Tải bản đầy đủ (.pdf) (270 trang)

Nghiên cứu sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.56 MB, 270 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC


NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THÙY





NGHIÊN CỨU SỰ TỰ DO HÓA
NGÔN NGỮ THƠ TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI THẾ KỶ XX
(TRÊN TƯ LIỆU CÁC TẬP THƠ CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ)

Chuyên ngành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 62 22 01 01



LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. ĐINH VĂN ĐỨC

HÀ NỘI – 2008





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THÙY






NGHIÊN CỨU SỰ TỰ DO HÓA
NGÔN NGỮ THƠ TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI THẾ KỶ XX
(TRÊN TƯ LIỆU TẬP THƠ CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ)
Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số: 62 22 01 01



LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. ĐINH VĂN ĐỨC







HÀ NỘI- 2008



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Các ký hiệu viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các đồ thị
Mở đầu 1
1. Mục đích nghiên cứu 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Nguồn tư liệu 5
6. Một vài tiên liệu về đóng góp của luận án 7
7. Bố cục của luận án 8
Nội dung 9
Chương 1. Cơ sở lý thuyết: Những vấn đề liên quan đến nội dung luận án 9
1.1. Những thông tin về lịch sử vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ thơ 9
1.2. Nhận thức về thơ 13
1.3. Nhận thức về sự tự do hóa ngôn ngữ thơ 18
1.4. Ý thơ và tứ thơ, hình tượng thơ, cảm giác thơ, sự hấp dẫn và tính mờ nhòe
của thơ 25
1.5. Về cấu trúc của thơ (Bài thơ, khổ thơ, câu thơ) 26
1.5.1. Bài thơ 27

1.5.2. Khổ thơ 27
1.5.3. Câu thơ 29
1.6. Những cách tiếp cận khác nhau trong khi nghiên cứu thơ và một số lý thuyết liên
quan đến việc nghiên cứu ngôn ngữ thơ 30
1.6.1. Hướng nghiên cứu theo thi pháp học và theo lý thuyết về hệ thống và
cấu trúc 31
1.6.2. Lý thuyết về ngữ cảnh 34
1.6.3. Lý thuyết phân tích diễn ngôn 35
1.7. Những lối nghiên cứu thơ từ truyền thống đến hiện đại của Việt Nam 36
1.7.1. Thơ cũ 36
1.7.2. Thơ Mới 43
Chương 2. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỉ XX ở cấp độ bài thơ 49
2.1. Kết quả khảo sát theo diện bằng phương pháp định lượng 49
2.1.1. Kết quả khảo sát, thống kê một số tập thơ 50
2.1.2. So sánh, đánh giá kết quả số liệu về thể thơ 55
2.1.3. So sánh và đánh giá về các mô hình bài thơ (tính theo số khổ trong bài và số câu
trong khổ) 57
2.2. Kết quả khảo sát (theo điểm) bằng phương pháp đinh lượng và định tính 60
2.2.1. Về 4 tập thơ của Hàn Mặc Tử 61
2.2.2. Về tập 50 bài thơ đặc sắc của Chế Lan Viên 67
2.2.3. Về một số bài thơ của các nhà thơ- nhà giáo thời kỳ 1945-1975 74
2.3. Tiểu kết 98
Chương 3. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỉ XX ở cấp độ khổ thơ
102
3.1. Về các loại khổ thơ 102
3.2. Về vấn đề đối thanh điệu bằng- trắc trong khổ thơ 103
3.2.1. Đối với khổ có 4 câu/ khổ trong bài 7 chữ 104
3.2.2. Vấn đề đối thanh điệu bằng- trắc trong thơ tự do 131
3.3. Vấn đề luật niêm trong khổ thơ 135
3.3.1. Khảo sát từng khổ thơ ở 2 tập “Gửi hương cho gió” và “Từ ấy” 135

3.3.2. Các bảng số liệu thống kê luật niêm của các câu thơ trong khổ thơ 7 chữ ở từng tập
thơ 136
3.3.3. Số trường hợp các câu thơ có luật niêm theo thanh bằng hoặc trắc ở các tập thơ
được thống kê theo bảng sau 137
3.3.4. Nhận xét 137
3.3.5. Các ví dụ 138
3.3.6. Nhận xét 139
3.3.7. Vấn đề niêm từ 1945 đến nay 139
3.4. Vấn đề gieo vần trong khổ thơ 143
3.4.1. Xét các bài 7 chữ trong hai tập “Gửi hương cho gió” và “Từ ấy” 144
3.4.2. Xét hiện tượng gieo vần trong 4 tập “Gái quê”, “Đau thương”, “Xuân Như ý”, “Lệ
thanh thi tập” của Hàn Mặc Tử 146
3.4.3. Hiện tượng gieo vần trong 2 tập thơ “Những câu thơ viết đợi mặt trời” và “Xúc xắc
mùa thu” của Hoàng Nhuận Cầm 148
3.4.4. Hiện tượng gieo vần trong 3 tập thơ của Phạm Tiến Duật 150
3.4.5. Nhận xét về hiện tượng gieo vần 150
3.5. Bàn luận 154
3.5.1. Về loại khổ thơ 154
3.5.2. Về phép đối thanh điệu bằng- trắc trong khổ 154
3.5.3. Về luật niêm 156
3.5.4. Về hiện tượng gieo vần 157
Chương 4. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỉ XX ở cấp độ câu thơ
159
4.1. Nhịp điệu 159
4.1.1. Cơ sở ngắt nhịp câu thơ 161
4.1.2. Một số bàn luận 168
4.2. Thanh điệu 183
4.2.1. Kết quả khảo sát định lượng 183
4.2.2. Bàn luận 185
4.3. Vần trong câu thơ 189

4.4. Tiểu kết 191
4.4.1. Về việc gieo vần 192
4.4.2. Về thanh điệu 192
4.4.3. Về nhịp điệu 192
Kết luận 193
Danh mục các công trình khoa học của tác giả có liên quan đến luận án 200
Thư mục tài liệu tham khảo 201
Phụ lục

CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT

- S1: Tập gồm các bài ở giai đoạn 1900-1945 trong Tuyển tập thơ tình Việt Nam
thế kỷ XX, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2003, 511 trang.
- S2: Tập gồm các bài ở giai đoạn 1945-2000 trong Tuyển tập thơ tình Việt Nam
thế kỷ XX, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2003, 511 trang.
- S3: Bốn tập thơ “Gái quê”, “Đau thương”, “Xuân như ý”, “Lệ Thanh thi tập”
của Hàn Mặc Tử.
- S4: 50 bài thơ trong phần “Một hồn thơ trải dài hơn nửa thế kỷ” (Thử chọn 50
bài thơ đặc sắc trong đời thơ của Chế Lan Viên) ở “Chế Lan Viên- Người làm
vườn vĩnh cửu” (NXB Hội nhà văn, 1995, trang 423-491).
- S5: 3 tập thơ của Phạm Tiến Duật (“Vầng trăng quầng lửa”, NXB Văn học, Hà
Nội, 1970, 83 trang; “Thơ một chặng đường”, NXB Quân đội Nhân dân, Hà
Nội, 1970, 90 trang; “Ở hai đầu núi”, NXB Tác phẩm mới, 1981, 75 trang).
- S6: 164 bài thơ ở 2 tập thơ của Hoàng Nhuận Cầm (“Những câu thơ viết đợi
mặt trời”, NXB Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, 1983, 60 trang; “Xúc
xắc mùa thu”, NXB Hội nhà văn Hà Nội, 1992, 59 trang) và ở 1 tập thơ của Lê
Đạt (“Bóng chữ”, NXB Hội nhàvăn, Hà Nội, 1994, 138 trang).
- Các khổ thơ được kí hiệu là K. Ví dụ, khổ 1 được kí hiệu là K1, khổ 2 được kí
hiệu là K2…, khổ 13 được kí hiệu là K13.
- C: câu.

- tr: trang.
- VD: ví dụ.
- GHCG: Gửi hương cho gió.
- TÂ: Từ ấy.
- B: thanh bằng ở các tiếng có vị trí 1,3,5.
- b: thanh bằng ở các tiếng có vị trí 2,4,6,7.
- T: thanh trắc ở các tiếng có vị trí 1,3,5.
- t: thanh trắc ở các tiếng có vị trí 2,4,6,7.
- TH1: trường hợp 1.
- TH2: trường hợp 2.
- TH3: trường hợp 3.
- TH4: trường hợp 4.
- Đối với trường hợp có hiện tượng gieo vần, ta kí hiệu như sau:
+ L1 (loại 1): kí hiệu 1,2  câu 1 và câu 2 có cùng vần.
+ L2 (loại 2): kí hiệu 1,3  câu 1 và câu 3 có cùng vần.
+ L3 (loại 3): kí hiệu 1,4  câu 1 và câu 4 có cùng vần.
+ L4 (loại 4): kí hiệu 2,3  câu 2 và câu 3 có cùng vần.
+ L5 (loại 5): kí hiệu 2,4  câu 2 và câu 4 có cùng vần.
+ L6 (loại 6): kí hiệu 3,4  câu 3 và câu 4 có cùng vần.
+ L7 (loại 7): kí hiệu 1,2,4  các câu 1,2,4 có cùng vần.
+ L8 (loại 8): kí hiệu 1,3,4  các câu 1,3,4 có cùng vần.
+ L9 (loại 9): kí hiệu 1,2,3,4  các câu 1,2,3,4 có cùng vần.
+ L10 (loại 10): 0(v) không vần.
- Ở tất cả các trường hợp không có hiện tượng gieo vần, vần được gieo ở tiếng
cuối cùng của các câu trong khổ.
- Ở một số khổ thơ, có thể có 2 loại vần. Ví dụ, một khổ thơ vừa có loại 2 (L2)
vừa có loại 5 (L5).
- Tên viết tắt của các tác giả và các bài thơ được trình bày ở phụ lục.

DANH MỤC CÁC BẢNG THỐNG KÊ , ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ.

* Các bảng thống kê: trang
1. Bảng thống kê bài thơ tính theo thể thơ/ số chữ (giai đoạn 1900-1945) 49
2. Bảng thống kê 49 mô hình bài tính theo số lượng khổ trong bài và số câu
trong khổ (giai đoạn 1900-1945) 49
3. Bảng thống kê bài thơ tính theo thể thơ/ số chữ (giai đoạn 1945-2000) 50
4. Bảng thống kê số lượng bài thơ tính theo thể thơ và tính theo số khổ trong
bài ở tập S4. 51
5. Bảng thống kê bài thơ tính theo thể thơ/ số chữ và tính theo số lượng mô
hình bài thơ trong tập S4 52
6. Bảng thống kê 25 mô hình/ 35 bài thể tự do trong tập S4 52
7. Bảng thống kê thể thơ trong tập S5 53
8. Bảng thống kê thể thơ trong tập S6 53
9. Bảng số liệu phân loại các bài thơ theo thể thơ (xét 514 bài) 53
10. Bảng thống kê so sánh các mô hình bài thơ ở tập S1 và S2 56
11. Bảng thống kê số bài có nhiều khổ thơ nhất ở từng thể thơ trong S1 và S2
57
12. Bảng thống kê các mô hình bài thơ (tính theo số lượng khổ thơ trong bài) ở
4 tập thơ của Hàn Mặc Tử 58
13. Bảng phân loại bài thơ theo số lượng khổ và phân loại khổ thơ theo số
lượng câu thơ trong bài ở Tuyển thơ Nhà thơ- Nhà giáo 91và 92
14. Bảng thống kê về số lượng khổ thơ trong mỗi tập thơ của 3 tập “Gửi hương
cho gió” (Xuân Diệu), “Từ ấy” (Tố Hữu) (có so sánh với “Tuyển tập Nguyễn
Bính)
101
15. Bảng thống kê số lượng các khổ thơ có các mô hình khác nhau thuộc những
trường hợp khác nhau của phép đối thanh điệu (217 khổ ở “Gửi hương cho gió” và
“Từ ấy”) 104
16. Bảng thống kê số lượng các khổ thơ có các mô hình khác nhau thuộc những
trường hợp khác nhau của phép đối thanh điệu ở “Lệ Thanh thi tập” và “Xuân như
ý” 105

17. Bảng thống kê số lượng các khổ thơ có các mô hình khác nhau thuộc những
trường hợp khác nhau của phép đối thanh điệu ở “Gái quê” và “Đau thương” 106
18. Bảng thống kê mô hình các khổ thơ không có phép đối thanh điệu thuộc 13
trường hợp (217 khổ ở “Gửi hương cho gió” và “Từ ấy”) 107
19. Bảng thống kê mô hình các khổ thơ không có phép đối thanh điệu ở “Lệ
Thanh thi tập” và “Xuân như ý” 107
Tổng cộng: 19 bảng (không kể các bảng ở phụ lục).
* Đồ thị.
1. Có 02 đồ thị minh họa cho VD30 110
2. Có 02 đồ thị minh họa cho VD31 110
3. Có 02 đồ thị minh họa cho VD32 112
4. Có 02 đồ thị minh họa cho VD33 113
5. Có 02 đồ thị minh họa cho VD34 115
6. Có 04 đồ thị minh họa cho VD35 115
7. Có 04 đồ thị minh họa cho VD36 117
8. Có 04 đồ thị minh họa cho VD37 118
9. Có 04 đồ thị minh họa cho VD38 120
10. Có 04 đồ thị minh họa cho VD39 121
11. Có 04 đồ thị minh họa cho VD40 123
12. Có 04 đồ thị minh họa cho VD41 124
13. Có 04 đồ thị minh họa cho VD42 125
Tổng cộng: 42 đồ thị.
*Biểu đồ: - 35 biểu đồ (xem phụ lục 1) 1->19 của phần phụ lục
- Chú thích cho các biểu đồ: 20->21 của phần phụ lục


1
MỞ ĐẦU

1. Mục đích nghiên cứu

Thơ Việt Nam trước thế kỉ XX chịu ảnh hưởng nhiều của luật thơ truyền
thống, thơ Đường (Trung Quốc) nên tuân thủ những quy tắc nghiêm ngặt.
Thơ Việt Nam trong thế kỉ XX, từ phong trào thơ Mới đến nay đã phát triển
theo nhiều khuynh hướng khác nhau, trong đó có những khuynh hướng hiện
đại, mang đậm dấu ấn của sự tự do hóa. Có thể nói, đầu thế kỉ XX, văn học
Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của nền giáo dục Pháp học và phong trào
Tân thư. Trong khi đó, ảnh hưởng của chữ Hán giảm xuống. Con người thời
kỳ đó tuy chịu hai lần nô lệ nhưng cá tính được giải phóng. Động lực xã hội
và sự phát triển về tư tưởng ảnh hưởng đến nghệ thuật, làm cho văn bản thơ
có nhiều biến động. Tuyệt đại bộ phận các thể loại thơ được tự do hóa. Nói
cách khác, đó là sự tự do hóa tổng hợp các thể loại lục bát, song thất lục bát,
thơ 7 chữ, thơ 8 chữ…Diễn ngôn thơ cũng là một cách hiện đại hóa ngôn ngữ
thơ. Có sự chuyển tiếp từ thơ có vần sang thơ tự do “hoặc tiếp theo thơ tự do,
hoặc như chỉ một nhánh chảy khác của thơ tự do, tùy theo quan điểm của mỗi
người, sự xuất hiện của thơ Tân hình thức (New Formalism), mà có người
gọi nôm na là thơ vắt dòng, được xem là xuất phát từ Mĩ trong những năm
gần đây…” (Nguyễn Đức Tùng, 2003 talawas). Giai đoạn 1975-1986 là giai
đoạn “thơ trẻ có những tìm tòi thể hiện, đưa ra được những mô hình cấu trúc
khác lạ so với những thời kỳ trước đó” (Trần Quang Đạo). Đặc biệt, trên thi
đàn đã có cả những thể loại thơ dài, dài gần như trường ca và có cả những
loại thơ hao hao giống văn xuôi, có người đã gọi đó là thơ văn xuôi. Thậm
chí có cả những thể loại thơ không vần, câu dài câu ngắn không theo trật tự
của ngữ pháp truyền thống hoặc trong thơ xuất hiện nhiều con số
Bởi ngôn ngữ là chất liệu của thơ nên sự tự do hóa thơ gắn liền với sự
hiện đại hóa ngôn ngữ thơ. Việc nghiên cứu ngôn ngữ thơ gắn liền với nghiên
cứu thơ như hình với bóng. Trước đây, các nhà nghiên cứu, phê bình thơ chủ
yếu nghiên cứu thơ từ phương diện lý luận văn học, theo kinh nghiệm, theo
hướng cảm thụ mang tính chủ quan, không nêu rõ được mối quan hệ biện
chứng giữa hình thức biểu đạt sâu xa là ngôn ngữ và nội dung thơ nên còn có
những ý kiến không thống nhất, gây nhiều tranh biện. Vì thế, việc nghiên cứu

sự tự do hóa, hiện đại hóa về hình thức thơ tức là nghiên cứu ngôn ngữ thơ và
sự tự do hóa, hiện đại hóa về nội dung gắn liền với nhau sẽ giúp chúng ta
thấy được mối quan hệ qua lại giữa hình thức và nội dung một cách biện
chứng, khách quan hơn. Nói khác đi là: việc nghiên cứu sự cách tân ngôn
ngữ thơ sẽ góp phần chỉ rõ sự cách tân tư tưởng thơ, nội dung thơ một cách
có cơ sở khoa học.

2
Ở Việt Nam, ngôn ngữ thơ cũng được nhiều người quan tâm. Ngôn ngữ
thơ được công chúng, những người nghiên cứu, những nhà phê bình tiếp
nhận và bình xét theo hướng đa diện với những lăng kính ở các mức độ khác
nhau. Có người nhắc đến “ngôn ngữ” khi bình luận về thơ nói chung, thơ
Việt Nam thế kỉ XX nói riêng, nhắc đến “con âm”, “con chữ” (Dương
Tường). Nhưng có lẽ đó mới chỉ là dấu hiệu của sự lưu ý đến khía cạnh ngôn
ngữ khi bình luận về thơ chứ chưa thực sự có những nghiên cứu mang tính
chất vận dụng, nhấn mạnh hơn hoặc khai thác có chiều sâu hơn đến các cấp
độ của ngôn ngữ trong các công trình nghiên cứu của lí luận phê bình văn
học. Ở một vài công trình khác, ngôn ngữ thơ được soi chiếu từ nhiều góc độ:
Ngôn ngữ thơ (Nguyễn Phan Cảnh), Ngôn ngữ thơ Việt Nam (Nguyễn Hữu
Đạt), Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học (Mai Ngọc Chừ), Ngôn
ngữ quy ước hay tân kỳ (Trần Văn Nam), Cuộc nổi loạn của ngôn từ trong
thơ đương đại (Trần Ngọc Hiếu), Quan niệm nghệ thuật về ngôn từ thơ Việt
đương đại (Trần Ngọc Hiếu), Lịch sử hiện đại hóa thơ Việt trong mắt một
nhà thơ, trong đó có một phần liên quan đến ngôn ngữ thơ (bản gốc tiếng
Anh của Hoàng Hưng, do Võ Sư Phạm dịch)…Tuy thế, các bài viết về sự tự
do hóa ngôn ngữ thơ và hiện đại hóa thơ Việt thì lẻ tẻ, rải rác còn sách về
ngôn ngữ thơ thì phần nhiều nghiên cứu theo hướng thi pháp. Tức là, chưa có
công trình nào nghiên cứu về sự tự do hóa ngôn ngữ thơ như một chuyên
luận.
Có thể nói, ngôn ngữ thơ hiện nay vẫn còn những khoảng trống có nhu

cầu đòi hỏi được nghiên cứu. Chính vì thế, luận án này nghiên cứu về sự tự
do hóa ngôn ngữ thơ- một “điểm nóng” của mảng nghiên cứu ngôn ngữ văn
học. Trên cơ sở một số bài báo, công trình đã có ở những năm trước theo
hướng nghiên cứu thơ từ góc độ ngôn ngữ học, chúng tôi lựa chọn đề tài
“Nghiên cứu sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX (trên
tư liệu tập thơ của một số tác giả)” với mục đích tìm hiểu, khai thác và tìm
ra khâu đột phá của thơ và ngôn ngữ thơ Việt Nam thế kỷ XX.
Luận án chọn hướng nghiên cứu sự tự do hóa trong thơ và hiện đại hóa
ngôn ngữ thơ với mục đích trên sẽ góp phần làm rõ mối tương quan biện
chứng giữa hình thức và nội dung: chính sự cách tân về hình thức là nhằm thể
hiện, phản ánh sự cách tân về nội dung. Hướng nghiên cứu này báo hiệu lý
luận ngôn ngữ thơ sẽ phát triển hơn, đồng thời, các nhà sáng tác thơ có thêm
công cụ để sáng tạo, phát huy khả năng thơ của mình trên cơ sở lý luận về
ngôn ngữ thơ có tính khoa học.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

3
Đối tượng nghiên cứu của luận án chính là sự tự do hóa thơ Việt Nam thế
kỉ XX, trên cơ sở tư liệu thơ của một số tác giả cụ thể.
Nói về cấu trúc ngôn ngữ thơ, người ta thường nói đến các cấp độ bài
thơ, khổ thơ, câu thơ, bước thơ. Trong một phạm vi nhất định, luận án không
bàn đến vấn đề bước thơ. Luận án nghiên cứu về sự tự do hóa ngôn ngữ thơ
tiếng Việt thế kỷ XX ở 3 cấp độ: bài thơ, khổ thơ, câu thơ trên cơ sở khảo sát
các bài thơ thuộc các thể loại khác nhau như thơ 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ,
lục bát, song thất lục bát, tự do… (để có cái “phông” tương đối khái quát và
có sự so sánh, đối chiếu cơ bản mang tính chất “nền”) nhưng lấy tâm điểm
khai thác nghiên cứu chủ yếu là thơ 7 chữ và thơ 8 chữ (có so sánh với thơ tự
do).
Luận án hướng tới việc nghiên cứu cấu trúc của ngôn ngữ thơ (tổ chức,

mô hình, niêm luật, vần, nhịp, thanh điệu) là chủ yếu nhưng đồng thời cũng
đặt việc nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ thơ trong mối tương quan với thi pháp
học ngôn ngữ thơ, phân tích diễn ngôn ngôn ngữ thơ, chức năng ngôn ngữ
thơ… Từ đó có một cách tiếp cận thơ theo hướng ngôn ngữ học rõ ràng hơn.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án này được thực hiện nhằm giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
3.1. Trên cơ sở các bảng biểu, số liệu thống kê định lượng và những
nghiên cứu định tính, luận án tìm ra những sự đột phá về cấu trúc, thể loại ở
các cấp độ bài thơ, khổ thơ, câu thơ trong các giai đoạn khác nhau để thấy
được cái Mới trên cả hai phương diện hình thức và nội dung ngữ nghĩa được
biểu đạt. Cụ thể là:
3.1.1.Ở cấp độ bài thơ (Chương 2), luận án nghiên cứu về:
Các thể loại thơ. Trong đó chú trọng nhất là thơ 7 chữ, có so sánh với thơ
8 chữ. Việc nghiên cứu được mở trên diện nhiều thể thơ để thấy được sự đa
dạng, phong phú của sự tự do hóa trải rộng trên nhiều thể loại (có cái nhìn
tổng quát hơn về sự tự do hóa).
Cấu trúc bài thơ: bài chia khổ hay không chia khổ, số lượng khổ trong
bài, các khổ trong bài được tổ chức theo các mô hình cấu trúc như thế nào.
Ngôn ngữ diễn đạt của bài thơ: có tính khẩu ngữ, đối thoại, diễn ngôn, tự
sự, trữ tình… hay không.
3.1.2. Ở cấp độ khổ thơ (Chương 3), luận án nghiên cứu về các loại khổ
thơ (khổ 1 câu, khổ 2 câu,… khổ nhiều câu), cấu trúc khổ thơ, luật đối, niêm,
gieo vần trong khổ: tập trung vào kiểu khổ thơ thể 7 chữ (có so sánh với khổ
thơ thể 8 chữ và khổ thơ thể tự do).
3.1.3. Ở cấp độ câu thơ (Chương 4), luận án nghiên cứu về cách ngắt
nhịp, sự phân bố, sự tập trung thanh điệu trong câu thơ, một số vần trong

4
câu thơ: tập trung chủ yếu vào câu thơ thể 7 chữ (có so sánh với câu thơ thể

8 chữ và thể tự do).
3.2. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu cụ thể về bài thơ, khổ thơ, câu thơ,
luận án phát hiện và lý giải đặc điểm cách tân của thơ tiếng Việt, sự biến đổi
từng bước của thơ truyền thống trong thời kỳ hiện đại, tính bền vững tương
đối của thơ truyền thống. Từ đó mà tìm ra sự khu biệt của thơ mới với thơ cũ,
thấy được sự biến đổi của ngôn ngữ thơ Việt Nam qua các giai đoạn.
3.3. Tìm ra sự cách tân về ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ tác phẩm thơ đồng
thời dự báo khuynh hướng phát triển, biến đổi của ngôn ngữ thơ tiếng Việt
sau này.

4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc quy nạp, trên cơ sở thu
thập, thống kê, phân tích, xử lý, so sánh tư liệu để tìm ra sự biến đổi, quá
trình tự do hóa của ngôn ngữ thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX. Từ đó, đề tài
bàn luận và đưa ra những kết luận đánh giá chung về vấn đề được nghiên
cứu.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở một số phương pháp sau:
4.1. Phương pháp thống kê
Luận án sử dụng phương pháp thống kê như sau:
4.1.1. Thống kê số lượng bài thơ (tính theo thể thơ/ số chữ hoặc theo khổ
trong bài và số câu trong khổ) và tỉ lệ phần trăm tương ứng rồi phân loại bài
thơ (có các mô hình khác nhau) theo giai đoạn (1900-1945; 1945-2000) và ở
từng tập thơ của một số tác giả được chọn (Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên,
Xuân Diệu, Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm).
4.1.2. Thống kê số lượng khổ thơ trong mỗi tập thơ để tìm hiểu về các loại
khổ.
4.1.3. Thống kê số lượng, tỉ lệ phần trăm các trường hợp xuất hiện và
không xuất hiện phép đối thanh điệu bằng trắc ở từng khổ, từng bài trong các
tập thơ và tổng hợp lại, khái quát lên thành các mô hình. Việc thống kê đó
dựa trên cơ sở xử lý tư liệu từng tiếng trong câu thơ: xét xem từng tiếng

thuộc về thanh trắc hay thanh bằng, có âm vực cao hay thấp.
4.1.4. Thống kê hiện tượng niêm của các câu thơ trong khổ (chủ yếu là
thơ 7 chữ) ở từng bài thơ. Từ đó, luận án thống kê số trường hợp có niêm
theo thanh bằng hoặc trắc ở các tập thơ (có tỉ lệ phần trăm tương ứng).
4.1.5. Thống kê các hiện tượng gieo vần ở từng khổ trong các tập thơ (số
lượng, tỉ lệ phần trăm, mô hình gieo vần) để đưa ra số liệu về các trường hợp
có hoặc không có hiện tượng gieo vần.

5
4.1.6. Thống kê về các cách ngắt nhịp câu thơ: xét cách ngắt nhịp ở từng
câu trong từng khổ; đưa ra mô hình các cách ngắt nhịp khác nhau, tính số
lượng và tỉ lệ phần trăm của các cách ngắt nhịp.
Kết quả thống kê đó được sử dụng để phục vụ cho việc miêu tả, so sánh
và bàn luận về bài thơ, khổ thơ, câu thơ như trong phần nhiệm vụ nêu trên
nhằm đạt được mục đích chung mà luận án đề ra.
4.2. Phương pháp miêu tả
Luận án miêu tả kết hợp với phân tích mô hình các bài thơ, miêu tả về khổ
thơ với phép đối thanh điệu bằng-trắc, âm vực cao- thấp, cách gieo vần, luật
niêm, miêu tả các khả năng ngắt nhịp thơ.
4.3. Phương pháp so sánh
Luận án so sánh các tập S1, S2, S3, S4, S5, S6 (xem trang chú thích kí
hiệu viết tắt) với tổng số 514 bài thơ để đánh giá kết quả số liệu về thể thơ,
về các mô hình bài thơ (tính theo số khổ trong bài và số câu trong khổ). Trên
cơ sở đó, luận án bàn luận về thơ theo giai đoạn (1900-1945; 1945-2000)
hoặc theo tác giả, so sánh các giai đoạn, các tác giả khác nhau để làm nổi
bật những nét mới, những yếu tố tự do hóa và hiện đại hóa trong thơ. Từ đó
tìm hiểu và khẳng định vài nét về phong cách của một số nhà thơ.
4.4. Phương pháp phân tích thi pháp ngôn ngữ học
Luận án tìm hiểu, phân tích một số khả năng kết hợp, đảo ngữ, “vặn
câu”… Đồng thời, luận án cũng thực hiện các thao tác thay thế, chêm xen, cải

biến … và vận dụng lý thuyết về trục liên tưởng, trục cú đoạn (hệ hình, cú
đoạn) để khai thác sự kết hợp thể hiện tính đa trị của thơ. Bên cạnh đó, luận
án phân tích bài thơ, khổ thơ, câu thơ để tìm hiểu 6 chức năng cơ bản mà
Roman Jakobson đã từng khẳng định: chức năng thể hiện, chức năng thi ca,
chức năng tiếp xúc, chức năng siêu ngôn ngữ, chức năng biểu cảm, chức
năng tác động trong thơ của một số tác giả được chọn.
4.5. Phương pháp phân tích thể loại
Dựa vào các số liệu thống kê, luận án phân tích về những đặc trưng của
thể loại thơ được biểu hiện ở bài thơ, khổ thơ, câu thơ.
4.6. Phương pháp phân tích hội thoại- diễn ngôn
Một phương pháp mà luận án này không thể bỏ qua là áp dụng lý thuyết
phân tích diễn ngôn vào việc nghiên cứu thơ Việt thế kỷ XX: nghiên cứu thơ
trong mối liên hệ đa chiều giữa thơ với người sáng tác, người tiếp nhận (chủ
thể sáng tác- khách thể- đối thể), với ngữ cảnh, môi trường giao tiếp (quá
trình sáng tác-tiếp nhận), môi trường tồn tại của thơ (bài, khổ, câu), các mối
liên hệ, tương tác qua lại giữa các yếu tố đó, tính hiển ngôn, hàm ẩn…

5. Nguồn tư liệu

6
5.1. Nguồn tư liệu của luận án là những bài thơ, khổ thơ, câu thơ ở một số
tác phẩm thơ tiếng Việt thế kỷ XX. Tác giả luận án tự thống kê, phân tích và
xử lý tư liệu ở các tập thơ: hai tập “Từ ấy” của Tố Hữu và “Gửi hương cho
gió” của Xuân Diệu; một số tập “Gái quê”, “Đau thương”, “Lệ Thanh thi
tập”, “Xuân Như ý” của Hàn Mặc Tử; 50 bài thơ trong phần “Một hồn thơ
trải dài hơn nửa thế kỷ” (Thử chọn 50 bài thơ đặc sắc trong đời thơ của Chế
Lan Viên) ở “Chế Lan Viên- Người làm vườn vĩnh cửu” (NXB Hội nhà
văn,1995, trang 423-491); 81 bài thơ trong 3 tập thơ của Phạm Tiến Duật
(“Vầng trăng quầng lửa”, NXB Văn học, Hà Nội, 1970, 83 trang; “Thơ một
chặng đường”, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1970, 90 trang; “ở hai đầu

núi”, NXB Tác phẩm mới, 1981, 75 trang); 164 bài thơ ở 2 tập thơ của
Hoàng Nhuận Cầm (“Những câu thơ viết đợi mặt trời”, NXB Tác phẩm mới,
Hội nhà văn Việt Nam, 1983, 60 trang; “Xúc xắc mùa thu”, NXB Hội nhà
văn Hà Nội, 1992, 59 trang) và ở 1 tập thơ của Lê Đạt (“Bóng chữ”, NXB
Hội nhàvăn, Hà Nội, 1994, 138 trang); Tuyển thơ Nhà thơ- Nhà giáo, Nhà
xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2002, 400 trang; Tuyển tập thơ tình Việt Nam
thế kỷ XX, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2003, 511 trang.
Ở cấp độ bài thơ, luận án có 2 phần: khảo sát theo diện bằng phương pháp
định lượng trên tư liệu thơ của nhiều nhà thơ; khảo sát theo điểm bằng
phương pháp định lượng và định tính trên tư liệu 4 tập thơ của Hàn Mặc Tử,
50 bài thơ đặc sắc của Chế Lan Viên và thơ của các nhà thơ- nhà giáo thời kỳ
1945-1975. Trong số các tư liệu nói trên, chúng tôi chọn Tuyển thơ Nhà thơ-
Nhà giáo, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2002, 400 trang làm tư liệu
cho luận án vì trong tuyển thơ này có nhiều tác giả có tên tuổi trên thi đàn
như: Vũ Đình Liên, Trần Đăng Khoa, Ngô Văn Phú, Vũ Quần Phương,
Nguyễn Khoa Điềm, Phi Tuyết Ba, Nguyễn Trọng Hoàn, Cầm Giang, Tế
Hanh, Chính Hữu, Hữu Loan, Bằng Việt, Nguyễn Bùi Vợi….
Ở cấp độ khổ thơ và câu thơ, luận án chọn tư liệu thơ của các tác giả Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Tố Hữu, Hoàng Nhuận Cầm, Phạm Tiến
Duật đồng thời luận án phân tích kĩ hơn về 01 bài lẻ của Hữu Loan, 01 câu lẻ
của Nguyễn Đình Thi vì tất cả các tư liệu này phù hợp, đáp ứng với mục đích
nghiên cứu mà luận án đề ra.
Đồng thời, đề tài cũng sử dụng tư liệu đã được xử lý của một số sinh viên
trong khóa luận tốt nghiệp, công trình nghiên cứu khoa học sinh viên (xem
phụ lục 2).
5.2. Đề tài cũng tham khảo thêm các ví dụ, các quan điểm của các giáo
trình, công trình nghiên cứu về ngôn ngữ thơ, về thơ Việt Nam các giai đoạn,
đặc biệt là thơ Việt Nam thế kỷ XX.



7
6. Một vài tiên liệu về đóng góp của luận án
6.1. Về giá trị lý luận
6.1.1. Luận án này là công trình đầu tiên khảo sát về sự tự do hóa ngôn
ngữ thơ thế kỉ XX như là một chuyên luận, có đóng góp vào lý luận ngôn ngữ
thơ: đề tài khảo sát và tìm kiếm ra những đặc điểm, những vấn đề cụ thể, cơ
bản của sự tự do hóa và hình thành thể loại thơ mới, sự đổi mới của ngôn ngữ
thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX như:
6.1.1.1. Một số động lực của sự biến đổi ngôn ngữ thơ.
6.1.1.2. Sự biến đổi ngôn ngữ thơ ở 3 cấp độ: bài thơ, khổ thơ, câu thơ
(những biến đổi cụ thể và hệ quả của nó).
6.1.1.3. Đặc điểm phong cách thơ của các tác giả.
Đề tài sẽ có những đóng góp nhất định làm sáng tỏ thêm một số vấn đề:
6.1.2. Góp phần làm rõ lịch sử ngôn ngữ văn học Việt Nam trong thế kỷ
XX: sự cách tân về hình thức nhằm đáp ứng sự phát triển về tư tưởng và phục
vụ sự đổi mới về nội dung.
6.1.3. Góp phần làm sáng tỏ thêm một vài vấn đề lý luận về phong cách
học tiếng Việt.
6.2. Về giá trị thực tiễn
6.2.1. Đề tài này sẽ có những đóng góp mới vào việc nghiên cứu ngôn
ngữ văn học Việt Nam, đặc biệt là ở góc độ ngôn ngữ thơ với lối tiếp cận
ngôn ngữ học, hướng tới việc nghiên cứu cấu trúc của ngôn ngữ thơ (tổ chức,
mô hình, niêm luật, vần, nhịp, thanh điệu) là chủ yếu nhưng đồng thời cũng
đặt việc nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ thơ trong mối tương quan với thi pháp
học ngôn ngữ thơ, phân tích diễn ngôn ngôn ngữ thơ, chức năng ngôn ngữ
thơ… Tức là, đề tài này sẽ đưa ra phương pháp nghiên cứu thơ tiếng Việt
hiện đại thế kỷ XX từ góc độ ngôn ngữ học.
6.2.2. Đề tài sẽ có đóng góp vào việc tìm kiếm và đổi mới cách dạy môn
văn cho người Việt ở các bậc đào tạo khác nhau (phổ thông trung học, đại
học và sau đại học).

6.2.3. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng trong việc giảng
dạy và nghiên cứu biên soạn giáo trình về ngôn ngữ thơ ở các bậc đại học,
sau đại học.

7. Bố cục của luận án
Ngoài mục lục, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận án gồm có 3 phần chính:
mở đầu, nội dung, kết luận.
Trong đó, phần Nội dung gồm có 4 chương:
Chương 1. Cơ sở lý thuyết: những vấn đề lí luận liên quan đến nội dung luận án

8
Chương 1 tìm hiểu khái niệm về thơ, ý thơ, tứ thơ. Chương này cũng trình
bày về cấu trúc của thơ (dạng tồn tại và nguyên tắc tổ chức cơ bản của thơ:
thế nào là bài thơ, khổ thơ, câu thơ. Sau đó, luận án khai thác những cách tiếp
cận khác nhau trong khi nghiên cứu thơ và trình bày những lối nghiên cứu
thơ từ truyền thống đến hiện đại của Việt Nam.
Chương 2. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỷ XX ở cấp độ bài thơ
- Nêu kết quả khảo sát (theo diện) bằng phương pháp định lượng các loại
bài thơ ở các tập S1, S2, S3, S4, S5, S6. Trên cơ sở các bảng thống kê, luận
án so sánh, đánh giá kết quả số liệu về thể thơ, về các mô hình bài thơ ở một
vài tác giả và theo giai đoạn.
- Trình bày kết quả khảo sát (theo điểm) bằng phương pháp định lượng và
định tính: về 4 tập thơ của Hàn Mặc Tử, về 50 bài thơ đặc sắc của Chế Lan
Viên, về một số bài thơ của các nhà thơ- nhà giáo thời kỳ 1945-1975. Rồi đến
tiểu kết của chương 2.
Chương 3. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỷ XX ở cấp độ khổ thơ
Chương 3 bàn về sự tự do hóa thơ tiếng Việt thế kỉ XX ở cấp độ khổ thơ,
tập trung chủ yếu ở khổ thơ trong thơ 7 chữ (có so sánh với khổ trong thơ 8
chữ và khổ trong thơ tự do). Cụ thể hơn, chương này nghiên cứu về một số
vấn đề như: các loại khổ thơ (khổ 1 câu, khổ 2 câu… khổ nhiều câu), luật

đối, luật niêm, gieo vần trong khổ. Vấn đề các loại khổ thơ sẽ chỉ được trình
bày ở dạng khái quát nhất. Còn lại, chương 3 đi sâu vào khai thác 3 vấn đề
chính: đối thanh điệu bằng-trắc, luật niêm và hiện tượng gieo vần trong khổ,
trong đó phần chủ yếu dành cho phép đối thanh điệu bằng-trắc và hiện tượng
gieo vần.
Chương 4. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỷ XX ở cấp độ câu thơ.
- Trình bày khái niệm về nhịp thơ, các cơ sở ngắt nhịp, kết quả thống kê
về các cách ngắt nhịp, một số bàn luận về nhịp điệu trong các tập thơ của
Xuân Diệu, Tố Hữu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật. Sau đó,
luận án phân tích một số nhịp điệu cụ thể và về các khả năng ngắt nhịp khác
nhau của cùng một câu thơ.
- Trình bày kết quả khảo sát định lượng về thanh điệu, phân tích về vài
kiểu tập trung thanh điệu trong câu thơ.
- Phân tích về một số loại vần và sự tập trung vần trong câu thơ.
- Tiểu kết khái quát, tổng hợp lại những nội dung đã được trình bày trong
chương 4.




9
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT:
NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN
Để đạt được mục tiêu đề ra, ở chương 1, luận án sẽ tập trung trình bày những
thông tin về lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ thơ. Tiếp đến là phần về khái niệm thơ, ý
thơ, tứ thơ, về cấu trúc của thơ (bài, khổ, câu). Sau đó là những cách tiếp cận khác
nhau trong khi nghiên cứu thơ. Cuối cùng là phần viết dành cho những lối nghiên
cứu thơ từ truyền thống đến hiện đại của Việt Nam (thơ cũ, thơ mới), khái niệm thơ
tự do, sự tự do hóa thơ và tự do hoá ngôn ngữ thơ.
1. 1 Những thông tin về lịch sử vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ thơ

Các bài nghiên cứu về thơ và ngôn ngữ thơ Việt Nam thế kỉ XX rất phong
phú, sôi nổi.
Thời kỳ thơ mới (1932-1945), các nhà thơ Mới đã bứt mình ra khỏi những
ràng buộc của thơ Đường và thơ Cổ phong. Cái Tôi trong thơ Mới được khẳng định
mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ phóng khoáng, chủ đề thơ rộng mở hơn trước. Từ Tản Đà,
Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Lan Sơn, Thanh Tịnh, Thúc Tề, Huy Thông cho đến
Nguyễn Vỹ, Đoàn Phú Tứ, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Yến Lan, Phạm Hầu,
Xuân Tâm, Thu Hồng, Bàng Bá Lân, Nam Trân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, ngôn ngữ thơ từng bước được “thoát xác” khỏi những khuôn
thước về câu chữ, niêm luật, vần…Những sáng tác của họ và hoạt động thực tế sáng
tác của họ đã làm nên một cuộc “cách mạng thơ” thực sự.
Năm 1943, Dương Quảng Hàm đã đề cập đến những nét cơ bản của các thể loại
thi ca tiếng Việt trong cuốn “Việt Nam văn học sử yếu”. Sau đó, 1971, Bùi Văn
Nguyên và Hà Minh Đức đã nghiên cứu về cấu trúc hình thức phổ quát và giản yếu
lịch sử phát triển của các thể thơ nói chung trong “Thơ ca Việt Nam- Hình thức và
thể loại” trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đã có của Phan Kế Bính trong “Việt
Hán văn khảo” (1918), Bùi Kỉ trong “Quốc văn cụ thể” (1932), Dương Quảng Hàm
trong “Việt Nam văn học sử yếu” (1943)… Đặc biệt, phần nghiên cứu về thể thơ
của Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức có ý nghĩa tạo một bước tiến nền tảng cho
việc nghiên cứu thể loại thơ nói chung.
Gần hơn nữa, một số công trình nghiên cứu của các tác giả như Trần Đình Sử,
Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Lý Hoài Thu, Lê Lưu Oanh, Trinh Đường, Mã Giang
Lân, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Phạm Hùng, Bùi Công Hùng…đều hướng tới một, hoặc

10
một vài hoặc nhiều tác giả, tác phẩm thơ (có cả thơ trung đại và hiện đại, nhiều
công trình chú trọng vào thơ Việt thế kỷ XX) với một số nội dung chính như sau:
- Tiến trình văn học.
- Phê bình lí luận văn học.
- Sự cách tân thơ văn.

- Nghiên cứu thơ theo hướng thi pháp học văn học.
Ngoài những công trình nghiên cứu có bề dày về lí luận phê bình văn học của
các tác giả như Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Bùi Văn Nguyên, Lê Đình Kỵ, Trần
Đình Sử… được xuất bản (sách), đăng tải trên các tạp chí (bài viết), trong những
năm gần đây có không ít những bài phê bình tuy “nhỏ gọn” nhưng khá hấp dẫn trên
diễn đàn văn học theo một kênh thông tin không kém phần quan trọng hiện nay- các
diễn đàn trên các trang web, trên internet. Các góc cạnh, các phương diện của thơ
Việt Nam, đặc biệt là thơ Việt Nam thế kỷ XX được quan tâm, tạo ra nhiều sự bàn
luận, thậm chí là cả sự tranh cãi ở các bài viết như “Liệu pháp thơ” (Nguyễn Đức
Tùng, talawas.org), “Thơ Việt Nam chờ phiên đổi gác” (Hoàng Hưng), “Thơ tự do,
thơ có vần, và thơ tân hình thức” (Nguyễn Đức Tùng), “Song thoại với cái mới của
thơ hôm nay” (Trần Vũ Khang), “Khoảng tối của thi ca” (Inrasara), “Nguyễn Trọng
Tạo, Nguyễn Thụy Kha: Không thể đo chiều cao cách tân bằng cái thước mét cũ”
(Lê Mỹ Ý), “Lịch sử hiện đại hóa thơ Việt trong mắt một nhà thơ” (Hoàng Hưng,
do Võ Sư Phạm dịch), “Tìm hiểu một quan niệm nghệ thuật về ngôn từ thơ Việt
đương đại” (Trần Ngọc Hiếu), “Cấu trúc trong thơ trẻ sau 1975” (Trần Quang
Đạo), “Cuộc nổi loạn của ngôn từ trong thơ đương đại- ghi nhận qua một số hiện
tượng” (Trần Ngọc Hiếu), “Thơ tạo dấu ấn riêng, dù là ngôn ngữ quy ước hay tân
kỳ” (Trần Văn Nam)…
Các công trình và bài viết nói trên đã đề cập đến “ngôn từ” và “ngôn ngữ” khi
bàn về thơ Việt Nam thế kỉ XX. Thực ra, việc nghiên cứu chú ý đến những cách
tiếp cận nghệ thuật mới về nghệ thuật thi ca và các yếu tố ngôn ngữ trong thơ đã có
mầm mống ở Nga từ đầu thế kỉ XX. Có thể nói, “Vào đầu thế kỷ XX, trường phái
hình thức Nga đã đưa ra những cách tiếp cận mới về nghệ thuật thi ca. Con đường
khám phá của họ là dựa vào kết cấu hình thức để lý giải nội dung ý nghĩa. Đây có
thể coi là một bước nhảy vọt đáng ghi nhận về quan điểm và nhận thức của giới
nghiên cứu văn học. Lấy những yếu tố mang tính phân biệt về hình thức giữa thơ và

11
văn xuôi như âm luật, vần, câu thơ, đoạn thơ… làm đơn vị khảo sát, trường phái

này thực sự đã coi văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ. Đó là sự cụ thể hóa cái cơ
bản nhất của các loại hình văn chương nằm trong định nghĩa mang tính khái quát
“văn học là nhân học” của M. Gooki.
Các nhà hình thức Nga như R. Jacobson, V. Girmunski đã đi sâu nghiên cứu
các yếu tố ngôn ngữ cấu thành nhịp điệu thơ, phân tích chức năng ngôn ngữ thông
qua các đơn vị cấu trúc hệ thống. Những quan điểm nghiên cứu của trường phái này
thể hiện rõ nét và tập trung nhất trong bài viết về “Những con mèo” của Ch.
Baudelaire.” [51, tr.5]
Bên cạnh đó, có thể thấy những luận điểm của Roman Jakobson về chức năng
của ngôn ngữ thơ có vai trò như một cánh cửa gợi mở đường hướng cho các nhà
nghiên cứu bước sang một con đường nghiên cứu thơ Việt Nam nói chung, thơ Việt
thế kỷ XX nói riêng: nghiên cứu thơ theo hướng thi pháp học kết hợp với lý thuyết
về chức năng ngôn ngữ thơ. Bài viết của Roman Jakobson tuy chưa phân tích vào
những dẫn liệu cụ thể nhưng lại có sức thuyết phục bởi tư tưởng khái quát mang
tính định hướng nghiên cứu cho những người muốn đào sâu khai thác vào địa hạt
của văn học, thơ ca từ góc độ ngôn ngữ - một góc độ dù đã được giới nghiên cứu
nhắc đến, vận dụng và khám phá song vẫn chưa thực sự có nhiều bài nghiên cứu.
Như vậy, có thể nói, “Các công trình nghiên cứu theo hướng cấu trúc- chức
năng mặc dù chưa làm cho những người quan tâm đến lĩnh vực thi ca thỏa mãn
hoàn toàn, song nó cũng đã tạo ra được những tiền đề quan trọng cho việc xây dựng
một lí thuyết vững chắc giúp các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thơ có thể thực hiện tốt
những mục tiêu chưa hoàn thiện và các mục tiêu nghiên cứu mới.” [51, tr.5]
Ở Việt Nam, cũng có một số công trình nghiên cứu về thi ca tiếng Việt từ góc
độ ngôn ngữ, tiêu biểu là chuyên luận “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong
truyện Kiều” (1985) của Phan Ngọc. Phan Ngọc đã dùng những thao tác nghiên cứu
định lượng, định tính của ngôn ngữ để tạo ra một hướng đi hợp lý trong việc đánh
giá tác phẩm thơ.
Nói đến các bài viết hoặc công trình nghiên cứu, bình luận về thơ theo hướng
nghiên cứu thi pháp hoặc ngôn ngữ học, ngoài Phan Ngọc với công trình nói trên,
còn có thể kể đến một số tên tuổi mà luận án này quan tâm như: Nguyễn Phan

Cảnh, Nguyễn Hữu Đạt, Mai Ngọc Chừ, Lý Toàn Thắng… Trong số đó, chúng tôi

12
sẽ chọn và nêu kĩ hơn về một số tác giả (VD: Nguyễn Phan Cảnh, Mai Ngọc Chừ,
Nguyễn Hữu Đạt) và quan điểm của họ ở chương 1 – Cơ sở lí luận của luận án.
Điểm qua một số tác giả thì thấy năm 1987, Nguyễn Phan Cảnh đã đề cập đến
vấn đề khai thác hệ kết hợp của thơ hiện đại, cách tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa
(chính là tính đa trị của ngôn ngữ) hay bản chất các phương thức chuyển nghĩa…
trong cuốn “Ngôn ngữ thơ”. Đến năm 2001, “Ngôn ngữ thơ” của Nguyễn Phan
Cảnh được tái bản, bổ sung. Có thể nói đây là một công trình nghiên cứu rất có ý
nghĩa, đặt nền móng cho lý thuyết nghiên cứu ngôn ngữ một thể loại văn học đặc
thù (trong cái nhìn phân biệt giữa ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ văn xuôi).
Với “Ngôn ngữ thơ Việt Nam” (1998), Hữu Đạt đã có những nghiên cứu nhất
định về đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ thơ tiếng Việt trên cơ sở vận dụng khá nhuần
nhuyễn các lý thuyết quan hệ hệ hình, quan hệ cú đoạn… Bên cạnh đó, các cuốn
“Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt” (2000), “Phong cách
học tiếng Việt hiện đại” (2001), “Phong cách học với việc dạy văn và lý luận phê
bình văn học” (2002) của tác giả này cũng là những công trình nghiên cứu có giá trị
nền tảng, cơ sở cho việc nghiên cứu về văn học nói chung, thơ nói riêng từ phương
diện phong cách học của ngôn ngữ học.
Trong cuốn “Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng Ngôn ngữ học” (Nhà xuất bản
Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, in lần 2, 2005), Mai Ngọc Chừ đã rất cẩn thận, tỉ mỉ
với một phương pháp làm việc logic, khoa học của ngôn ngữ học để khai thác tương
đối triệt để vấn đề vần thơ Việt Nam: Chức năng của vần, mối quan hệ của nó với
các yếu tố khác; Đơn vị hiệp vần, hai mặt đồng nhất và khác biệt của vần thơ; Vai
trò và quy luật phân bố các yếu tố cấu tạo âm tiết tiếng Việt trong việc tạo lập vần
thơ; Vấn đề phân loại vần, vị trí và sự hoạt động của các loại vần trong các thể thơ,
khổ thơ, vần xét về mặt hòa âm. Đây là một trong những công trình khẳng định
được vai trò của ngôn ngữ học trong việc nghiên cứu thơ Việt, dù mới chỉ đi sâu
vào cấp độ vần thơ (có đặt vần thơ trong mối liên hệ với các hiện tượng khác như

nhịp điệu, ngữ điệu…, trong mối liên hệ với các câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, thậm
chí bài thơ). Đồng thời, công trình này cũng là một gợi ý và tạo cơ sở cho luận án
của chúng tôi khi nghiên cứu thơ Việt Nam thế kỷ XX ở nhiều cấp độ khác nhau:
bài thơ, khổ thơ, câu thơ.
Gần đây còn có các bài báo của Lý Toàn Thắng (“Thơ mới bảy chữ của Xuân
Diệu: khổ thơ và luật thơ” 223, tr 3-7, “Thử đo đếm thơ”, 224, tr 42->49), Trần

13
Đại Nghĩa (“Đọc mới bài thơ “Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan 193, tr
34->37), Vũ Duy Thông (“Ngôn ngữ Thơ mới và ngôn ngữ thơ kháng chiến” 235,
tr 52->57), Nguyễn Thế Lịch (“Ngữ pháp của thơ” 198, tr.58->64) cũng chú ý
đến ngôn ngữ thơ.
Tiếp đó, có các bài nghiên cứu thơ Việt Nam thế kỷ XX theo hướng ngôn ngữ
học đăng rải rác trên các tạp chí Khoa học- Đại học Quốc gia Hà Nội, Ngôn ngữ của
các tác giả Đinh Văn Đức, Nguyễn Phương Thùy là những bài đặt cơ sở nền tảng
cho việc “thử nghiệm và kiểm chứng” một số hướng nghiên cứu mà luận án này
hướng tới.

1.2. Nhận thức về thơ
1.2.1. Nhận thức về mặt lịch sử sáng tác và thi pháp
Trước hết, luận án tìm hiểu khái niệm về thơ. Thơ là gì?
Thơ là hiện tượng độc đáo của văn học ở cơ chế vận hành bộ máy ngôn ngữ
của nó. Từ thời cổ đại, các học giả vĩ đại như Aritxtốt, Điđơrô, sau đó đến Lý Bạch,
Đỗ Phủ, Mạnh Hạo Nhiên, N.G.Tsecnưsepki…bàn đến những vấn đề của thơ ca.
Arixtốt trong cuốn “Nghệ thuật thơ ca” [1] gọi tất cả các loại hình thơ ca (sử thi, bi
kịch, hài kịch, tửu thi) là các nghệ thuật mô phỏng hay là sự mô phỏng. Nhưng điều
đó hoàn toàn không có nghĩa là tác phẩm thơ ca chỉ đơn giản là sự tái hiện bản thân
hiện thực bằng các hình tượng được tạo nên bởi các phương tiện ngôn ngữ- tức là
tái hiện những cái đã xảy ra trong chính hiện thực. Hình tượng thơ ca không cần
phải là bản sao của một hình tượng duy nhất nào đó trong hiện thực, mà nó phải là

sự sáng tạo của nhà thơ, tương ứng với điều Arixtốt đã nói trong định nghĩa về đối
tượng thơ ca: “Nhiệm vụ của nhà thơ không phải là nói về cái đã xảy ra”. Ở Việt
Nam cũng có các học giả Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn… có những
quan niệm về thơ. Chẳng hạn, Lê Quý Đôn (1726-1784) có những chuyên mục bàn
về thơ văn (như mục “Văn nghệ” gồm 48 điều trong bộ “Vân đài loại ngữ”). Các ý
kiến bàn về thơ nhiều hơn cả là nằm trong các bài Đề từ, Tựa, Bạt, Bình… các hợp
tuyển thơ (như Việt âm thi tập, Trích diễm thi tập, Toàn Việt thi lục), nhất là các tập
thơ của các nhà nho 120, tr.9->10. Trong số đó, có tác giả thiên về tình, có tác giả
thiên về ý, có tác giả thì bàn đến cả tình và ý trong thơ.

14
Bạch Cư Dị (đời nhà Đường, Trung Quốc) qua thư gửi Nguyễn Chẩn đã viết
“Cái gọi là thơ thì cảm hóa nhân tâm không gì bằng tình cảm. Không thể bắt đầu
bằng cái gì khác ngoài ngôn ngữ. Không gì thân thiết bằng âm thanh. Không gì sâu
sắc bằng nghĩa lý. Gốc của thơ là tình cảm. Lá của thơ là ngôn ngữ. Hoa của thơ là
âm thanh. Quả của thơ là nghĩa lý” (Văn nghệ số 5 ngày 10-12-1994).
Ở thời kỳ hiện đại cũng có nhiều quan niệm khác nhau về thơ. Trong số đó
phải nói đến quan niệm về thơ của các nhà thơ, quan niệm về thơ của các nhà phê
bình, lí luận và quan niệm về thơ của những người nghiên cứu theo thi pháp học và
theo cách nhìn của nhà ngôn ngữ học.
* Quan niệm về thơ của các nhà thơ:
Bàn theo góc độ cảm hứng sáng tác, các nhà thơ có quan niệm về thơ như sau:

Nhà thơ Tố Hữu trong một lần trả lời phỏng vấn Lê Thọ Bình (theo Pháp Luật
Thành phố Hồ Chí Minh) đã nói rất ngắn gọn: “Thơ là cảm hứng. Cảm hứng thì nên
ghi lại”.
Theo phần trích dẫn của Mã Giang Lân trong 79, tr.17->18 thì: Lưu Trọng
Lư cho rằng “Thơ là sự sống tập trung cao độ, là cốt lõi của cuộc sống”. Thanh Tịnh
cũng nghĩ: “Thơ là tinh hoa, là thể chất cô đọng của trí tuệ và tình cảm”. Tố Hữu
quan niệm: “Thơ biểu hiện tinh chất của cuộc sống”, “thơ là cái nhụy của cuộc

sống”, “Thơ là tiếng nói tri âm”, “Thơ là chuyện đồng điệu”. Sóng Hồng trong bài
Tựa tập Thơ của mình đã viết: “Thơ là biểu hiện cuộc sống một cách cao đẹp”. Có
thể nói, các quan niệm của các nhà thơ này đều theo hướng thơ gắn liền với cuộc
đời.
Theo Lê Quang Đức trong bài “Chế Lan Viên- tháp Bayon bốn mặt là ông?”
thì: “Chế Lan Viên một trong những người suy tư và viết về lao động thơ nhiều
nhất, ông thể hiện tất cả điều đó thành thơ:
“Thơ, thơ đong từng ngao như tát bể
Là cái cân nhỏ xíu lại cân đời.”
Hiểu giá trị của thơ, ông là người trong suốt hành trình sáng tạo đã luôn tìm cách
tốt nhất để chuyển hóa chất liệu đời sống thành chất liệu tâm hồn bằng cách thầm
lặng đánh vật với câu chữ, ý tưởng như người phu chữ. Ông luôn tuân theo những
hình luật khắc nghiệt của sáng tạo nhưng bao giờ cũng biết vượt qua để hướng tới
bến bờ nghệ thuật: thơ phải có ích cho tư tưởng và phải mới lạ cho xúc cảm:

15
“Đừng làm những câu thơ khuôn mình theo văn phạm
Như cây xanh quá thẳng chim không về.”
Insara trong bài viết “Khoảng tối của thơ ca” (E.Văn. VnExpress) thì cho rằng:
“Thi ca không phải là cái đẹp thêm vào cuộc sống, của trang điểm cho tính thể con
người, càng không phải là trò nhàn đàm của và cho những tâm hồn mệt mỏi. Ở đâu
và bất kỳ thời đại nào cũng có những tâm hồn đau khổ và tuyệt vọng. Chính những
nơi đó thi ca có mặt. Nhưng thơ có mặt không với tư cách chiếc bè cho sinh thể kia
bấu víu mà như chất xúc tác làm cháy lên trong tâm hồn bóng tối ấy tia lửa mới của
hy vọng. Như thế, xã hội tính bao giờ cũng là một trong những yếu tính của thi ca,
dù xã hội đó là sự thống khổ của cả đám đông, nỗi ưu tư của một nhóm hay chỉ là
cái uẩn khúc trong tâm thức của một cá thể biệt lập…
đừng đòi hỏi mọi sự mạch lạc và sáng sủa ở thi ca. Tệ hại không kém là
khuynh hướng tự khuấy đục làm ra vẻ sâu thẳm của những dòng nước cạn. Sức hấp
dẫn của thơ không chỉ ở bề nổi nơi tất cả được bày ra giữa ban ngày mà chính là ở

đường biên ẩn khuất của đêm sáng huyền nhiệm, nơi cuộc chiến trong tâm hồn con
người còn nóng hổi hơi thở.”
“Thơ, chính là một trong những lĩnh vực lao động tạo ra các giá trị phi vật thể
của một dân tộc. Một cái cảnh nên thơ, không phải tự nó nên thơ, mà nó là do cái
văn hóa mà các nhà thơ đã hình thành ra. Người nghệ sĩ làm cho cuộc đời đẹp hơn,
sâu hơn. Người làm thơ, quan trọng nhất là tạo ra những cái nên thơ, những giá trị
phi vật thể.” (Nhà thơ Lê Đạt)
Nhà thơ Trần Dần thì cho rằng: “Thơ ca không nên là những tụng ca thời
thượng, mà phải đi sâu vào tâm trạng con người. Thơ cần phải liên tục đổi mới để
đuổi kịp sự phát triển của đời sống (dẫn lời bài thơ của nhà thơ Philippe Jaccottet:
“Tôi đã già đi từ tiếng đầu đến tiếng cuối của bài thơ”.
Trong bài viết “Tìm hiểu một quan niệm nghệ thuật về ngôn từ thơ Việt đương
đại”, Trần Ngọc Hiếu đã viết: “… họ định nghĩa “làm thơ tức là làm chữ”, hay cụ
thể hơn, “làm thơ tức là làm tiếng Việt” (Trần Dần), nhà thơ chính là “kẻ phu chữ”
(Lê Đạt). “Thơ cổ lai đặt ở tứ lạ, lời hay, hình ảnh đẹp, âm điệu ru hồn. Tôi giản dị
đồng nhất thơ vào chữ.” (Trần Dần)
Còn nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm khi trả lời phỏng vấn phóng viên Thu Hà của
Việt Nam net thì khẳng định: “Thơ ca cũng như tình yêu, không ép buộc được đâu,
khi gọi nó không đến nhưng khi đuổi thì nó không chịu đi. Bằng kinh nghiệm làm

16
thơ riêng của mình, tôi thấy những bài thơ hay lại ra đời trong hoàn cảnh chẳng thơ
chút nào”.
* Quan niệm về thơ của các nhà lí luận, phê bình
Phạm Quang Trung khẳng định: “Thơ là tình, nhưng là tình không tách rời ý.
Nếu chỉ là tình, dẫu là tình tột bậc, cũng không thể làm nên những vần thơ tuyệt bút.
Lê Hữu Trác xác định: “Thơ cốt ở ý, ý có sâu xa thơ mới hay. Không phải bất cứ
điều gì cũng phải nói ra bằng thơ. Như thế mới là thơ có giá trị”120, tr.63. Còn Mã
Giang Lân thì định nghĩa: “Thơ là một thông báo thẩm mỹ trong đó kết hợp 4 yếu tố
Ý- Tình- Hình- Nhạc” 75, tr.19.

Rải rác ở một số bài viết trên internet có các quan niệm khác nhau về thơ của
một số nhà văn, nghệ sỹ hoặc nhà phê bình văn học. “Thơ dẫn chúng ta tới chỗ tập
trung kì lạ của năng lực tinh thần, đưa chúng ta vào vòng liên kết sống động đầy
cảm thông của đời sống, trong đó năng lực cảm thụ là yếu tố quyết định. Chỉ những
kẻ có khả năng tự mở lòng mình ra, như một bông hoa hồn nhiên ca hát, hay, như
đứa trẻ đứng bên đường, lặng lẽ mỉm cười bí mật, thì mới có thể học được nghệ
thuật cảm thụ. Thơ và nghệ thuật cảm thụ là người canh giữ tài giỏi nhất của tâm
hồn bạn qua những sự kiện đầy ấn tượng trong đời sống, sinh đẻ, cái chết, mất mát,
chia lìa, sự di chuyển và sự vắng bóng, là người đưa đò chở bạn qua dòng sông li
biệt giữa hai bờ, bên này là không gian, bên kia là thời gian. Thơ dạy cho tâm hồn
bạn trở nên sâu sắc, suy tưởng của bạn thành trẻ thơ, và làm cho bạn trở nên người
tử tế. Như khi mùa xuân tàn, trên mặt hồ xa sen vừa nở, thơ là liệu pháp hoa.”
(Nguyễn Đức Tùng- Talawas.org)
Có ý kiến cho rằng: “Thơ nói ít mà chứa đựng nhiều nghĩa, những khoảng
trắng đậm chất thơ, nơi chất thơ lan tỏa, nó còn có ý nghĩa thơ là văn bản không liên
tục, thơ có nhiều chỗ “lặng”, cái lặng của thơ tràn ngập cảm xúc và tư duy”. “Thơ
khác văn xuôi chủ yếu ở nhịp điệu; nhịp điệu là linh hồn của thơ. Có thể nói: “Thơ
là văn bản được tổ chức bằng nhịp điệu của ngôn từ”. Tóm lại, ý kiến này cho rằng
đặc trưng của thơ là: cấu trúc trùng điệp (âm thanh, nhịp điệu, ngữ nghĩa…), kiến
trúc đầy âm vang, nhiều khoảng trắng trên không gian in hơn, chất nhạc tràn đầy”.
* Quan niệm về thơ của các nhà nghiên cứu theo thi pháp học
Các nhà nghiên cứu theo hướng thi pháp học có những quan niệm khác nhau
về thơ và bàn đến những vấn đề về thơ.

17
Theo R. Jakobson thì “chức năng thi ca đem nguyên lý tương đương của trục
tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp”.
Trên thế giới, Liên Xô cũ là nơi thi pháp học đạt được nhiều thành tựu đáng kể
gắn với các tên tuổi tiêu biểu như A.N. Vexêlốpxki, V.Ia. Prốp, M.M. Bakhtin, V.v.
Vinôgrađốp, M.B. Khrapchencô, N.L. Crápxốp…

Ở Việt Nam có một số tác giả bàn về thơ theo hướng thi pháp học là: Đỗ Đức
Hiểu, Nguyễn Xuân Kính, Phan Thị Đào…
* Quan niệm về thơ theo cách nhìn của các nhà ngôn ngữ học
Có một số nhà ngôn ngữ học nghiên cứu về thơ và ngôn ngữ thơ tiêu biểu như:
R.Jakobson, Phan Ngọc, Nguyễn Phan Cảnh, Nguyễn Hữu Đạt, Mai Ngọc Chừ, Bùi
Công Hùng.
Phan Ngọc trong bài “Thơ là gì?” cũng viết: “Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ
hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc, và phải suy nghĩ do
chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này”, tức là đối lập hẳn với ngôn ngữ hàng ngày.
Tác giả muốn nêu lên một định nghĩa về thơ:
a. Có giá trị phổ quát, tức là áp dụng cho mọi hiện tượng gọi là thơ trên trái
đất này, bất chấp ngôn ngữ, thời gian, tập quán, trường phái…
b. Mang tính hình thức giúp người ta nhận diện được ngay thơ, không cần
phải có kinh nghiệm và hiểu biết nghệ thuật.
c. Giúp người ta nắm được thực chất của thơ, để làm thơ, đọc thơ và giảng
thơ có kết quả.” 79, tr.18
Theo Nguyễn Hữu Đạt trong 32, tr.25 thì: “Thơ là một thể loại của văn học
được trình bày bằng hình thức ngắn gọn và súc tích nhất với các tổ chức ngôn ngữ
có vần điệu và các quy luật phối âm riêng của từng ngôn ngữ nhằm phản ánh cuộc
sống tập trung và khái quát nhất, dưới dạng các hình tượng nghệ thuật”.
Trong 148, tr.58->63, Hữu Đạt khẳng định: “Nói tới thơ ca là chúng ta
đụng chạm tới một loại văn bản có tính hình thức khá đặc biệt. Đặc điểm đó không
những được thể hiện ở việc sử dụng các đơn vị từ ngữ, cú pháp mà còn ở sự hoạt
động của mỗi loại đơn vị ngôn ngữ trong khi thực hiện các chức năng của mình. Ở
loại văn bản này, có nhà nghiên cứu nhận xét, ngôn ngữ không những là cái để nói
về đối tượng mà còn là cái để nói về chính mình. Nói một cách khác, ngôn ngữ
không chỉ là công cụ nhận thức đối tượng mà còn là công cụ nhận thức của công cụ
nhận thức.” “Thơ là loại văn bản nghệ thuật có tổ chức ngôn ngữ bằng cách lắp

×