái niệm phép liên kết từ vựng

×