Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN Cách dạy nhóm câu trần thuật đơn (trong chương Ngữ văn 6 - tập 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.12 KB, 18 trang )

SKKN môn Ngữ văn
MỤC LỤC
Phần 1: Đặt vấn đề Trang 2
Phần 2: Giải quyết vấn đề ………………… Trang 3
1- Cơ sở lý luận của vấn đề Trang 3
2- Thực trạng của vấn đề…… Trang 4
3- Các biện pháp đ ã tiến hành để giải quyết
vấn đề ……………………………………… Trang 5
4- Hiệu quả của SKKN …………………………………… Trang 13
Phần 3: Kết luận và đề nghị Trang 15
Tài liệu thamkhảo Trang 16
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
1
SKKN môn Ngữ văn
Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong hệ thống chương trình giáo dục, môn Ngữ văn có một vị trí
hết sức quan trọng. Trước hết, Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm
khoa học - xã hội. Điều đó nói lên tầm quan trọng của bộ môn này trong
việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Môn Ngữ
văn còn là một môn học công cụ, góp phần hình thành những con người
có trình độ học vấn ngày càng cao. Đồng thời, góp phần xây dựng nhân
cách cho học sinh, những công dân trẻ có lòng yêu nước, niềm tự hào
dân tộc sâu sắc, có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, qúi trọng gia
đình, bạn bè, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái,
tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, sự căm ghét cái ác, cái xấu.
Môn Ngữ văn cũng giúp học sinh biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư
duy sáng tạo, bước đầu có năng lực thực hành và sử dụng Tiếng Việt
như một công cụ để tư duy, giao tiếp.
Để đạt được những mục tiêu giáo dục nêu trên, chương trình,
phương pháp giảng dạy và bộ sách giáo khoa Ngữ văn đổi mới đã kịp


thời đáp ứng một cách căn bản. Từ năm học 2002 - 2003, Bộ Giáo dục -
Đào tạo đã cho thực hiện chương trình thay sách giáo khoa trên cả
nước. Đó là năm học đầu tiên áp dụng chương trình đổi mới phương
pháp dạy và học cho giáo viên và học sinh, bắt đầu từ khối lớp 1, lớp 6.
Bên cạnh những hướng cải tiến chung như giảm tải, tăng thực hành, gắn
với đời sống, thì nét nổi bật nhất của chương trình và sách giáo khoa
môn Ngữ văn là hướng tích hợp. Biểu hiện rõ nhất của hướng tích hợp
chính là việc sát nhập ba phân môn: Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn vào
một chỉnh thể là Ngữ văn. Ngoài ra, trong chương trình mới, các nhà
soạn sách đã đưa vào nhiều bài, nhiều thuật ngữ mới mà trong chương
trình cũ, giáo viên và học sinh chưa được làm quen; hoặc nhiều khái
niệm có phần khác với cách nhìn xưa nay. Điều đó đã làm phong phú
thêm và cập nhật hóa hệ thống kiến thức cho cả người dạy và người
học.
Bên cạnh những ưu điểm hết sức rõ nét như đã nói ở trên, thì
trong quá trình dạy và học vẫn còn nảy sinh nhiều vấn đề chưa mấy
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
2
SKKN môn Ngữ văn
sáng tỏ xung quanh các nhóm bài dạy thuộc bộ môn Ngữ văn, thể hiện
rõ nhất là ở phân môn Tiếng Việt. Trong phân môn Tiếng Việt của
chương trình Ngữ Văn 6 mà chúng tôi tham gia giảng dạy có nhiều
nhóm bài, cụm bài khác nhau như: các từ loại, các biện pháp tu từ, câu
trần thuật đơn…và ở mỗi cụm bài dạy đều có những vấn đề cần phải
suy nghĩ để tìm ra phương pháp truyền đạt cho học sinh một cách phù
hợp và hiệu quả cao nhất. Trong khuôn khổ của một sáng kiến kinh
nghiệm cá nhân, ở đây, tôi chỉ xin đưa ra một ví dụ cụ thể trong quá
trình giảng dạy nhóm bài "Câu trần thuật đơn" (chương trình Ngữ
văn 6 - tập 2).
Bản thân tôi được tiếp cận và giảng dạy chương trình thay sách

mới từ lúc bắt đầu cho đến nay. Qua đó, phần nào đã đúc rút được một
số kinh nghiệm nhỏ nhưng đã đem lại hiệu quả khá cao trong cách dạy
nhóm bài "Câu trần thuật đơn". Vì vậy, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài
"Cách dạy nhóm câu trần thuật đơn" (trong chương Ngữ văn 6 -
tập 2), để cùng trao đổi, bàn bạc với các bạn đồng nghiệp nhằm đưa ra
những kinh nghiệm góp phần giúp công việc giảng dạy của chúng ta
mang lại hiệu quả cao hơn.
Phần 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1- Cơ sở lý luận của vấn đề
1-1/ Chúng ta đều biết rằng, dạy văn là giúp cho học sinh cảm
nhận được cái hay, cái đẹp trong từng tác phẩm văn chương. Đồng thời
qua đó, giáo dục các em có ý thức trong việc trau dồi nhân cách, tức là
dạy cho các em biết yêu, ghét rạch ròi, biết tôn trọng lẽ phải, sự công
bằng, lòng nhân ái, vị tha, đức hi sinh, …
Dạy văn cũng là dạy và rèn luyện cho học sinh những kỹ năng văn
học. Tức là giúp các em biết học tập cách viết, cách nói từ tác phẩm văn
chương để sử dụng ngôn ngữ đạt hiệu quả cao nhất trong quá trình tư
duy và giao tiếp.
1-2/ Thực tế trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn thì dạy
phân môn Tiếng Việt dễ thành công hơn dạy phân môn Văn học. Bởi vì,
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
3
SKKN môn Ngữ văn
trong phân môn Tiếng Việt thì đơn vị kiến thức của một bài dạy ít, ngắn
gọn hơn một tiết Văn học. Nếu một tiết Văn học, ngoài những kiến thức
gợi ý trong sách giáo khoa để giúp học sinh cảm nhận được nội dung,
nghệ thuật của một tác phẩm thì còn đòi hỏi ở người dạy, ở học sinh
phải có năng lực cảm nhận tinh tế mới thấy hết được cái hay, cái đẹp
được thể hiện qua một tác phẩm Văn học. Trong phân môn Tiếng Việt
kiến thức truyền thụ thường bắt đầu bằng phương pháp quy nạp. Kiến

thức được cụ thế hoá bằng những ví dụ minh hoạ với những câu hỏi gợi
dẫn giúp học sinh dễ dàng phát hiện, nắm vững khái niệm, hiểu bài
nhanh hơn. Đối với giáo viên, trong quá trình diễn đạt để chuyển tải
kiến thức Tiếng Việt cũng thể hiện ngắn gọn, chắt lọc hơn so với khi
thực hiện công việc đó đối với phân môn Văn học.
1-3/ Hơn nữa khi nói đến câu đơn thì chúng ta ai cũng nghĩ đó là
một bài dạy khá đơn giản. Nhưng khi đi bước vào một tiết dạy cụ thể,
tìm hiểu kiến thức để soạn bài nếu xét kỹ trong đó (phần ghi nhớ sau
khi rút ra nhận xét từ ví dụ minh hoạ) thì vẫn có nhiều vấn đề cần được
tháo gỡ một cách thoả đáng.
Đặc biệt, trong chương trình đổi mới, bài dạy - học hiện nay
được thiết kế theo hướng tích hợp nên có nhiều điều kiện và cơ hội giúp
cho học sinh phát huy tính tích cực chủ động của mình trong thảo luận
để xây dựng bài học, mạnh dạn trình bày những vấn đề chưa hiểu hay
còn lúng túng trong bài học.
2- Thực trạng của vấn đề
Một thực trạng khá phổ biến hiện nay là học sinh đã được trang bị
nhiều kiến thức về bộ môn Ngữ văn nhưng vẫn viết sai câu, sử dụng lời
nói trong giao tiếp thường cộc lốc và không biểu đạt đầy đủ ngữ nghĩa
do thiếu các thành phần câu như chủ ngữ, vị ngữ…
Trong nhiều năm qua, xung quanh quan niệm về câu đơn, câu ghép
đã có nhiều ý kiến tranh luận và chưa đi đến thống nhất. Thực tế trong
các lớp bồi dường thường xuyên (đầu năm học) cho giáo viên THCS,
"Câu trần thuật đơn" cũng được giáo viên trong thành phố quan tâm đưa
ra thảo luận nhưng nhìn chung cho đến nay vẫn chưa có hướng giải
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
4
SKKN môn Ngữ văn
quyết triệt để. Khi dạy nhóm câu "Câu trần thuật đơn" đối chiếu giữa
khái niệm mà sách giáo khoa đưa ra và việc lấy ví dụ minh hoạ cho học

sinh nắm rõ kiến thức là điều không hề đơn giản.
Bởi vậy kinh nghiệm dạy nhóm bài này trong những năm qua đã
giúp tôi nhận ra nhiều điều bổ ích, xin được chia sẻ với các đồng nghiệp
để chúng ta cùng nhau giảng dạy nhóm bài này ngày càng hiệu quả hơn.

3- Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Nhóm bài “Câu trần thuật đơn” trong chương trình phân môn Tiếng
Việt (Ngữ văn 6 - tập 2) được thiết kế trong ba tiết với các tuần khác
nhau.
- Tiết 111 - tuần 28: “Câu trần thuật đơn”;
- Tiết 113 - tuần 29: “Câu trần thuật đơn có từ là”
- Tiết 118 - tuần 30: “Câu trần thuật đơn không có từ là”.
Ba tiết học trên được thể hiện trong ba tuần đan xen giữa các kiến thức
về phân môn Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Vậy làm sao để giúp
các em có thể nắm bài học và xâu chuỗi kiến thức về câu trần thuật đơn
một cách có hệ thống. Trước vấn đề đó, tôi đã tiến hành cách dạy nhóm
“Câu trần thuật đơn” như sau:
Khi dạy tiết 111 - tuần 28: "Câu trần thuật đơn" với mục tiêu cần đạt:
nắm vững khái niệm câu trần thuật đơn; nắm được tác dụng của câu trần
thuật đơn. Sách giáo khoa Ngữ văn 6 trang 101 đã cung cấp cho học
sinh một hệ thống ví dụ.
Ví dụ: (Đoạn trích trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô
Hoài):
Chưa nghe hết câu, tôi đã hếch răng lên, xì một hơi rõ dài.
Rồi, với điệu bộ khinh khỉnh, tôi mắng:
- Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ! Chú mày hôi như cú
mèo thế này, ta nào chịu được. Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy
đi. Đào tổ nông thì cho chết!
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
5

SKKN môn Ngữ văn
Tôi về, không một chút bận tâm.
Trong đoạn văn được dẫn làm ví dụ nói trên có các loại câu: câu đặc
biệt, câu đơn, câu ghép. Trong quá trình cho học sinh tiếp cận với ví dụ
đó, tôi đã tuân thủ các bước như sách giáo khoa hướng dẫn, đó là:
- Đọc kỹ đoạn văn, xác định các câu có trong đoạn văn.
- Xác định chủ ngữ, vị ngữ của từng câu văn.
- Xếp các câu trần thuật trên thành hai loại:
+ Câu do một cặp chủ - vị tạo thành.
+ Câu do hai hay nhiều cụm chủ - vị sóng đôi tạo thành.
Sau đó, tôi yêu cầu học sinh sắp xếp các câu trần thuật trên thành
hai nhóm nhóm câu: 1,2,9 là nhóm câu do một cụm chủ - vị tạo thành.
Từ đó, giáo viên chốt lại theo ghi nhớ của sách giáo khoa: "Câu trần
thuật đơn là loại câu do một cụm chủ – vị tạo thành, dùng để giới thiệu, tả
hoặc kể về một sự việc, sự vật hay để nêu một ý kiến."
Từ kiến thức bài học, ở phần Luyện tập – bài tập 1, trang 101 (trích
văn bản "Cô Tô" - của Nguyễn Tuân), học sinh đã nhận diện được các câu
trần thuật đơn.
Giáo án minh hoạ tiết dạy.
Tuần 28 - Tiết 111: Câu trần thuật đơn
I. Mục tiêu cần đạt: HS hiểu
1.Kiến thức: Khái niệm câu trần thuật đơn. Các kiểu câu trần thuật đơn.
2. Kĩ năng: Nhận diện và phân tích câu trần thuật đơn. Biết sử dụng câu
trần thuật đơn khi nói và viết.
II. Chuẩn bị
- GV: Soạn giáo án. Hướng tích hợp: Phân môn văn bài Cây tre Việt
Nam; Tiếng Việt bài các thành phần chính của câu.
- HS: Soạn bài theo gợi ý câu hỏi trong SGK và thử làm các bài tập.
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
6

SKKN môn Ngữ văn
III. Tiến trình hoạt động
*Hoạt động 1.
1. Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài cũ: Thế nào là câu có hai TP chính? Cho một ví dụ minh
hoạ?
* Hoạt động 2. Bài mới
* Ngữ liệu và phân tích ngữ liệu
- GV dùng bảng phụ, yêu cầu học sinh đọc
ngữ liệu
- GV yêu cầu trả lời các câu hỏi sau:
+ Đvăn có mấy câu? Nêu mục đích của các
câu?
+ Dựa vào kiến thức đã học ở Tiểu học hãy
cho biết: Câu phân theo mục đích nói gồm
những loại nào?Hãy phân loại câu theo mục
đích nói?
* HS làm việc độc lập. Trả lời:
+ Đvăn có 9 câu.
+ Mục đích của câu dùng để kể -tả- nêu ý
kiến (câu 1,2,6,9) -> câu trần thuật.
+ Hỏi: câu 4 -> câu nghi vấn.
+ Bộc lộ cảm xúc: câu 3,5,8 -> câu cảm thán.
+ Cầu khiến: câu 7 -> câu cầu khiến.
- Xác định chủ ngữ, vị ngữ của 4 câu
trần thuật?
*GV yêu cầu HS lên bảng và xác định
chủ ngữ- vị ngữ các câu trần thuật. HS
dưới lớp cũng viết vào giấy
I. Bài học

1. Câu trần thuật đơn là gì?
+ Ví dụ 1/ tr100
+ Nhận xét:
- Mục đích của câu dùng để
kể, tả, nêu ý kiến ( câu 1, 2,
6, 9) -> Câu trần thuật
- Câu có một cụm C – V là
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
7
SKKN môn Ngữ văn
+ Tôi // đã hếch răng lên, xì một hơi rõ dài.
CN VN
+ Tôi // mắng.
CN VN
+ Chú mày // hôi như cú mèo.
CN VN
+ Tôi // về, không một chút bận tâm.
CN VN
- Câu nào có một cặp chủ - vị? Câu nào có 2
cặp chủ - vị? Hãy sắp xếp 4 câu trên thành 2
loại?
* HS làm việc độc lập
- Câu có 1 cụm C – V là câu 1, 2,9 -> câu
trần thuật đơn.
- Câu có 2 cụm C- V sóng đôi là câu 6 -> Câu
trần thuật ghép
* GV – Căn cứ vào mục đích nói thì câu trần
thụt đơn dùng để làm gì?
* HS trả lời độc lập
* GV chốt ý: Câu trần thuật đơn là câu do 1

cụm C- V tạo thành , dùng để giới thiệu, kể
hoặc tả về một sự việc, sự vật hay để nêu 1 ý
kiến.
GV yêu cầu HS nhắc lại ghi nhớ
câu 1, 2, 9 -> Câu trần
thuật đơn.
- Câu có 2 cụ C- V sóng
đôi là câu 6 -> Câu trần
thuật ghép.
- Ghi nhớ : SGK /101
Hoạt động 3. Luyện tập
Học sinh làm các Bài tập trong SGK trang 101- 103
1. Cách thực hiện bài tập 1. Tìm câu trần thuật đơn và cho biết tác
dụng của câu.
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
8
SKKN môn Ngữ văn
* GV yêu cầu đọc và xác định yêu cầu Bài tập 1
HS đọc đoạn văn của Nguyễn Tuân
“Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa. Từ
khi có vịnh Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu của sự
sống con người thì, sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng
trong sáng như vậy. Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại
lam biếc đặm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa. Và
nếu cá có vắng tăm biệt tích trong ngày động bão, thì nay lưới càng
thêm nặng mẻ cá giã đôi.”
Cách thực hiện: HS làm độc lập. Dùng bút chì xác định chủ ngữ- vị ngữ.
Căn cứ vào cặp chủ vị để xác định câu trần thuật đơn. Sau đó cho biết
tác dụng của các câu trần thuật đơn đó.
Trong đoạn văn có 2 câu trần thuật đơn , câu 1 và câu 2

Câu 1. Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô // là một ngày trong trẻo, sáng
sủa.
-> Dùng để tả cảnh
Câu 2. Từ khi có vịnh Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu
hiệu của sự sống con người thì, sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu
trời Cô Tô // cũng trong sáng như vậy.
-> Dùng để nêu ý kiến- nhận xét
2. Bài tập 2, 3, 4 / Tr 102. Xác định kiểu câu và tác dụng
Hình thức làm tương tự như Bài tập 1.
Đến tiết 113 - tuần 29, khi dạy bài: "Câu trần thuật đơn có từ
“là" thì mục tiêu cần đạt của tiết dạy này là giúp học sinh: nắm được
câu trần thuật đơn có từ “là”; biết đặt câu trần thuật đơn có từ “là”. Từ
kiến thức cần phải đạt được trong tiết dạy, tôi đã hướng dẫn cho học
sinh nắm vững các kiến thức đã học về: Các thành phần chính của câu;
Câu trần thuật đơn để giúp học sinh dễ dàng phát hiện được dạng câu
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
9
SKKN môn Ngữ văn
trần thuật đơn có từ “là” qua hệ thống bốn ví dụ: a,b,c,d mà sách giáo
khoa Ngữ Văn 6 đã cung cấp.
Ba ví dụ: a,b,c: học sinh đều xác định được câu trần thuật đơn có từ
"là", và nêu được tác dụng của chúng.
Đến ví dụ d: "Dế Mèn trêu chị Cốc là dại", câu này học sinh phát
hiện có hai cụm chủ - vị ( C-V ), nên các em cho rằng đấy không phải là
câu trần thuật đơn.
Đối chiếu với định nghĩa ở tiết 110: "Câu trần thuật đơn là câu do
một cụm chủ - vị ( C- V) tạo thành”, học sinh có nhiều thắc mắc, lúng
túng trước ví dụ d này. Trước những ý kiến của học sinh, tôi đã nghiên
cứu và hướng dẫn cho các em hiểu tại sao ví dụ d tuy có hai cụm chủ -
vị (C - V) nhưng nó vẫn được coi là câu trần thuật đơn.

Trước hết, tôi dùng bảng phụ:

Ví dụ:
Dế Mèn / trêu chị Cốc // là dại
(ĐT)

C V

CN VN
Xét ở bộ phận chủ ngữ có một cụm chủ - vị (C- V) làm chủ ngữ.
(Dế Mèn trêu chị Cốc. Trong đó: “Chị Cốc” làm rõ hơn cho động từ "
trêu")
Xét ở bộ phận vị ngữ có: từ "là" + tính từ "dại".
Từ sự phân tích trên tôi đi đến kết luận. ta hướng dẫn cho học sinh
trong những trường hợp như vậy cần phải xác định được nòng cốt câu.
Câu nào có một nòng cốt câu thì câu đó được xếp vào nhóm câu
trần thuật đơn. (Căn cứ theo khái niệm)
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
10
SKKN môn Ngữ văn
Để xác định nòng cốt câu, tôi hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ hình
chậu. Từ sơ đồ này, học sinh sẽ dễ dàng nhận ra được cấu trúc ngữ pháp
của câu. Đây cũng là kinh nghiệm mà tôi thường áp dụng khi dạy về
câu.
Mở rộng, củng cố kiến thức: Tương tự ở phần Luyện tập, tiết 112:
"Bài tập 1 trang 115 - 116", bài tập này có 6 ví dụ, yêu cầu học sinh
nắm vững kiểu câu trần thuật đơn. Trong bài tập 1, có hai câu b, d
không phải là câu trần thuật đơn có từ "là". Để giải thích cho học sinh
hiểu, bản thân tôi cũng đã tham khảo một số sách hướng dẫn về nội
dung nàỵ Nhưng sách hướng dẫn chỉ nêu ra các câu b, đ, không phải là

câu trần thuật đơn có từ "là" chứ không giải thích cụ thể vì sao đó
không phải là câu trần thuật đơn có từ "là". Từ hai hướng dẫn trên, tôi
đã hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu nòng cốt câu theo sơ đồ hình chậu,
từ đó rút ra kết luận từ sơ đồ đã vẽ.
-Ví dụ b:
Người ta // gọi chàng là Sơn Tinh.

ĐT P1 P2
CN VN
*Ghi chú: P – phụ ngữ.
Câu này cũng là câu có từ "là”, nhưng phải lý giải cho học sinh hiểu
tại sao câu này cũng là câu đơn nhưng không phải là câu trần thuật đơn
có từ "là". Bởi vì từ "là" của câu này không nằm trong cấu trúc: Vị ngữ
do từ "là" kết hợp với danh từ (cụm danh từ) tạo thành hoặc tổ hợp
từ giữa từ "là" với động từ (cụm động từ) hoặc tính từ (cụm tính từ)
… cũng có thể làm vị ngữ.

Vị ngữ của câu trên là do:
tạo thành.

Đối chiếu với đặc điểm cấu trúc câu trần thuật đơn thì câu này
không phải là câu trần thuật đơn có từ "là". Vậy hệ từ "là" trong ví dụ b
chỉ có nhiệm vụ giải thích.
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
11
Động từ + danh từ + là + Danh từ
SKKN môn Ngữ văn
Một ví dụ khác: Ví dụ đ trang 116, cũng tương tự. Câu văn:
Vua // nhớ công ơn tráng sĩ phong là Phù Đổng Thiên Vương …
(ĐT) (ĐT)

V1 P V2 P
CN VN
* Ghi chú: P - phụ ngữ
Vị ngữ của câu trên là do:
tạo thành

Tương tự như vậy, đối chiếu với đặc điểm của câu trần thuật đơn
có từ "là", thì dạng câu này cũng không được xếp vào nhóm câu trần
thuật đơn có từ "là".
Qua nghiên cứu các bài tập trên, tôi đã giúp học sinh dễ dàng nhận
diện, đối chiếu và nhận dạng được câu trần thuật đơn có từ "là".
Đối với tiết 118 - tuần 30: “Câu trần thuật đơn không có từ “là”,
với mục tiêu cần đạt: nắm được kiểu câu trần thuật đơn không có từ
“là”; nắm được tác dụng của kiểu câu này. Trước yêu cầu của tiết dạy,
tôi lần lượt hướng dẫn học sinh nhắc lại khái niệm của câu trần thuật
đơn, dấu hiệu nhận biết câu trần thuật đơn có từ “là”. Từ các kiến thức
học sinh vừa trình bày, tôi cũng yêu cầu các em cho ví dụ minh hoạ
từng loại câu trần thuật đơn khác nhau. Sau khi học sinh đã nắm vững
kiến thức hai tiết trước, tôi hướng dẫn các em tìm hiểu bài học này theo
trình tự các ví dụ trong sách giáo khoa, sau đó rút ra khái niệm về kiểu
câu trần thuật đơn không có từ “là”. So với hai tiết trước, tiết về câu trần
thuật đơn không có từ “là” kiến thức tương đối rõ ràng, dễ hiểu cho nên
tôi xin phép không trình bày trong đề tài này.
Như vậy, qua ba tiết với ba tuần khác nhau, đan xen giữa các phân
môn trong bộ môn Ngữ văn. Để giúp học sinh nắm vững và vận dụng
được kiến thức đó, tôi thường tích hợp, củng cố trong các bài dạy (tích
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
12
Động từ + cụm danh từ + động từ + cụm danh từ
SKKN môn Ngữ văn

hợp ngang). Đồng thời, khi dạy tiết học sau, tôi lại yêu cầu học sinh
nhắc lại kiến thức tiết trước. Với cách làm thường xuyên như vậy, các
em luôn có ý thức ôn luyện các bài đã học để tiếp cận nhanh với kiến
thức được thể hiện trong các bài mới. Đó cũng là một trong những kinh
nghiệm mà tôi thường vận dụng trong giảng dạy.
4- Hiệu quả của SKKN
Sau thời gian thực hiện chương trình đổi mới sách giáo khoa và thực
hiện giảng dạy bằng phương pháp đối chiếu, tích hợp, đồng thời phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh, tôi nhận thấy thầy - trò chúng
tôi đã đạt được kết quả khá khả quan.
Về phía học sinh:
a/ Về số lượng: Đối chiếu, so sánh về kết quả khi dạy nhóm "Câu
trần thuật đơn" trong các phần kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút, tôi
thấy:
Năm học Lớp Sĩ số
Kết quả
Giỏi Khá Trung bình Yếu
2009 - 2010
6C 26
0 2 – 7,7% 18 – 69,2% 6 – 23,1
6D 24
1 – 4,2% 4 – 16,7% 15 – 62,4% 4 – 16,7%
2010 -2011
6C 26
1 – 3,8% 11 – 42,3% 11 – 42,3% 3 – 11,6%
6D 25
5 – 20% 8 – 32% 11 – 44% 1 – 4%

Nhận xét:
-Năm học: 2009 - 2010: Số học sinh đạt điểm trung bình và khá trở lên

đạt khoảng 80%
-Năm học: 2010 - 2011: Số học sinh đạt điểm trung bình và khá trở
lên đạt trên 92,2%.
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
13
SKKN môn Ngữ văn
- Năm học 2011- 2012: Số học sinh đạt điểm giỏi tăng lên, số học
sinh đạt điểm yếu (không hiểu bài) giảm đi.
b/ Về chất lượng:
- Các tiết học đã phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh. Các em tham gia xây dựng bài học một cách sôi nổi và hào
hứng. Nhìn chung, học sinh đã ham thích học môn Ngữ văn hơn.
- Bản thân học sinh cũng có ý thức hơn trong việc soạn bài, làm bài
theo hướng tích hợp, biết khai thác, vận dụng linh hoạt các kiến thức
trong đời sống, trong các môn học khác để đưa vào trong bộ môn Ngữ
văn.
- Kiến thức truyền thụ cho học sinh luôn được liên tục củng cố và hệ
thống hoá trong quá trình dạy – học.
- Hơn nữa, ba năm trước, ở bậc Tiểu học, học sinh chưa được học theo
phương pháp đổi mới nên khả năng học tập, cách làm việc theo nhóm,
làm việc độc lập của học sinh chưa tốt, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến kết
quả học tập chung của các em. So với các lớp trước, ở các lớp sau này
(từ năm học: 2005- 2006 đến nay), các em đã được học theo phương
pháp mới, thông suốt trong các khối lớp. Hệ thống kiến thức được sắp
xếp từ đơn giản đến phức tạp. Các kiến thức trong chương trình Ngữ
văn 6 được củng cố, nâng cao theo hướng đồng quy nên giúp học sinh
nắm vững kiến thức hơn.
Về phía giáo viên
- Giáo viên có điều kiện bổ sung, củng cố kiến thức bài cũ trong bài
học mới, tránh được tình trạng sai sót, rút ra được những hạn chế của

học sinh lớp trước để uốn nắn học sinh lớp sau tránh được những sai sót
mà lớp trước từng mắc phải. Đồng thời, giúp học sinh lớp sau học được
những kiến thức hay của các anh chị lớp trước đã làm được. Từ đó, khơi
gợi được tinh thần thích khám phá, ham hiểu biết của các em.
- Ngoài ra, bên cạnh những kinh nghiệm có được trong giảng dạy,
bản thân tôi thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp để tìm ra những
hướng dạy phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Mỗi năm, tôi
lại có dịp được tham khảo thêm những tài liệu hướng dẫn mới nên từ đó
việc nhận thức và kĩ năng truyền thụ kiến thức cho học sinh cũng được
nâng cao. Đó cũng là một trong những thuận lợi mà tôi có được trong
quá trình giảng dạỵ
- Giáo viên (qua mỗi năm dạy nhóm bài) tự nhận thấy kiến thức
vững vàng hơn, cách giảng tinh giản hơn và học sinh hiểu bài nhanh
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
14
SKKN môn Ngữ văn
hơn. Điều đó cho thấy quá trình nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ
nghiệp vụ và phương pháp dạy Tiếng Việt phải có quá trình tích luỹ.


Phần 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Như vậy, để đạt được hiệu quả cao trong phân môn Tiếng Việt cho bộ
môn Ngữ văn 6, đặc biệt ở nhóm bài: "Câu trần thuật đơn" giáo viên
nên dạy và hướng dẫn học sinh học theo phương pháp đối chiếu, tích
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
15
SKKN mụn Ng vn
hp mt cỏch khoa hc v sỏng to s lm cho hc sinh hiu bi nhanh
hn, lm c nhiu bi tp hn.
Qua õy, chỳng tụi xin kin ngh, S Giỏo dc - o to Phỳ Th

v phũng GD T Vit Trỡ cn cung cp thờm cho chỳng tụi nhng ti
liu v phõn mụn Ting Vit (c bit l nhng vựng kin thc ang cú
nhiu tranh lun) chỳng tụi cú thờm t liu hc tp, tham kho.
S v Phũng cng thng xuyờn m cỏc lp chuyờn v nhng
bi dy - hc khú trong chng trỡnh giỏo viờn b mụn trong cỏc
trng cú dp hc tp, trao i nhm sỏng t hn nhng vn cũn
nhiu lỳng tỳng, tranh cói t ú rỳt ra c nhng kinh nghim,
phng phỏp truyn th tinh gin nhng t hiu qu cao.
Trờn õy ch l mt vi kinh nghim ht sc nh bộ c rỳt ra t
vic ỏp dng trong thc t ging dy ca cỏ nhõn. Tụi xin c mnh
dn trỡnh by nh trờn v kớnh mong c s gúp ý v mi mt ca
ng nghip.
Xin chõn thnh cm n!

Vit Trỡ, thỏng 3 2012
Ngi thc hin
Dơng Thị Minh Hằng


Nhận xét và đánh giá của hội đồng chm SKKN
trờng THCS Thu Võn
Dng Th Minh Hng - THCS Thu Võn
16
SKKN môn Ngữ văn
Chủ tịch hội đồng
Hiệu trưởng
Ý kiến nhận xét của phòng GD- ĐT Việt trì
Tài liệu tham khảo
1. Sách giáo khoa Ngữ Văn 6 - Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Sách giáo viên Ngữ văn 6 - Nhà xuất bản Giáo dục.

3. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 6 - 7. Chương trình chưa thay
sách – Nhà xuất bản Giáo dục.
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
17
SKKN môn Ngữ văn
4. Chuyên đề: Bồi dưỡng giáo viên thay sách giáo khoa môn Ngữ
Văn 6,7,8,9 (Hè 2002 - 2005)
5.Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS - Chu kì
III (2004- 2005)
6.Thiết kế bài giảng Ngữ văn - THCS 6 - Tác giả: Nguyễn Văn
Đường - Hoàng Dân - Nhà xuất bản Đại học Quốc gia - Hà Nộị
7. Thiết kế dạy học Ngữ văn 6 theo hướng tích hợp - Tác giả
Trương Dĩnh - Nhà xuất bản Giáo dục.
8. Tạp chí “Thế giới trong ta” chuyên đề về đổi mới phương pháp
dạy Tiếng Việt.
Dương Thị Minh Hằng - THCS Thuỵ Vân
18

×