Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tính cách con người qua năm sinh Tuổi Ngọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.43 KB, 31 trang )

Chương 1: Những quan niệm chung về 12 con giáp
Nước ta hiện nay đang tồn tại hai loại lịch: trong khi dương lịch đang có xu hướng
lan rộng thì âm lịch vẫn tiếp tục khẳng định vị trí và sức mạnh của nó trong đời sống
xã hội. Âm lịch gắn liền với tế tự, lễ hội, với sinh hoạt ma chay, cưới gả, dựng nhà,
dựng cửa Và cứ mỗi lần tết Nguyên đán về, người ta lại nghênh đón năm mới và lưu
luyến tiễn đưa con vật biểu tượng của năm cũ. Việc chọn các con vật làm biểu tượng
đứng đầu mỗi năm - tức là
12 con giáp - phải chăng là một sự lựa chọn ngẫu hứng, tuỳ tiện hay tuân theo một
quy luật nhất định nào đó?
Trước hết, ta phải thừa nhận, dân tộc nào cũng có quan niệm, cảm thức về thời
gian, nhưng không phải nước nào cũng làm được lịch, cũng có chuẩn mực về lịch.
Lịch pháp gắn liền với thiên văn, với chiêm tinh học, là sản phẩm quan trọng mà các
nền văn minh tối cổ như Trung Hoa, Ai Cập, Babilon, Hy Lạp đạt được. Có thể nói
rằng, chính vẻ đẹp hùng vĩ của bầu trời đêm góp phần quan trọng cho tư thế của con
người mãi mãi đứng thẳng, giúp con người hoàn thiện dần. Ngưỡng mộ vẻ đẹp của
bầu trời sao còn thúc đẩy con người vươn tới khát vọng chinh phục vũ trụ, một khát
vọng mang tính chất định mệnh của nhân loại. Về điều này, các huyền thoại xưa về
Ica, về chiếc thảm bay, về Hậu Nghệ xạ nhật, Nữ Oa vá trời, Phù Đổng Thiên vương
về trời sau khi dẹp xong giặc ngoại xâm, Chử Đồng Tử và Tiên Dung trở về Thượng
giới thật vô cùng đẹp đẽ và mang tinh thần nhân văn. Mười hai con giáp, về nhiều
mặt cũng mang vẻ đẹp đó.
Thứ hai, nước ta không có lịch (sau này các triều đại ta có làm lịch khác với lịch
Trung Quốc, nhưng vẫn từ cách nhìn chung. Tuy nhiên, vấn đề này còn để ngỏ chờ
nghiên cứu thêm các tài liệu thời cổ sử). Âm lịch mà chúng ta sử dụng có nguồn gốc
từ Trung Quốc và được hoàn thiện, bổ sung bởi thực tiễn kinh nghiệm sản xuất, kinh
nghiệm thiên văn của dân tộc ta. Nói chung, việc giao thoa văn hóa giữa các nền văn
minh bao giờ cũng xảy ra với những thành tựu về nhiều lĩnh vực. Dân tộc này vay
mượn của dân tộc khác những sản phẩm hoàn thiện hơn, mang tính thực tiễn cao hơn.
Nhấn mạnh điều này để thấy rằng, muốn hiểu được mười hai con giáp thì phải trở về
với cội nguồn Trung Hoa, trở về với triết học Trung Hoa cổ xưa, đặc biệt là thuyết
Âm Dương Ngũ Hành.


Thứ ba, các cách gọi, cách định dạng, ngoài ý muốn biểu tượng cụ thể còn mang
sức mạnh khái quát rất lớn. Chúng trở thành các "ký hiệu thông tin" để chứa các "nội
dung thông tin" theo một cách mã hóa thông tin nào đó, vì thế, giải thích mười hai con
giáp không tách rời việc giải mã này.
Âm Dương Ngũ Hành gắn liền với tư duy Dịch lý, là nền tảng để xây dựng các
quan điểm, trong đó có thiên văn. Người xưa xuất phát từ quan sát thực tiễn để định
danh sự vật:
Âm là Thái âm, tức Mặt trăng
Dương là Thái dương, tức Mặt trời
Ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là năm hành tinh mà người cổ đại sớm
nhận biết được của hệ Mặt trời. Bên cạnh đó, quan niệm Trời = cha, Đất = mẹ và quan
niệm về một vũ trụ hài hòa cũng đóng vai trò quan trọng đối với người xưa. Và như
vậy, Trời = thiên là dương, Đất = địa là âm, thượng giới và hạ giới được phân định,
trật tự của vũ trụ được xác lập và trật tự xã hội cũng theo đó được hình thành. Trong
xã hội có quan hệ vua - tôi, quân tử - tiện dân, có nội trị - ngoại giao, trong - ngoài,
trên - dưới, trước - sau, phải - trái, đúng - sai, thật - giả tất cả đều được quy tụ vào
phạm trù âm - dương, được quy vào các phẩm chất của ngũ hành. Tuy nhiên, sự phân
chia âm dương không phải là thuần túy máy móc mà xuất phát từ nguyên lý của Dịch
học: "Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng
sinh bát quái", nghĩa là, trong sự xếp đặt đó đã bao hàm một sự vận động biện chứng,
đặc biệt là quan niệm “trong âm có dương, trong dương có âm" trở thành nguyên tắc
cấu trúc sự vật. Do đó, khát vọng về một cuộc sống hài hoà, một xã hội ổn định, một
trạng thái cân bằng là giấc mộng đẹp và là đích hướng tới của người xưa. Vậy, quan
niệm Âm Dương Ngũ Hành có liên quan gì đến mười hai con giáp?
Theo sự phân tích của người xưa, mười hai con vật được tuyển chọn, bao gồm cả
vật nuôi và thú vật hoang dã, vừa có thật vừa tưởng tượng, đều đáp ứng nguyên tắc
âm dương, chẵn lẻ. Ở đây cũng cần nói thêm về dương cơ, âm ngẫu, cơ là số lẻ, ngẫu
là số chẵn. Các con vật được chọn đều có phẩm chất chẵn - lẻ mang đặc trưng loài, thể
hiện qua số ngón chân của chúng. Cụ thể là:
Tý = con Chuột = 5 ngón = lẻ = dương

Sửu = con Trâu (trong thiên văn Trung Quốc nghĩa là ngưu = con bò) = 2 ngón =
chẵn = âm
Dần = con Hổ = 5 ngón = lẻ = dương
Mão = con Mèo (trong thiên văn Trung Quốc là con thỏ) = 4 ngón = chẵn = âm
Thìn = con Rồng (con vật truyền thuyết) = 5 ngón = lẻ = dương
Tỵ = con Rắn (theo truyền thuyết bị chặt chân và chẻ lưỡi ra) = lưỡi chẻ đôi = chẵn
= âm
Ngọ = con Ngựa = 1 ngón = lẻ = dương Mùi = con Dê = 2 ngón = chẵn = âm Thân
= con Khỉ = 5 ngón = lẻ = dương Dậu = con Gà = 4 ngón = chẵn = âm Tuất = con Chó
= 5 ngón = lẻ = dương Hợi = con Lợn = 4 ngón = chẵn = âm
Như vậy, số ngón tối đa là 5, tối thiểu là 1, còn lại là 2 và 4. Tuyệt nhiên không có
số 3.
Số 3 được đưa vào hệ tam tài: Thiên-Địa-Nhân, hệ toạ độ quan trọng mà người xưa
xác lập được nhằm khẳng định vai trò của nó trong vũ trụ. Con người luôn có ý thức
dùng kích thước vũ trụ để đo bản thân. Vì thế, người Hy Lạp cổ mới mãn nguyện về
việc "con người sánh tựa thần linh", và họ sáng tạo ra thế giới điêu khắc có một không
hai để ca ngợi vẻ đẹp này. Con người không hề ích kỷ khi cố gắng hoàn thiện bức
tranh vũ trụ. Họ đưa các con vật vừa thực vừa huyền thoại tạo ra sự đông đúc cho thế
giới nhân quần, nhưng đồng thời đó cũng là những con vật mà họ thuần hóa hoặc
những con vật thường gặp và thường gây nguy hiểm cho họ.
Như vậy, tiêu chuẩn số chẵn - lẻ của ngón chân đã giúp các loài vật được chọn làm
mười hai con giáp. Nhưng số ngón chẵn - lẻ cũng như cái tên chuột, mèo, rồng, rắn
của chúng chưa đủ để đưa chúng vào vũ trụ. Con người lại phải gán cho chúng các
phương vị:
Tý = Bắc Ngọ = Nam
Mão = Đông Dậu = Tây
Và hàng đêm, khi quan sát sao Bắc Đẩu, người ta thấy cái đuôi của nó cứ quay đều
đặn trên tinh cầu theo một vòng tròn, duy có điều nó giống kim đồng hồ quay ngược.
Vòng tròn đó được chia theo phương vị 12 cung và 12 con giáp được trấn giữ 12
phương vị này.

Trong những phát hiện quan trọng của thời cổ đại có việc phát hiện ra đường
Hoàng Đạo - đường dịch chuyển của mặt trời. Vòng Hoàng đạo được chia, phù hợp
với 12 tháng của năm. Và 12 con giáp lại được trấn giữ 12 cung Hoàng Đạo này. Tuy
nhiên, con số 12 được người xưa chọn không phải là con số tùy tiện mà là một con số
hoàn toàn khoa học, để hiểu được điều đó rõ ràng không đơn giản chút nào.
Có liên quan đến 12 cung Hoàng Đạo cần phải kể đến Ngũ hành: năm hành tinh
Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ, trong đó chu kỳ vận hành của sao Mộc mà người
phương Tây đặt tên là Juypite được người xưa ghi nhận bởi tính đặc biệt của nó. Sao
Mộc vận hành xung quanh Mặt Trời trọn 12 năm. Mỗi năm nó xuất hiện ở một
phương vị nhất định. Nơi đó 1 trong 12 con giáp đang trấn giữ. Tên gọi của nó cũng
từ đó mà ra, vì thế sao Mộc còn được gọi là sao Tuế (sao năm), và vì nó là hành tinh
lớn nhất trong hệ Mặt Trời mà người xưa quan sát được nên nó còn được gọi là sao
Thái Tuế. Vùng sao Thái Tuế là một mã thông tin quan trọng của phép tính tử vi.
Liên quan đến việc chọn 12 con giáp là do những quan sát, những nhận xét về cuộc
sống của những loài vật này. Vào những khoảng giờ nhất định, các loài vật - chỉ giới
hạn trong mười hai con giáp - chịu sự tác động qua lại của các lực vũ trụ đã có các
biểu hiện trạng thái sống khác nhau. Trạng thái xấu nhất cho sự sống còn của chúng
được thể hiện thành các khoảng thời gian (giờ, ngày, tháng, năm) và được gọi theo tên
của chúng. Cụ thể:
Tên giờ Ảnh hưởng xấu tới:
Tý Chuột Sửu Trâu Dần Hổ Mão Thỏ (Mèo) Thìn Rồng
Tỵ Rắn Ngọ Ngựa Mùi Dê Thân Khỉ Dậu Gà Tuất Chó Hợi Lợn
Chúng ta thử kiểm nghiệm điều này vì các con vật này không xa lạ với chúng ta.
Tất nhiên trừ con Rồng huyền thoại.
Cũng có thể do quan sát đời sống của các loài vật mà người xưa đi đến chỗ thống
kê đặc điểm sinh học của chúng, từ đó khái quát thành 12 con giáp. Đặc biệt, người
xưa chú ý tới các thời điểm có vấn đề của con vật.
Tháng Tý = tháng mười một: Loài chuột hay bị bệnh và chết. Thực tế còn cho thấy,
đây là tháng bắt đầu lạnh nhiều, đồng ruộng vào vụ cày bừa, chuột không có ăn và
không chống nổi rét nên dễ chết.

Tháng Sửu = tháng mười hai, tháng chạp: tháng rét đậm với đại hàn, tiểu hàn, cây
cỏ tàn lụi. Ăn không đủ mà còn phải kéo cày nên loài trâu sinh bệnh mà chết.
Tháng Dần = tháng giêng: thức ăn của hổ là các loài thú khác. Tháng này các loài
ăn cỏ như hươu nai đi kiếm ăn vì cỏ tranh đã nhú mầm. Hổ cũng đi tìm mồi, giẫm
phải các mầm cỏ tranh nhọn cứng mà bị thương và kéo theo cái đói nên dễ mắc bệnh.
Tháng Mão = tháng hai: Mão là con mèo, nhưng trong thiên văn cổ Trung Quốc thì
biểu tượng của tháng này là con thỏ. Tiết này là tiết kinh trập (sâu nở), cùng với sâu là
chất độc do sâu thải ra, thỏ ăn vào tất phải chết.
Tháng Thìn = tháng ba: Rồng là con vật của huyền thoại, nhưng khi được xác định
(cho dù chỉ là tưởng tượng) thì tất yếu nó cũng có đời sống riêng, kể cả ốm đau, bệnh
tật và cái chết. Nhưng tháng này Rồng có bị bệnh không thì không ai biết. Nhưng nếu
trở lại cội nguồn huyền thoại thì có thể hiểu được phần nào. Rồng là con vật được
giao phó làm mưa, đi liền với sấm chớp. Cha ông ta có câu tục ngữ: tháng ba sấm
chạy phải chăng vì trách nhiệm nặng nề này mà con Rồng dễ bị gặp những điều
không may?
Tháng Tỵ = tháng tư: Sau thời kỳ ngủ tránh rét và liền sau đó là mưa xuân ấm áp,
thức ăn dồi dào, rắn phải lớn lên bằng cách lột xác. Trong thời kỳ lột xác, rắn yếu nhất
và là miếng mồi ngon cho các động vật khác.
Tháng Ngọ = tháng năm: Mùa hè nóng nực, lại là thời kỳ thu hoạch mùa màng nên
ngựa phải làm việc nhiều, dễ mắc bệnh mà chết.
Tháng Mùi = tháng sáu: Loài sơn dương dễ mắc bệnh vì thức ăn không còn ngon
lành nữa: lá cây già cứng, mưa nhiều và thất thường.
Tháng Thân = tháng bảy: Tháng mưa ngâu, nhiều bão, hoa quả gặp mưa bão bị thối
hỏng, khỉ thiếu thức ăn, bị ướt lại thêm đói, dễ mắc bệnh.
Tháng Dậu = tháng tám: Đầu tháng lụt lội, cuối tháng gió heo may, gà vừa đói vừa
rét, ôn dịch phát sinh và gà chết.
Tháng Tuất = tháng chín: Tháng này chó hay bị phát bệnh. Kinh nghiệm dân gian
Nghệ Tĩnh cho thấy, tháng này trùng hợp với mùa rươi, chó rất hay chết. Đặc biệt, nếu
chó đẻ vào tháng này thì chó con rất khó nuôi.
Tháng Hợi = tháng mười: gió Đông Bắc về mang theo các mầm bệnh. Lễ hội mở,

trâu, bò gà, lợn bị giết nhưng điều kiện vệ sinh không tốt nên lợn được hưởng các
khoản thức ăn thừa thì tất nhiên rất dễ nhiễm bệnh và chết.
Tất cả các nhận xét trên đây đều cho thấy sự quan sát tỉ mỉ của người xưa. Bạn hãy
tự kiểm nghiệm bản thân mình, biết đâu những ghi nhận hàng ngày của bạn liên quan
đến tuổi tác của bạn, phối hợp với nhịp sinh học của bản thân bạn lại trở nên hữu ích
vô cùng cho chính bạn.
*
* *
Câu chuyện mười hai con giáp sẽ thiếu sót nếu không đề cập đến hệ đếm can - chi.
Can - chi là hệ đếm cơ số 60, nó phối hợp các hệ đếm cơ số 2, 10, 12 và là một hệ
đếm liên quan tới nhiều nền văn minh cổ. Người Babilon cách đây 3000 năm với hệ
đếm 60 đã xác định một năm có 360 ngày. Với hệ đếm 60 - hệ can, chi - dẫn đến các
tiện lợi cho phép tính thời gian vì 60 là bội số của nhiều số như:
Số 3 = số tháng trong 1 quý.
Số 6 = số tháng trong nửa năm.
Số 10 = số ngày trong một tuần trăng (âm lịch). Số 12 = số tháng của một năm, số
năm của một giáp, số giờ trong một ngày (giờ âm lịch).
Số 15 = số ngày trong một tiết. Số 30 = số ngày của một tháng.
Hệ đếm này xuất hiện từ lâu, được ghi lại trong giáp cốt văn.
Can có nghĩa là thân cây có gốc ở Trời (nên gọi là Thiên can). Người ta dùng ngũ
vận để tính Thiên Can: tức là 2 x 5 = 10 Thiên can. Bản thân Thiên can cũng có âm
dương:
Dương can: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm
Âm can: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý
Chi có nghĩa là cành trúc bị lìa khỏi thân, là cành cây nơi mặt đất (nên gọi là Địa
chi). Địa chi được tính theo lục khí là 2 x 6 = 12. Địa chi cũng có âm dương.
Dương chi: Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất
Âm chi: Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi
Nguyên tắc phối hợp can, chi là dương hợp dương, âm hợp âm, thiên can là cha
(cũng có nghĩa là dương), đứng trước, địa chi (có nghĩa là âm) đứng sau.

Ta có:
Giáp Tý
Ất Sửu
Bính Dần
Đinh Mão cứ thế tiếp tục mãi. Song vì Thiên
can có 10, Địa can có 12, nên một vòng can - chi là 60: Số 60 được gọi là lục thập hoa
giáp. Nguyên tắc dương kết hợp với dương, âm kết hợp với âm là bất di bất dịch, vì
vậy không bao giờ có Giáp Sửu, Mậu Dậu cả, nguyên tắc kết hợp này cho phép từ
dương tạo ra dương, từ âm tạo ra âm, trong 60 ngày thì có 30 dương 30 âm tạo ra nhịp
vận động của thời gian, tạo ra sự thăng giáng.
Cách gọi can - chi trước tiên là để chỉ ngày, sau đó vì tính tiện ích tổng hợp của nó,
nên nó được dùng gọi giờ, tháng và năm. Như vậy, can chi trở thành đơn vị thời gian
âm lịch. Nếu có điều kiện để kiểm nghiệm thì các nhận xét về bệnh tật của các con
giáp đã nêu ở trên cho phép thừa nhận sự chặt chẽ và khoa học hệ đếm can chi này.
Để hiểu rõ hơn, trước hết ta tìm hiểu ý nghĩa can chi. Nguồn gốc của can chi đến từ
cây. Cụ thể:
Thiên can:
Địa chi:
Dùng can - chi để đặt tên các năm thì gọi là "can chi ký niên" và cứ 60 năm lại
quay lại vòng tròn. Vòng này gọi là vòng Giáp Tý. Theo truyền thuyết Trung Quốc thì
đến năm 1983, đã diễn ra 77 vòng Giáp Tý. Năm 1984, năm Giáp Tý là vòng quay thứ
78. Dùng can chi để ghi tháng thì gọi là "can chi ký nguyệt", can chi để ghi ngày thì
gọi là "can chi ký nhật". Tên can chi của tháng gọi là nguyệt kiến, tên can chi của
ngày gọi là nguyệt sóc.
Ngoài việc phân chia can chi thành âm dương, người ta còn chia can chi theo ngũ
hành, cụ thể:
Từ đó cũng có can chi xung hợp. Cụ thể:
Giáp hợp Kỷ
Ất hợp Canh
Bính hợp Tân

Đinh hợp Nhâm
Mậu hợp Quý
Giáp xung Mậu
Ất xung Kỷ
Bính xung Canh
Đinh xung Tân
Mậu xung Nhâm Kỷ xung
Quý Canh xung Giáp Tân xung Ất
Nhâm xung Bính
Quý xung Đinh
Thiên can, Địa chi còn được đặt trong quan hệ với cấu trúc cơ thể, là cách mã hoá
các vùng, các bệnh tật, được xem xét trong tương quan với màu sắc, phương vị. Từ
đó, chức năng mà mười hai con giáp đảm nhiệm không nhẹ nhàng. Và cũng do đó
hiểu được mười hai con giáp giúp cho sự nhận diện cuộc sống đơn giản hơn, tức là
tìm ra cốt lõi của nó, tìm cách cân bằng và đảm bảo sự hài hoà trong cuộc sống.
Chương 2: Sự lựa chọn mười hai con giáp ở các nước
Lịch pháp là phát kiến của các nền văn minh tối cổ và điều này liên quan đến việc
phát hiện ra vòng Hoàng đạo. Người Ai Cập đã sớm phát hiện ra vòng này và đặt tên
là vòng Zodiac (nghĩa đen là vòng động vật). Vòng này được khắc trên một tảng đá
lớn. Đây là dấu tích cho thấy người xưa ở các nơi khác nhau trên thế giới đều đã quan
tâm quan sát bầu trời và đặt tên cho các cung Hoàng đạo (cũng có nghĩa là cho các
ngôi sao trong cung đó) bằng tên của các loài vật hoặc rút ra từ truyền thuyết, hoặc
gắn với cuộc đời họ, thậm chí gây nguy hiểm cho họ, trường hợp không có tên con vật
thì người ta đặt theo hình thế ngôi sao.
Cách đặt tên của vòng Zodiac và của âm lịch theo mười hai con giáp không liên
quan đến nhau. Sự so sánh này cung cấp cho các bạn cách nhìn tổng quan của quan
niệm thiên văn Đông - Tây và cách gọi của Việt Nam để dễ gọi tên khi chiêm nghiệm
bầu trời sao.
Các sao trong vòng Zodiac dùng để chỉ 12 cung Hoàng đạo chứ không phải để gọi
tên tháng. Tạp chí Horoscope (Chiêm tinh học) của Pháp xuất bản hàng tháng đều lấy

sự tương ứng của tháng hiện tại với 12 cung Hoàng đạo này để đưa ra lời dự đoán và
lời khuyên cần thiết. Cách gọi 12 cung này được gọi theo danh từ của Pháp nhưng
nghĩa của chúng thì không đổi. Đó là Bélier, Taureau, Gémeaux, Cancer, Lion,
Vierges, Balance, Scorpion, Sagitaire, Capricornes, Verseau và Poissons.
Cách gọi tên hàng tháng có nguồn gốc từ lịch sử Roma.
Ban đầu, lịch này quy định một năm có 10 tháng, thứ tự như sau:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
Về sau người ta thêm vào hai tháng nữa là:
1.
2.
Hai tháng này được thêm vào đầu năm, thành 2+10, từ đó Martius thành tháng 3.
Cách mạng Pháp 1789, cũng đưa ra lịch Cộng hòa của mình vào ngày 22/9/1773.
Nguyên tắc xác định tên tháng của lịch này dựa trên đặc điểm thời tiết hay mùa màng
Như vậy, ở đây không có con vật nào được dùng để đặt tên cho tháng. Cách đặt tên
tháng theo nông lịch như trên cũng đã có trong thời cổ Trung Quốc. Đã có một thời kỳ
dài người Trung Quốc gọi tên tháng bằng tên các loài cây, loài hoa thường gặp trong
tháng, trong mùa đó:
Tháng giêng là nguyên nguyệt Tháng hai là hạnh nguyệt Tháng ba là đào nguyệt
Tháng tư là hòa nguyệt Tháng năm là lưu nguyệt Tháng sáu là hà (sen) nguyệt Tháng
bảy là đồng nguyệt Tháng tám là quế nguyệt Tháng chín là cúc nguyệt Tháng mười là
mai nguyệt Tháng mười một là giá (lau) nguyệt

Tháng mười hai là lạp (tế lễ) nguyệt Như vậy, sự lên ngôi của các con vật, trở thành
mười hai con giáp chẳng phải dễ dàng. Người phương Tây vẫn giữ nguyên vòng
Hoàng đạo Zodiac và bảo tồn tên gọi các tháng mà họ đã kế thừa từ người La Mã.
Chương 3: Thời gian và không gian trong vũ trụ (10 can và 12 chi)
Sinh vật sống trên trái đất, trong đó bao gồm cả loài người chúng ta đều bị chi phối
bởi những quy luật của vũ trụ, mà vũ trụ được hình thành bởi không gian và thời gian.
Vì vậy, ta có thể nói rằng, chúng ta đang bị không gian và thời gian chi phối.
Trái đất xoay quanh mặt trời một vòng là một năm, bằng 365 ngày. Trong một năm
có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông thay nhau luân chuyển, trong mùa có tháng, trong
tháng có ngày và đêm. Dưới ánh sáng mặt trời, vạn vật trên trái đất đều tìm được sự
sống và sinh sôi, nảy nở. Các thiên thể trong vũ trụ luôn vận hành theo một quy luật
nhất định, theo chu kỳ tuần hoàn. Từ hiện tượng tròn, khuyết của mặt trăng đến mùa
Xuân hoa nở, mùa Thu kết trái và mùa Xuân năm sau lại tới, cây cối lại nở hoa. Chính
những hiện tượng lặp đi lặp lại ấy là quy luật vận hành của thiên thể (trong đó có trái
đất). Người Trung Quốc cổ đại đã quan sát những quy luật chu kỳ tuần hoàn của thiên
thể, từ đó phát minh ra lịch. Vào khoảng năm 1100 trước Công nguyên, người Trung
Quốc cổ đại (thời Ân, Thương) đã biết tính lịch bằng cách kết hợp giữa Thiên can và
Địa chi.
Thiên can gồm có: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Địa chi gồm có: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Thiên Can và Địa Chi tuần tự kết hợp với nhau từ Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần,
Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Giáp Tuất,
Ất Hợi, Bính Tý 10 can và 12 chi kết hợp với nhau, 60 năm thì hết một vòng gọi là
hoa giáp, đến năm thứ 61 lại là năm Giáp Tý.
Lịch ra đời đã góp phần xác lập khái niệm về thời gian. Tiếp đó, người Trung Quốc
cổ đại cũng đã phát hiện thấy "chất" của thời gian.
Người phương Đông, đặc biệt là người Trung Quốc cổ đại rất coi trọng tới vấn đề
"chất" của thời gian. Một tiếng đồng hồ của mùa Hạ và một tiếng đồng hồ của mùa
Đông, tuy có độ dài thời gian bằng nhau nhưng tính chất của chúng lại khác nhau rất
nhiều.

Ví dụ: vào lúc hai giờ chiều giữa mùa Hè và hai giờ chiều giữa mùa Đông, tuy
cùng trong một thời gian (hai giờ chiều) và cùng trên một địa điểm, nhưng vào lúc hai
giờ chiều giữa mùa hè, trời nóng như thiêu như đốt, còn hai giờ chiều giữa mùa Đông,
dù bạn có đứng giữa trời đầy ánh nắng thì vẫn cảm thấy rét run. Nếu vào giữa hai thời
điểm ấy, quan sát hoa cỏ quanh mình, bạn sẽ cảm thấy sự khác biệt rất rõ của chúng.
Một năm có 365 ngày, là quãng thời gian để trái đất quay quanh mặt trời đủ một vòng,
nhưng các năm cũng có sự khác biệt nhau rất rõ. Có năm được mùa, có năm lại mất
mùa, đói kém. Chính những hiện tượng này đã giúp người Trung Quốc cổ đại nhận
thức được chất của thời gian.
Cùng là một khái niệm về thời gian nhưng người phương Tây chỉ coi thời gian là
"một khái niệm của độ dài" còn người Trung Quốc lại nghĩ đến "chất" của nó, những
điểm không giống nhau này cũng được thể hiện ở thuật chiêm tinh của người phương
Tây và thuật chiêm tinh của người phương Đông.
Chương 4: Sự ra đời của 12 con giáp
Sau khi người Trung Quốc cổ đại phát hiện “chất” của thời gian, liền đó lại nảy
sinh ra một nghi vấn mới. Vậy vấn đề “chất” của thời gian rốt cuộc có ảnh hưởng gì
tới đời sống, tư chất tính cách của mỗi người hay không? Họ liền ngược thời gian
hàng trăm, hàng ngàn năm, tìm tới thời điểm của các cuộc chiến tranh, những năm
được mùa, mất mùa, địa chấn, lụt lội để tìm hiểu, tính toán và cuối cùng đã phát hiện,
những sự kiện trên đều xảy ra theo một chu kỳ nhất định của nó.
Đồng thời, họ cũng phát hiện thấy tính cách chung của những người sinh ra trong
cùng một năm.
Mọi sinh vật trên địa cầu đều phải chịu ảnh hưởng bức xạ vũ trụ (bức xạ của các
thiên thể), cộng thêm tác động của thời gian. Chỉ với hai điểm này, người ta có thể
tính ra những người được sinh cùng một năm có những tính cách gì giống nhau. Cùng
với sự phát triển của ngành thống kê học, các nhà khoa học chứng minh: Có quy luật
về tính cách và vận mệnh con người do sự chi phối của quy luật tự nhiên.
Người Trung Quốc cổ đại đã sắp xếp Thiên can và Địa chi vào lịch, gọi những
người sinh vào năm Tý là cầm tinh con chuột, năm Sửu là cầm tinh con trâu v.v để
hoàn thành hình tượng của mười hai con giáp như ngày nay. Mười hai con giáp xuất

hiện sớm nhất trong Bát quái của Kinh dịch, đó là phương pháp phỏng sinh ghi năm,
còn gọi là cầm tinh con giáp. Dưới đây xin giới thiệu đôi nét cơ bản quan niệm của
người phương Đông xưa về tính cách của con người theo các tuổi và sự sinh khắc
giữa các tuổi theo Ngũ Hành Bát Quái.

Chương 5: Vì sao người xưa đều cầm tinh các con vật?
Từ xưa đến nay, người ta vẫn thích bàn luận về việc cầm tinh các con vật. Một
người sinh vào năm nào đó thì cầm tinh con vật nào? Tính tình anh ta ra sao? May
mắn rủi ro họa phúc sẽ như thế nào v.v Việc cầm tinh con vật liên quan gì đến số
mệnh của người đó?
Tương truyền, thời xa xưa, người ta lấy mặt trời làm chuẩn cho một ngày lao động:
"Mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ". Nhưng gặp hôm trời đầy mây mưa, khuất
mặt trời thì con người không biết dựa vào đâu.
Có một người tên là Đại Nhiêu sáng tạo ra thập thiên can (10 can): Giáp, Ất, Bính,
Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý và các thập nhị địa chi (12 địa chi) là Tý, Sửu,
Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, dùng để tính thời gian, một
ngày chia ra làm 12 giờ, dùng một địa chi để biểu thị một giờ, lại dùng thiên can phối
hợp với nó để tính năm, như năm: Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần Nghe nói, thời đó đã
có văn tự, liền dùng biện pháp này soạn thành bộ lịch đơn giản. Nhưng văn tự vừa
mới xuất hiện trong bộ lạc nên rất nhiều người không hiểu. Hoàng đế anh minh biết
việc này liền dùng 12 con vật để chia tên năm.
Năm Giáp Tý dùng con chuột để biểu thị. Năm Ất Sửu dùng trâu để biểu thị
Ngày này qua tháng khác, mọi người ghét năm Giáp Tý, năm Ất Sửu khó nhớ, nên gọi
luôn là "năm chuột", "năm trâu" Thế là những người sinh năm chuột gọi là "thuộc
chuột" hay cầm tinh con chuột, những người sinh năm trâu là cầm tinh con trâu. Như
vậy, mỗi người đều cầm tinh một con vật.
Việc cầm tinh 12 con vật là sự hình thành kết hợp lẫn nhau của cách tính năm của
người xưa. Theo Triệu Dực, một học giả nổi tiếng đời Thanh thì cách lấy động vật để
nhớ năm lưu hành sớm nhất trong các dân tộc du mục ở miền Bắc Trung Quốc. Người
xưa khi quan sát sao đã biết được Tuế tinh (Mộc tinh - sao mộc) vận hành một vòng

hết khoảng 12 năm, nên lấy phương vị của nó để tính năm, nhớ năm và dùng tên gọi
những con vật quen thuộc nhất cho dễ tính năm. Như vậy xuất hiện lịch 12 con thú.
Về sau kết hợp với cách tính năm theo can chi của người xưa mới có cách nói "cầm
tinh 12 con vật". Người sinh năm nào thì sẽ có một con vật tương ứng. Vương Sung,
người Đông Hán trong "Luận hành" viết rằng, "Ngọ là ngựa, Tý là chuột, Dậu là gà",
chứng tỏ 12 địa chi phối hợp với 12 con vật đã lưu hành từ đời Hán. Cổ nhân căn cứ
vào quy luật thời gian các con vật xuất hiện, hoạt động để chọn ra 12 con vật là chuột,
trâu, hổ, thỏ (ở Việt Nam gọi là mèo), rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, lợn để tính 12
giờ trong ngày. Cho rằng:
- Giờ Tý (tức là từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng), chuột hoạt động mạnh nhất, hoạt
bát nhất.
- Giờ Sửu là lúc trâu đã ăn no cỏ, vẫn còn nhai lại, chuẩn bị trời sáng để đi cày
ruộng.
- Giờ Dần là lúc hổ hung mãnh nhất.
- Còn từ 5 giờ sáng trở đi, trăng vẫn còn chiếu sáng trên mặt đất nên giờ Mão lấy
con thỏ để đặt cho giờ này, dựa vào thỏ trên mặt trăng (ở Việt Nam mão là mèo).
- Giờ Thìn chính là lúc đàn rồng quần tụ tạo mưa (quần long hành vũ).
- Giờ Tỵ là lúc rắn không còn đi lại trên lối người đi, không làm hại người nữa.
- Giờ Ngọ là lúc dương khí đạt mức cao nhất, mà ngựa thuộc loại tính dương.
- Giờ Mùi nghe nói dê ăn cỏ vào giờ này không ảnh hưởng đến việc cây cỏ mọc lại.
- Giờ Thân là lúc khỉ thích hú kêu.
- Giờ Dậu là lúc gà bắt đầu lên chuồng.
- Giờ Tuất chính là lúc chó phải trông nhà.
- Giờ Hợi là lúc mọi thứ đều trở nên yên lặng, tĩnh mịch, lợn ngủ say nhất.
Có thể thấy, những loại động vật khác nhau, phối hợp với địa chi chẳng qua là theo
sự phối hợp của các nhà âm dương đời Hán, cả hai đều không tồn tại mối liên hệ tất
yếu nào. Còn đến việc kỵ, tránh trong số mệnh (như trong cưới xin, hợp nhau, xung
nhau) hoặc cát hung hoạ phúc, tính cách hợp, xung đều là do các thầy bói đặt ra từ
xưa đến nay.
Tại sao có chuyện cầm tinh 12 con vật

Trong thuyết Dịch, Âm - Dương là hai khí vô hình không thể mô tả bằng lời nên
phải mượn cái hữu hình để làm sáng lý - cái hữu hình đó gọi là tượng. Dịch thuyết
cương lĩnh nói rằng: "Hiểu lời thì nông, hiểu tượng thì sâu" để lưu ý người đọc Dịch,
điều cốt yếu là hiểu được những ẩn ý hàm chứa trong tượng mới thấy cái hay của
Dịch, còn chỉ mới hiểu ở lời thì xem như chưa thông Dịch, dễ hướng theo cách suy lý
lầm lẫn. Phương pháp dùng tượng trong kinh Dịch rất đa dạng và không dễ hiểu ngay
cả đối với người Trung Hoa, nên ở đây chỉ nói đến một dạng Tượng tiêu biểu mà mọi
người đều biết là các con vật được dùng như thế nào và ý nghĩa của chúng ra sao
trong quy luật biến đổi của Âm - Dương khí.
Chu trình vận hành của Âm - Dương khí trong vũ trụ được dịch lý mô tả bằng một
đường tròn khép kín biểu diễn sự biến đổi không ngừng của hai khí
Âm - Dương qua trọn một năm gồm 12 tháng (tức 12 cung trên đường tròn) và
được hiển thị bằng 64 quẻ dịch. Định luật biến đổi Âm - Dương khí tuân theo nguyên
lý Âm Dương Tiêu Trưởng và luôn được bảo toàn nên có thể viết dưới dạng thức:
Âm + Dương = Hằng số (const)
Âm dương tiêu trưởng qua 12 tháng
Nghĩa là khi Dương khí lên (trưởng) thêm một đơn vị thì Âm khí phải xuống (tiêu)
đi một đơn vị tương ứng và ngược lại. Âm - Dương khí biến đổi theo phép biện chứng
của tự nhiên, "lượng đổi thì chất đổi" được kinh Dịch diễn giải bằng 64 quẻ Dịch dưới
hình thức ẩn dụ thông qua tượng, 12 quẻ dịch ở 12 cung trên đường tròn Dịch lý nằm
trong quy luật đó. Trên hình vẽ, nửa bên trái (cung NES) biểu diễn quy luật Dương
trưởng Âm tiêu qua 32 quẻ Dịch (gồm 112 hào Dương và 80 hào Âm) bắt đầu từ quẻ
Phục với một hào Dương (nhất Dương sinh) và 5 hào Âm biểu thị cho tháng Một nên
gọi là quẻ Nguyệt lệnh của tháng Một. Sự biến đổi tiếp theo tăng thêm trọn một hào
Dương thành quẻ Lâm, biểu thị cho tháng chạp và khí Dương cứ tiếp tục tăng lên như
thế cho tới tháng Tư Nguyệt lệnh là quẻ kiền với cả 6 hào Dương là khí Dương đã lên
đến tột cùng (maximun): Nửa bên phải (cung SWN) biểu diễn quy luật Âm trưởng
Dương tiêu qua 32 quẻ Dịch (gồm 112 Hào Âm và 80 Hào Dương), bắt đầu từ quẻ
Cấn biểu thị cho tháng Năm (nhất Âm sinh) và cũng biến đổi theo quy luật nói trên
cho tới tháng Mười Nguyệt lệnh là quẻ Khôn với cả 6 hào Âm là khí Âm đã lên tới tột

cùng, kết thúc một chu trình vận hành của Âm Dương khí trong vũ trụ qua trọn 1 năm
âm lịch. Nửa bên trái xem như phần ban ngày bởi khí Dương mạnh, ngược lại, nửa
bên phải là phần Âm mạnh; suy ra, độ Dương của các cung thuộc phần ngày sẽ lớn
hơn ở các cung đối ứng thuộc phần đêm, còn bộ Âm thì ngược lại - nhỏ hơn.
Mười hai quẻ dịch biểu thị cho 12 tháng của một năm theo quy luật tiêu trưởng của
Âm - Dương, thuộc phần ngày phần đêm, cung Dương cung Âm đã rõ ràng, sẽ là cơ
sở để xem xét việc dùng loại tượng nào có thể biểu đạt được sáng rõ nhất cái lý của
Dịch ở
12 cung trên đường tròn Dịch lý. Cuối cùng, các con vật có "vinh dự" được chọn
giao vào các cương vị "trọng trách" đó. Mười hai con vật được chọn làm tượng phải
đạt được các "tiêu chuẩn" sau:
- Đối nghịch nhau về tính cách theo nguyên lý đối nghịch nhau của Âm - Dương là:
Động - Tĩnh, Cương
- Nhu, Nhanh - Chậm, Mạnh - Yếu, Dữ - Hiền để lấy 6 con có tính dương trội
vào ngôi các cung Dương và 6 con có tinh Âm trội đặt vào vị trí các cung Âm.
- Phải là những con vật được mọi người biết rõ tính cách và phải gần gũi với con
người (vì thế các con vật nuôi được "ưu tiên" tuyển chọn). Thoả mãn cả hai "tiêu
chuẩn" này không dễ, nên cuối cùng chỉ có 11 "ứng cử viên" là các con vật có thực
đắc cử: ngôi vị thứ 12 được đặc cách dành cho con Rồng là con vật hư cấu nhưng
xét ra lại rất đạt "tiêu chuẩn" vì ai cũng biết các "thuộc tính" của Rồng, hơn nữa Rồng
ở trên trời nên toạ lạc ở cung Dương thuộc phần ban ngày là hợp vị. Chú Ngựa - "siêu
sao" về tính năng động - ở ngôi cao cung
Dương mạnh nhất là xứng đáng (trong kinh Dịch thì chữ "Dịch" cũng tượng hình
bằng bộ "Mã") còn như chú Heo "đại lãn" tĩnh toạ nơi Âm cực tiêu biểu cho sự trì
chậm nhu yếu thì quả là chí lý. Sự tinh vi và chính xác trong việc dùng tượng tới mức
khó có thể đổi chỗ cho các con vật cũng như thay thế bằng một con vật nào khác hợp
lý hơn thế.
Mười hai con vật được gọi là 12 địa chi chỉ có ý nghĩa đối với chu kỳ một năm, khi
đem chúng kết hợp với 10 thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân,
Nhâm, Quý) sẽ tạo thành một chu kỳ lớn 60 năm gọi là một Hội (tức vòng Lục Giáp

hoa niên) thì chúng không có ý nghĩa nữa. Điều này cũng dễ hiểu như hai chất A + B
= C thì chất C mới tạo thành phải có tên gọi khác, ở đây, điều đó có ý nghĩa tìm chọn
các con vật làm tượng cho 60 năm quả là không dễ nên phải có sự "châm chước" về
tiêu chuẩn mới có được đủ số cần thiết (vậy là phải lấy "vớt" cả những con vật mà
nhiều người còn ít biết, thậm chí không biết, khiến cho một số tượng dùng không
"đắt" và trở nên khó hiểu).
Một chu kỳ 60 năm mỗi con vật biến tướng 5 lần và mang diện mạo của những con
vật khác, ví dụ:
Giáp -Thìn : Rắn Ất - Mão: Dơi
Bính - Thìn: Chuột Đinh - Mão: Gà
Mậu - Thìn : Quạ Kỷ - Mão: Rồng, Chồn Canh - Thìn: Lạc đà Tân - Mão: Rái cá
Nhâm - Thìn: Sói Quý - Mão: Hươu
Thật là ngộ khi Mèo "Kỷ" thoắt cái đã biến thành Rồng, Mèo "Tân" là anh Rái cá,
Rồng "Canh" lạc xuống làm lạc đà, Rồng "Mậu" hoá ra quạ! Vậy sự biến hoá vô
thường này mang ý nghĩa gì và liên quan như thế nào đến con người sinh vào năm
mang tên chúng? Tượng vốn dĩ khó hiểu bởi nó hàm chứa nhiều ẩn dụ, có thể suy lý
cho nhiều việc, ví du, có thể suy lý ẩn dụ về tính cách: sinh năm Thìn xem như được
cốt con Rồng là mới "cầm tinh" cái hình hài mà chưa có tính cách, khi giao kết với
"Mậu", mới tạo ra cái tính và "xuất tướng tính" thành Quạ với ẩn dụ là người hay nói,
thích "ăn to nói lớn". Hoặc Rồng kết hợp với "Canh", thì tính năng động của rồng sẽ
biến mất và trở thành người từ nói năng đến đi đứng đều chậm chạp đủng đỉnh như
Lạc đà qua sa mạc, "trưa không vội tối chẳng cần", còn người Tân Mão thì khôn
ngoan lanh lợi và tinh ranh như Rái cá v.v thường thì biết tính cách chỉ để cho vui
nhưng khi cần xác định vào một việc nào đó thì đôi khi lại rất ý nghĩa, ví như "chân"
Lạc đà làm sao sánh bằng "chân" Ngựa về tính năng động (Na-pô-lê-ông hiểu đến tính
cách của từng người lính nên biết sử dụng "đúng người đúng việc”.
Các con vật chỉ đắc dụng khi cần làm sáng cái lý của những kết hợp đơn giản như
giữa Can - Chi của năm, còn đối với những giao kết phức hợp (như giữa Can - Chi
của cả năm, tháng, ngày, giờ) chúng sẽ không còn đất dụng võ nữa mà phải dùng đến
chính con người làm tượng cho con người, mới có thể làm sáng được cái lý âm địa

của Dịch (các Đại tượng và Tiểu tượng ở mỗi quẻ dịch trong kinh Dịch chứng tỏ điều
đó).
Nếu đem các con vật với ý nghĩa và tác dụng hạn chế nói trên ra "đối tác" với nhau
để suy lý xét đoán cho con người thì e rằng quá ư đơn giản. Ví như năm mới là năm
con Chuột sẽ "xung" với con Mèo (trong bộ "tứ hành xung" là Tý - Ngọ - Mão - Dậu)
nhưng chuột "Bính" đã biến thành Rắn còn Mèo thì cũng đã biến chất thành Dê, Gà,
Rồng, Rái cá, Hươu cả rồi. Vậy thì sẽ lấy con nào "xung" với con nào đây? Thật khó
mà biết được "Mèo nào cắn Mỉu nào" (và nếu có sự "cắn nhau" ấy thì làm sao biết
được là "cắn đau" hay chỉ là "cắn yêu" thôi).
Bảng này ngoài việc tìm hiểu ý nghĩa của năm, còn là cơ sở giúp hiểu thêm về ý
nghĩa Can chi của ngày, giờ, tháng sinh của bạn hoặc của thời điểm bạn cần giải quyết
vấn đề nào đó. Ở đây chỉ ra ngũ hành của các năm và có liên quan với nhau chặt chẽ.
Vì "trên trời có Ngũ tinh, dưới đất có Ngũ hành", để tính vận hạn tốt xấu, cần biết vận
dụng quy luật Ngũ hành tương sinh tương khắc mà luận. Cứ 60 năm thì gọi là một
Hoa giáp, mỗi Hoa giáp nạp âm thành 30 tượng, cứ 6 tượng tạo ra 1 hành. Tất nhiên,
việc tính sinh khắc không phải khó, song không phải bao giờ cũng máy móc. Ví dụ:
nguyên tắc chung là Kim khắc Mộc thì chỉ có mỗi "kiếm phong kim" là thực sự khắc,
còn "sa trung kim", "hải trung kim", "bạch lạp kim" và "thoa xuyến kim", "kim báu
kim" thì không dễ gì khắc mộc được. Có thể hiểu tương sinh nhiều là tốt, tương khắc
nhiều bất lợi, nhưng biết là để khắc phục và tận dụng thời cơ, tranh thủ con người mà
vươn lên, chứ không phải để lẩn tránh. Đó là ý nghĩa tích cực của việc tìm hiểu 12 con
giáp trong tương quan rộng. Bảng Lục thập hoa giáp cho biết thông tin của bản thân,
tìm hiểu khả năng tồn vong của muôn loài, muôn vật, từ đó nhận thức sâu hơn về các
mặt, hiểu rõ hơn bản chất sự vật. Rồi cũng từ đó đề xuất phương hướng giải quyết, bởi
lẽ "vấn đề không phải ở chỗ giải thích thế giới mà là cải tạo thế giới" (K.Mác).
Chương 6: Tính cách con người sinh ra trong các mùa của tiết trời
Một năm chia làm bốn mùa, mỗi mùa gồm 3 tháng: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Qua
hàng vạn triệu năm, từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ Đông sang Tây, khắp trên hành
tinh chúng ta, qua thực tế của mỗi bản thân trong cộng đồng, con người đã đúc kết
được những hiểu biết cơ bản (có thể chỉ là kinh nghiệm) về mối quan hệ khăng khít

giữa mùa sinh của một đời người với từng mùa của tiết trời. Điều này có ảnh hưởng
nhất định đến thời vận và tính cách của từng người.
Những người sinh vào mùa Xuân
(Từ tháng 1 đến tháng 3) thuộc loại sơ niên vận (từ khi lọt lòng mẹ đến năm 20
tuổi), thời vận cực thịnh. Bởi mùa Xuân là mùa mà vạn vật hân hoan tiến vào thời kỳ
phồn vinh, hoa lá đua nhau khoe sắc, ong bướm rập rờn, cây cối đâm chồi nảy lộc,
mọi thứ trên đời đều như trẻ lại. Đồng thời, vào xuân, băng tuyết đã bắt đầu tan chảy,
khắp nơi hoa nở, chim hót rộn ràng, các loài động vật ngủ đông cũng đã bắt đầu thức
giấc. Vạn vận đều tràn trề sức sống. Chính vì vậy, ông cha ta đã gọi cuộc sống của
mỗi người thời trai trẻ là "tuổi thanh xuân". Vận số loài người cũng bị ảnh hưởng bởi
niềm hân hoan bước vào thời kỳ phồn vinh ấy. Những người sinh vào mùa Xuân ngay
từ lúc còn nhỏ đã được ông trời ưu đãi, quá trình trưởng thành của họ chẳng khác gì
hình vẽ của một ngọn núi lửa.
Bạn trẻ có thể trưởng thành nhanh chóng hay không đều dựa vào trạng thái tinh
thần của bậc làm cha, làm mẹ. Tức là tinh thần của họ cũng được thoải mái, thư thái
trong không khí mùa Xuân và sinh ra đứa con với tinh thần thư thái ấy. Những đứa
con này lớn mạnh nhanh chóng, đó là lẽ đương nhiên.
Trong không khí hân hoan tiến tới sự phồn vinh ấy, lại được cha mẹ nuôi dạy,
chăm sóc, yêu thương khi trong lòng họ tràn đầy sắc xuân, vận số của đứa trẻ ấy từ
khi sinh ra cho tới hai mươi tuổi vốn được ông trời đặc biệt ưu đãi. Mà cái gọi là
"được ông trời đặc biệt ưu ái" ấy không chỉ thoả mãn về phương diện vật chất mà còn
bao hàm tình yêu thương của cha mẹ và tổng hợp mọi ưu đãi trong cuộc sống, môi
trường.
Vì vậy, đứa bé có được nhân tố tuyệt vời để trưởng thành có thể nói là những đứa
bé sinh vào mùa Xuân. Vì vậy, đối với những đứa trẻ được sinh vào mùa Xuân, trong
quãng thời gian "Sơ niên vận" của mình vốn là thời kỳ vận số tốt. Nếu chúng biết nắm
bắt lấy thời điểm "vận số tốt" ấy thì ngay từ lúc còn trẻ đã có thể xuất đầu lộ diện, tiến
lên cao, cả đời thuận buồm xuôi gió.
Những người sinh vào mùa Xuân cần phải lưu ý đến vận xấu của mình ở độ tuổi
trung niên.

Những người sinh vào mùa Xuân cần phải đặc biệt chú ý đến những năm hạn.
Vì vậy, nếu bạn được sinh vào mùa Xuân, bạn nên cố gắng vươn lên ngay trong
thời kỳ rực rỡ nhất, "Sơ niên vận" của mình, cố gắng nắm lấy thời vận lúc đang lên,
đồng thời cũng phải lưu ý đến độ tuổi trung niên là lúc thời vận của mình đang xuống,
phải thật cẩn thận trong lời ăn tiếng nói và công việc.
Bạn nên thận trọng khi làm một việc lớn vào năm vận hạn. Những người sinh vào
mùa Xuân nếu có sự cạnh tranh, tranh chấp xảy ra vào độ tuổi trung niên, tức là lúc
vận hạn của mình thì dù bạn không sai nhưng người gánh chịu phần thua thiệt vẫn
chính là bạn.
Người sinh vào mùa Hạ
(Từ tháng 4 đến tháng 6) thuộc loại thanh niên vận (từ khoảng 20 tuổi đến 35 tuổi,
thời vận cực thịnh).
Mùa Hạ vào khoảng từ đầu tháng Tư đến cuối tháng Sáu. Nếu bạn là người sinh
vào mùa Hạ thì vận số cả đời của bạn thuộc loại "Thanh niên vận".
Đối với những người sinh vào mùa Hạ thì vận số của họ thịnh nhất vào khoảng tuổi
thanh niên. Bất kể họ làm việc gì đều tự do tự tại. Đồng thời, nếu bạn biết vận dụng
tốt quãng thời gian có vận số thịnh nhất của mình thì cuộc đời bạn sẽ phát triển tốt.
Vào mùa Hạ, mặt trời rực rỡ, chiếu rọi khắp nơi, mọi vật tràn đầy sức sống. Trong
thời gian này, lúa đang trổ bông, phấn hoa lan toả khắp không gian để chuẩn bị kết
trái. Mùa Hạ là mùa vạn vật vận động mạnh mẽ nhất. Mùa Hạ chính là ngưỡng cửa
của mùa Thu, là mùa thu hoạch. Nếu dùng bốn mùa để ví với cuộc sống của một đời
người thì đó là mùa có nhiều biến động lớn nhất. Nếu nói theo màu sắc thì biểu tượng
của mùa Xuân là màu xanh lục, còn màu đỏ là biểu tượng của mùa Hạ.
Những người sinh vào mùa Hạ cần biết nắm lấy vận đỏ vào tuổi thanh niên của
mình.
Nếu bạn là người được sinh vào mùa Hạ thì đến khi về già, quay đầu nhìn lại vận
mệnh cả đời của mình, nhất định bạn sẽ thấy vận mệnh của mình phát triển rực rỡ nhất
vào độ tuổi từ 25 đến 30.
Nếu bạn là người sinh vào mùa Hạ, dù tuổi thơ của bạn trôi qua không được êm
đềm nhưng tuyệt đối bạn chớ nên nhụt chí. Những người thành công đều là những

người đã vượt qua được thử thách của hoàn cảnh, ngay từ nhỏ đã theo đuổi mục tiêu
của cuộc đời, biết dũng cảm tiến lên phía trước, luôn nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi.
Những người sinh vào mùa Thu
(Từ tháng 7 đến tháng 9) thuộc loại trung niên vận (từ 35 tuổi đến 50 tuổi, thời vận
tốt đẹp).
Ai cũng biết rằng mùa Thu có ba tháng, kéo dài từ đầu tháng Bảy đến cuối tháng
Chín. Các bạn thử hình dung lại mùa Thu ở vùng ngoại ô xem. Đầu tiên, mùa Thu
chính là mùa thu hoạch. Lúa hay các loại hoa mầu khác đều được thiên nhiên ban
thưởng hậu hĩnh, cuối cùng cũng đã tới lúc chín muồi, tạo cho người nông dân cảm
giác vui vẻ khi thu hoạch mùa màng về nhà. Vùng ngoại ô miền núi cũng khoác lên
mình nét đẹp rực rỡ. Đó chính là một trong những đặc trưng của mùa Thu. Thế nhưng,
sau khi mùa màng đã được thu hoạch xong, khung cảnh ngoài đồng lại khiến người ta
có cảm giác cô tịch, vắng lặng, không thể che giấu nổi nỗi buồn man mác của mùa
Thu trước phong cảnh tiêu điều, cô tịch của vạn vật.
Những người sinh ra vào mùa Thu bị ảnh hưởng của mùa thu hoạch. Như biểu đồ
đã chỉ, vào độ tuổi trung niên - độ tuổi chín chắn của cuộc đời, vận số thịnh nhất sẽ
đến với họ.
Nếu vận số của bạn có chiều hướng đi xuống vào độ tuổi trước trung niên, các bạn
chớ ngại khi liên tưởng đến cây lúa, trước khi trổ bông kết trái đã phải trải qua sự
khảo nghiệm của mưa gió. Tức là vào mùa Hạ, nhưng đợt gió mạnh thổi qua làm thân
cây nghiêng ngả, rập rờn. Như vậy, cây lúa mới có được điều kiện thụ phấn giữa hoa
đực và hoa cái, mới có được vụ thu hoạch vào mùa Thu. Cũng giống như đạo lý trên,
những người sinh vào mùa Thu, trước khi bước vào cuộc tranh thắng phụ đều phải trải
qua các cuộc khảo nghiệm kỹ lưỡng.
Có vượt qua được các cuộc khảo nghiệm ấy hay không, điều này phụ thuộc bởi vận
mệnh của những người sinh vào mùa Thu.
Những người sinh vào mùa Thu phải biết cần cù, cố gắng ở độ tuổi thanh niên.
Ngoài ra, còn một vấn đề cần phải nói là, giống như tranh minh hoạ ở trang trước
đã hiển thị, cuộc sống nửa trước của họ đa số đều trải qua một cách bình lặng. Do đó,
thông thường mà nói, họ không đủ lòng kiên nhẫn để đợi cho qua kỳ ngủ đông,

thường có những hành vi khinh suất, manh động, hay oán trời chẳng chiều lòng người,
cảm thấy vô cùng thất vọng trong cuộc sống, có rất nhiều người vứt bỏ mọi sự cố
gắng của mình. Kết quả là dù vận số cực thịnh thời trung niên của họ có tới, họ không
biết nắm lấy mà để nó trôi đi một cách tự nhiên còn mình thì chết dần trong sự buồn
bực.
Ngược lại, những người biết nuôi hy vọng cho tương lai của mình trong thời kỳ
ngủ đông này, liên tục cố gắng một cách không biết mệt mỏi thì đến độ tuổi trung
niên, họ sẽ thu được thành quả mĩ mãn của mình.
Đối với những người sinh vào mùa Thu, nếu họ làm việc vất vả thời thanh niên thì
nhất định sẽ được đền bù xứng đáng sau này. Những người sinh vào mùa Thu chớ nên
theo đi cái lợi trước mắt hoặc ỷ vào tài năng hơn người của mình. Nếu bạn làm được
như vậy, bất luận bạn theo đuổi sự nghiệp gì, qua độ tuổi 35, nhất định bạn sẽ gặt hái
được thành công, còn đối với công việc chuyên ngành hay đổi sang công việc mang
tính tự do thì bạn vẫn cần phải cẩn trọng trong thời thanh niên, tuyệt đối không manh
động.
Ví dụ: những người cầm tinh con Hổ vốn rất hay thay đổi công việc. Nhưng nếu họ
sinh vào mùa Thu và có khuynh hướng liên tục thay đổi công việc vào thời thanh niên
thì kết quả là, không ít người đã để thời điểm vận số cực thịnh của mình qua đi một
cách phí phạm.
Nhưng nếu họ thay đổi công việc vào thời kỳ vận số thịnh nhất ở độ tuổi trung
niên, rất có thể họ sẽ đạt được những thành tích khiến người khác phải ngưỡng mộ, từ
đó tạo ra một cuộc sống phát triển mạnh mẽ, hoàn toàn mới.
Cũng giống như việc thay đổi ngành nghề, trên phương diện hôn nhân, đa số những
người sinh vào mùa Thu nếu kết hôn muộn sẽ có cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Bội thu ở độ tuổi từ bốn mươi đến năm mươi.
Tóm lại, những người sinh vào mùa Thu sẽ có vận số cực thịnh ở độ tuổi trung
niên. Phần lớn những nhân vật thành danh sinh vào mùa này bắt đầu phát ở độ tuổi từ
ba mươi đến bốn mươi, đến độ tuổi trung niên họ bắt đầu gặt hái thành công lớn.
Người sinh vào mùa Đông
(Từ tháng 10 đến tháng 12), thuộc loại vãn niên vận (từ 50 tuổi trở lên thời vận tốt

đẹp).
Mùa Đông dài ba tháng, vào khoảng từ đầu tháng Mười đến hết tháng Mười hai.
Nếu bạn sinh vào mùa Đông, như vậy vận số của bạn sẽ thuộc loại "Vãn niên vận".
Bởi bạn được sinh vào mùa Đông, hoa cỏ tàn tạ, phải gánh chịu gió lạnh tuyết rơi
và cũng là mùa ngủ đông của các loài động vật. Đó chính là cách tự bảo tồn của các
loài động, thực vật để vượt qua mùa Đông lạnh lẽo, chờ đợi mùa Xuân ấm áp.
Tức là, những người sinh vào mùa Đông, vốn trời ban cho số vừa phải ẩn mình đợi
đến mùa Xuân, vừa phải dưỡng thần, tích luỹ nhuệ khí, có sức nhẫn nại lớn vô cùng.
Dù gặp phải bất cứ nghịch cảnh gì, bạn đều có thể điềm nhiên chấp nhận. Bạn cũng có
khả năng tự khắc phục cực kỳ siêu việt. Vì vậy, so với những người sinh vào mùa
khác, vào độ tuổi trung niên trở về trước thì bạn không bằng được họ nhưng vì nhẫn
nại và có khả năng khắc phục chính mình nên lúc về già có thể bạn sẽ thành danh,
cuộc sống dễ chịu.
Phải chăng vận số của những người sinh vào mùa Đông không tốt bằng "Sơ niên
vận", "Thanh niên vận", "Trung niên vận"? Chưa hẳn đã thế. Như trên đã nói, dù
quãng thời gian vận số cực thịnh của cuộc đời đến muộn nhưng họ vẫn có những năm
vận số tốt đến theo một chu kỳ nhất định.
Và nếu can chi của họ có vận số tốt (ví dụ như người cầm tinh con Rồng, Hổ, Rắn,
Khỉ, Lợn vốn là những con vật có vận số mạnh hơn những loài khác trong mười hai
địa chi) lại kết hợp với thời gian sinh, thậm chí với cha mẹ, bạn học có duyên số tốt
thì bạn cũng có thể có vận tốt may mắn đến.
Những người sinh vào mùa Đông đã giành được đại thắng nhờ tính nhẫn nại và
công phu chờ đợi của mình.
Dù bạn nắm bắt được vận tốt vào độ tuổi thanh niên nhưng vận số lúc ấy của bạn
vẫn chưa phải là vận số thực sự. Xét theo một khía cạnh khác, vận số đó không có tính
chắc chắn. Tức là, dù bạn có thể xuất đầu lộ diện từ lúc còn trẻ nhưng e rằng, bạn khó
có thể giữ nó lại cho đến lúc về già.
Những người sinh vào mùa Đông dường như phải đợi đến lúc về già mới nắm bắt
được hạnh phúc thực sự của mình. Vì vậy, vào độ tuổi thanh xuân, dù gặp phải nghịch
cảnh có tài mà không được trọng dụng, không nắm được vận đỏ thì bạn cũng chớ lấy

đó làm bi quan. Hãy vui vẻ thoải mái, bình tâm tĩnh trí đợi đến khi thời cơ đã chín
muồi.
Chương 7: Quan niệm của phương Đông về tính cách con người theo các tuổi
Con người không chỉ sống bằng hiện tại mà luôn khao khát vươn tới làm chủ tương
lai của chính mình. Họ muốn biết ngày mai, tháng tới, năm tới và những năm sau, khi
nào thì mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, khi nào thì lũ bão, hạn hán mất mùa; để
dự phòng và có kế hoạch giành mùa màng bội thu hơn, có kế hoạch tích trữ lương
thực, hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra v.v Với chính mình, họ cũng muốn biết
con người (Tiểu vũ trụ) được sinh ra giữa Trời và Đất (Đại vũ trụ), chịu ảnh hưởng
của vũ trụ ra sao? Con người được sinh ra vào các mùa, các năm, các thời điểm khác
nhau có gì giống và khác nhau về tướng mạo, tư chất, tính cách, trí tuệ, sức mạnh, số
phận cuộc đời? Chính vì muốn tìm hiểu con người và thiên nhiên, môi trường sống,
con người đã quan sát, khảo nghiệm, đúc kết thống kê, tính toán để tìm ra quy luật
tương tác giữa vũ trụ và con người. Từ đó, Chiêm tinh học ra đời.
Chiêm tinh học ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử văn minh
nhân loại. Thông qua đấu tranh sinh tồn, tìm hiểu nghiên cứu thế giới tự nhiên, tích
luỹ kinh nghiệm và bằng lao động sáng tạo, loài người đã dần dần hiểu được các quy
luật của tự nhiên để thích ứng và phục vụ cho cuộc sống của mình theo triết lý của
người phương Đông xưa, đó là: Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa. Ngày nay, khi môi
trường trái đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, con người càng thấy rõ tầm quan trọng của
môi trường sinh thái với sức khỏe và sự phát triển về mọi mặt của mình. Con người
hãy sống hài hoà cùng thiên nhiên, bảo vệ lấy thiên nhiên môi trường trong lành của
hành tinh chúng ta. Đó chính là mối quan tâm trong hiện tại và tương lai.
Khoa học dự báo rằng: Do nhu cầu của cuộc sống hiện đại, cùng với các ngành
khoa học khác, Thiên văn và Chiêm tinh sẽ là hai ngành khoa học được quan tâm và
phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Quá khứ luôn là cầu nối để chúng ta đi tới tương
lai, dù quá khứ còn nhiều điều chưa hoàn thiện, song đó là những tri thức, những tiền
đề để khoa học tương lai tìm hiểu, lý giải. Với suy nghĩ đó, chúng tôi mạnh dạn giới
thiệu một số quan điểm triết học cổ của Chiêm tinh phương Đông về dự báo đời người
và mười hai con giáp để bạn đọc tham khảo. Hy vọng bước sang thế kỷ XXI - kỷ

nguyên của khoa học sinh học, con người sẽ hiểu rõ hơn những bí ẩn của chính mình,
Tiểu vũ trụ trong Đại vũ trụ, phải chăng bí ẩn của Tiểu vũ trụ trong bí ẩn của Đại vũ
trụ là quan hệ biện chứng hài hòa?
Theo sách Chiêm tinh cổ của Nhật Bản và Trung Quốc, năm sinh có ảnh hưởng tới
tính cách của con người theo những dự báo sau:
Cách nhìn nhận của người Nhật xưa
Việc sử dụng mười hai con giáp làm biểu tượng cho thời gian chủ yếu gắn liền với
các dân tộc nằm trong vòng ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa, trong số này có Nhật
Bản. Người Nhật Bản sử dụng mười hai con giáp, sử dụng hệ can chi trong lịch pháp
của họ. Việc nghiên cứu hệ can chi đã giúp người Nhật xây dựng được phép đoán số
tử bình với thành tựu đáng tin cậy. Phép tính tử bình cũng dựa trên tử vi và sử dụng
nhiều đặc điểm của tử vi. Phép tính tử bình dựa vào các yếu tố năm tháng ngày giờ,
theo can chi của các yếu tố đó, từ đấy sẽ tạo ra bát tự và người Nhật xét đoán công
việc, cuộc đời dựa trên sự tính toán bát tự này theo các quy luật Âm Dương - Ngũ
Hành. Họ còn xây dựng một quan niệm cho các tuổi theo các con vật. Sau đây là quan
niệm của người Nhật về người tuổi Ngọ:
Vui tính, ba hoa, mồm mép, khá nổi tiếng và dễ được cảm tình. Giỏi đoán ý đồ của
người khác để "lựa lời mà nói". Tuổi Ngựa nhiều tài nhưng khó tính, cầu kỳ trong ăn
mặc, cầu toàn trong công việc nên họ coi tình yêu như thứ yếu. Dễ bị lừa trong yêu
đương dù rất thích độc lập sáng tạo. Họ hợp với Hổ, Chó, Dê, kỵ tuổi Chuột.
Chương 8: Quan niệm của người phương Tây về tính cách người tuổi Ngọ
Tuổi Ngọ: Ngọ tương ứng với sao Leo.
Người tuổi Ngọ vốn hay bồn chồn, cúi đầu lao mình trước gió bão và chỉ hạnh
phúc khi thấy mình có tự do. Có tính xã giao, dễ giao du với mọi người nhưng vẫn giữ
được tính độc lập, thích tìm một cuộc sống dễ chịu, có nhiều thay đổi và những
chuyến đi. Trong lao động, biết thả sức và chịu đựng gian khổ, không nề hà vượt qua
mọi khó khăn nhưng không thích sống khép mình hay bị giam hãm. Không ai đóng
cương được người tuổi Ngọ, kể cả trong tình yêu. Nhiệt tình, đam mê, sống hết mình
và dao động giữa ham muốn mê say và tính ích kỷ.
Tương hợp: Ngọ và Dần hợp nhau trong công việc kinh doanh và tình yêu, Ngọ và

Mùi gần nhau và hỗ trợ nhau, Ngọ và Dậu hiểu nhau và tạo quan hệ bền nhưng chậm
đến với nhau, Ngọ và Tuất bổ sung cho nhau.

Chương 9: Cách nhìn nhận của người Trung Quốc xưa về tuổi Ngọ - Tính
cách - Tài năng
Tính cách người sinh năm Ngọ rộng rãi, hào phóng, thường mẫn tiệp, trang điểm
hợp thời, giỏi đối đáp, ngoại giao, sức quan sát tốt; hay thay đổi, tính khí nóng nảy,
khi bị chọc tức thì lửa giận bừng bừng, song cũng hết giận rất nhanh. Người tuổi Ngọ
rất dễ rơi vào lưới tình, nhưng cũng có thể thoát ra một cách nhẹ nhàng.
Nhiều ví dụ cho thấy người tuổi Ngọ thời trẻ thường xa gia đình, dù ở nhà, tinh
thần độc lập của họ cũng luôn thúc đẩy họ bắt đầu sự nghiệp của mình từ rất sớm. Họ
có tinh lực dồi dào, song nóng nảy. Ưu điểm nổi bật của họ là rất tự tin, khi gặp buổi
tụ hội hay hoạt động nào đó, họ thường trau chuốt ngoại hình, ăn mặc vừa đặc biệt,
đẹp đẽ vừa giản dị, tiện lợi.
Người tuổi Ngọ ưa thích rèn luyện trí lực và các hoạt động thể dục thể thao. Mọi
người có thể nhận thấy ở họ một điều - cử động nhanh nhẹn, tư thế tao nhã và cách
nói năng từ tốn - do họ phản ứng rất nhanh, quyết đoán, kịp thời. Nhược điểm là thiếu
nhẫn nại, hay dao động, ngược điểm này được bù đắp bằng tính cách linh hoạt, rộng
lượng, thoáng đạt.
Ngựa thuộc vào các con giáp nằm phía Đông, đại diện cho các công tử hào hoa,
phong nhã, thích hưởng thụ và các tiểu thư yểu điệu, xinh tươi, họ ưa thích sự náo
nhiệt, đối xử với mọi người khảng khái, rộng rãi. Họ làm việc linh hoạt cũng giống
như quan điểm về tình yêu của họ vậy, hơn nữa còn rất nhạy bén, cơ động, luôn chi
phối những người xung quanh.
Nhược điểm của người tuổi Ngựa là khi gặp chuyện thì nóng nảy, cố chấp, tính khí
quá mãnh liệt, nhưng chuyện qua rồi thì quên rất nhanh. Điều này đôi khi khiến họ có
thái độ thiếu tôn trọng người khác, thậm chí gần như thô bạo. Anh ta luôn yêu cầu
người khác làm việc với tốc độ nhanh giống mình, khi không đạt được hiệu quả như
dự tính thì càu nhàu luôn miệng, tỏ vẻ không vui. Thường chần chừ do dự nên hiệu
quả thấp, đặc biệt là khi có những việc quan trọng cần giải quyết ngay. Anh ta thường

thoả mãn với thành tích nhỏ một cách ấu trĩ, rồi chìm đắm trong đó, hơn nữa còn hay
quên, làm việc lơ đãng thiếu tập trung, đôi khi sai giờ.
Người tuổi Ngọ thường thích gì làm nấy, tự cho mình là “cái rốn của vũ trụ”, thích
bạn bè người thân vây quanh phục vụ mình. Mẫu người này luôn hướng người khác
theo suy nghĩ của mình bằng những lời lẽ đầy sức thuyết phục. Khi trình bày suy nghĩ,
anh ta thường khoa chân múa tay, chưa nói hết toàn bộ những gì chất chứa trong lòng
thì chưa chịu ngừng lại.
Muốn hiểu được người tuổi Ngọ, bạn phải nắm rõ điểm này, anh ta hoặc cô ta luôn
luôn tin tưởng mục tiêu theo đuổi một cuộc sống cá nhân tự do và hạnh phúc. Nếu bạn
tán thưởng niềm tin ấy, anh ta cũng sẽ chẳng đứng về phía bạn đâu. Vì người tuổi Ngọ
chỉ tin vào hạnh phúc của bản thân. Tuy nhiên, anh không thuộc loại người tham tài,
ích kỷ, hay đố kỵ. Khi làm việc mà gặp trở ngại, anh ta chỉ biết nổi giận chứ không
biết bày mưu tính kế gian tà, thâm hiểm.
Anh ta không ích kỷ về chuyện vật chất, thực lòng quan tâm đến người khác và
hướng họ theo quan điểm của mình để có được sự đoàn kết thống nhất tập thể. Anh ta
không có thái độ cố tình đối chọi người khác, chỉ là không thể dung nạp quan điểm
nào mạnh hơn bản thân mình. Khi người khác không hòa hợp với suy nghĩ nhạy bén,
hành động linh hoạt của mình, anh ta sẽ rất thiếu kiên nhẫn.
Mẫu người này sẽ trở thành một diễn viên giỏi, nhưng không thích hợp với vai trò
thầy cô giáo.
Hiện tượng mâu thuẫn trước sau trong tính cách người tuổi Ngọ xuất phát từ tính
khí hay thay đổi. Những thay đổi tinh tế trong tình cảm của anh ta thường không được
mọi người chú ý, cũng có nghĩa là anh ta dựa vào trực giác của bản thân về sự vật để
hành sự. Nếu muốn anh ta giải thích trực giác và phân tích hành động một cách logic
thì cũng được, nhưng khi các hoạt động đang ở vào giai đoạn phát triển, khả năng
tiềm tàng của anh ta sẽ thúc đẩy hoạt động này phát triển sâu rộng hơn. Anh ta thường
xuyên ôm đồm nhiều việc cùng một lúc, hơn nữa rất biết cách khống chế cục diện. Hễ
đưa ra quyết định, anh ta sẽ chẳng chút chần chừ mà vùi đầu vào làm việc. Mọi người
nhận thấy mẫu người này, hoặc là chạy ngược chạy xuôi bận rộn công việc hoặc mệt
mỏi nằm phịch xuống, uể oải, chán nản.

Người tuổi Ngọ rất khó thích ứng với thời gian biểu do người khác đặt ra, hơn nữa
lại thiếu tính nhẫn nại tuân thủ theo đúng quy trình. Mẫu người này thích hợp làm
những công việc có tính tự do và sôi động.
Người tuổi Ngọ giỏi tháo gỡ những sự việc rắc rối như mớ bòng bòng, nên nếu bên
cạnh bạn có một người tuổi Ngọ giúp sức, bạn có thể yên tâm giao những chuyện
phức tạp, rối như tơ vò cho anh ta giải quyết. Khi được quyền tự do xử lý những việc
đó, anh ta sẽ đạt được thành tích cao, nhưng hãy nhớ luôn luôn thúc giục, đôn đúc,
bằng không anh ta sẽ lơ là, không chú tâm.
Khi nói chuyện với người tuổi Ngọ, bạn nhất định phải nói ngắn gọn, rõ ràng, nếu
không sẽ làm mất đi sự tập trung chú ý của anh ta. Bất luận có được hay không, đều
phải trực tiếp thẳng thắn bàn với anh ta, anh ta sẽ tán thưởng và đánh giá cao sự thẳng
thắn, quý trọng thời gian của bạn. Không nên áp chế quá mức tình cảm của người tuổi
Ngọ, nếu bị áp đặt về mặt tình cảm, anh ta sẽ nổi trận lôi đình, rũ áo bỏ đi ngay.
Người tuổi Ngọ không thích ở bên những ai mà anh ta ghét, vật chất lụa là cũng chẳng
thu hút nổi anh ta. Anh ta vạch rõ giới hạn, có chủ kiến tự do, rất khó phục tùng theo ý
chí của người khác. Anh ta giao tiếp rộng, nhiều bạn bè, mỗi ngày lại kết thêm bạn
mới, tuy nhiên không bao giờ dựa dẫm vào những người bạn này.
Anh ta vẫn vô cùng sôi động, kể cả khi cuộc sống đầy phiền muộn. Anh ta sẽ mang
đến ánh mặt trời cho cuộc sống ảm đạm của bạn. Khi bạn nhớ lại chuyện ngày xưa,
anh ta sẽ tức thời biến mất biệt tăm biệt tích, nhưng nếu bạn định từ bỏ việc kiếm tìm,
anh ta sẽ lại xuất hiện trước mặt bạn, phong độ tươi tỉnh như thể chưa bao giờ rời đi.
Người tuổi Ngọ khi làm việc chỉ mong mau mau chóng chóng hoàn thành nên cũng
khá thiếu tính bền lâu, càng không thể chịu đựng được những khó khăn vất vả lâu dài,
song lại có thể tùy cơ ứng biến, linh hoạt, giỏi biến hóa. Khi quay lại với mọi người,
anh ta sẽ không trực tiếp phá cửa xông vào như người tuổi Thìn, mà đưa danh thiếp
đến trước, hoặc gọi điện thoại bàn bạc, khi nào thuận tiện mới đến viếng thăm.
Suy nghĩ của anh ta rất phức tạp, rắc rối, khiến người ta không đoán nổi những gì
đang diễn ra trong đầu anh ta.
Người tuổi Ngọ giống người tuổi Thìn, muốn chỉ ra sai sót của anh ta thì quả vô
ích. Anh ta tuy không tình nguyện tiếp nhận sự phê bình song vẫn thờ ơ, nhún vai đáp:

"Là lỗi của tôi, tôi sai?" lần sau nếu bạn tiếp tục nhắc nhở lỗi lầm của anh ta, anh ta
vẫn sẽ chỉ vờ chú ý thôi.
Nữ giới sinh năm Ngọ thì sinh khí dồi dào, cử chỉ thanh nhã, trang điểm hợp thời,
hoạt bát, ngón tay nhỏ nhắn, thân hình thon thả, song có thể làm quán quân trong giới
thể thao, lái xe hoặc là một phụ nữ suốt ngày kể lể, cằn nhằn luôn miệng.
Cô có thể cùng một lúc sửa móng tay, xem tivi, chăm sóc con cái và gọi điện thoại
cho bạn bè. Cô cho rằng nghỉ ngơi là thừa, vì vậy hoạt động vui chơi giải trí của cô
đối với chúng ta quả là hình thức lao động nặng nhọc hao phí tinh lực. Nếu có ai đề
nghị đi leo núi, chỉ cần cho cô hai phút đeo ba lô, cô sẽ tiến bước trên con đường mệt
nhọc đó.
Nữ giới tuổi Ngọ thích sắp đặt mọi chuyện đâu vào đó, cô có tinh lực sung mãn, có
năng lực xuất hiện tại các chỗ khác nhau. Đôi khi, người ta bàn tán, cô cạnh tranh với
họ, bởi vì không ai trong số những người xung quanh có năng lực làm được nhiều
việc đến thế, tốc độ đến thế giống như cô.
Người tuổi Ngọ vô cùng nhạy cảm với tình yêu. Nếu rơi vào một cuộc tình say
đắm, anh ta rất dễ đánh mất mọi thứ của bản thân. Trong suốt cuộc đời, sẽ có nhiều
chuyện kết thúc không mấy vui vẻ, có lẽ anh ta sẽ phải trải qua sự đổ vỡ trong hôn
nhân.
Chương 10: Người tuổi Ngọ
Sinh năm Bính Ngọ: Người đứng can Bính tuổi Ngọ nên phải sống ở ngoài quê
quán mới tốt, long đong vất vả nhiều phen. Được Thế Chi Bồ Tát bảo hộ nên có gặp
nạn tai cũng được bình an. Bính Ngọ có sẵn tính nóng nảy, người khi giận thì như lửa
bừng bừng, khi xong lại nguội lạnh. Tuy vậy, họ quan hệ rộng nên vẫn có nhiều bạn
bè và không mấy khi nhờ vả đến ai bởi người này có lòng tự trọng, khí khái và cứng
cỏi. Họ luôn có ý thức tự lập, tự lực cánh sinh.
Tuy vậy, số người này vẫn được ông cha dành cho của cải. Về trung niên, hậu vận
họ giàu có. Nếu lấy tuổi Tuất, Dần, nên cố hòa hợp để sống. Tì Sa Bồ Tát ban phúc
nên tình duyên không xuôi thuận, nếu không thận trọng phải hai lần đò mới đặng.
Tuổi được Dược Sư Như Lai ban thọ nên tuổi Bính Ngọ rất thọ, đến tuổi già gù
lưng, lòa mắt.

Tuổi này nói chung khi trẻ tuổi long đong, về sau phú quý, sống lâu. Tính nóng như
lửa, hoạt bát phóng khoáng, vợ chồng cần dung hòa để khỏi phải chia ly. Cuộc sống
hậu vận tốt, nên làm nhiều điều thiện để hưởng trọn số trời trong phong lưu khoáng
đạt, thỏa tài chí của mình.
Sinh năm Canh Ngọ: Ngựa trong nhà (thuộc mệnh Thổ trong Ngũ hành).
Là người mau mồm mau miệng, ruột để ngoài da, lợi lộc dồi dào, nam thì nắm
quyền bính, nữ thì sang chồng lợi con, là mạng thâm tú, nho nhã, chồng con được
nhờ. Nam giới có tính cố chấp, được mọi người kính trọng.
Sinh năm Nhâm Ngọ: Ngựa trong quân (thuộc mệnh Mộc trong Ngũ hành).
Là người cần cù, thời trẻ có tài lộc nhưng không trụ, về già hưng vượng, nên tích tụ
dành dụm, phòng khi nóng lạnh thất thường. Nữ là mạng hưng gia, hiền tài đảm đang.
Sinh năm Giáp Ngọ: Ngựa trong mây (thuộc mệnh Kim trong Ngũ hành).
Là người hoà nhã, vui vẻ, thích kết giao bạn bè, gặp hung hoá cát, ít được nhờ cậy
cốt nhục anh em. Nữ là mạng mau mồm mau miệng, giỏi xã giao, có địa vị.
Sinh năm Mậu Ngọ: Ngựa trong chuồng (thuộc mệnh Hỏa trong Ngũ hành).
Là người có chí khí, bao dung độ lượng, cả đời hưởng tài lộc tự nhiên, dung mạo
đoan chính, tính cách ôn nhu, hiền lương, thuở nhỏ nhiều tai ách, cốt nhục có tình. Nữ
là mạng ít được cậy nhờ anh chị em, hậu vận hưng vượng.
Chương 11: Đường tình duyên của người tuổi Ngọ
Người tuổi Ngọ đa phần có tướng mạo đẹp đẽ, biết cách trang điểm ăn mặc, rất chú
ý đến ngoại hình của mình. Bạn thật biết cách khen ngợi người khác, nói những lời
hay ý đẹp khiến họ vui lòng, hơn nữa còn giàu lòng cảm thông, vì vậy rất được mọi
người yêu mến. Riêng về điểm này, bạn đã có những thuận lợi nhất định trong tình
yêu.
Nhưng dù có nhiều ưu điểm, bạn vẫn gặp nhiều thất bại và đau khổ. Có thể bạn vẫn
chưa tìm thấy một người yêu vừa ý, bạn suốt ngày rầu rĩ lo lắng, luôn cảm thấy, với
ưu thế, khí chất tú lệ của mình, lẽ ra bạn phải tìm được một đối tượng như mong
muốn. Bạn dành phần lớn thời gian quý báu cho những cuộc tìm kiếm vô nghĩa. Thực
ra, chuyện thế gian thường là "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện
bất tương phùng". Bạn hà tất phải sốt ruột, băn khoăn như vậy? Hoặc giả, điều kiện

hiện tại của bạn chưa thích hợp để yêu, hãy chuyên tâm học hành công tác, như vậy sẽ
tốt hơn cho bạn.
Có thể bạn đang say đắm trong tình yêu, vậy bạn quả là danh phó kỳ thực, danh
tiếng đúng với thực tế rồi. Trong tình yêu, bạn nhiệt tình nhưng thiếu nhẫn nại, đôi khi
còn không biết cách lấy lòng người yêu. Nhưng mặt khác, bạn sẽ cảm thấy giá trị bản
thân và ý nghĩa sinh tồn chính ở việc không đơn thuần chìm đắm trong tình ái yêu
đương, bạn hiểu rằng, tình yêu là nhân tố quan trọng giúp bạn thành công. Có điều,
đôi khi bạn hơi mơ hồ, mất phương hướng trong chuyện tình cảm, nếu có thể khắc
phục được khuyết điểm này, nhất định bạn sẽ có một gia đình vui vẻ, hạnh phúc.
Nữ giới tuổi Ngọ thường theo đuổi mẫu tình yêu hiện thực, bạn thường cảm thấy
trống trải, cô đơn, nếu có người xuất hiện với tư thế của một thiên thần hộ mệnh vĩ
đại, bạn sẽ chấp nhận không cần suy nghĩ, ngại ngần. Nhưng với một tình yêu mãnh
liệt, cháy bỏng, bạn sẽ tránh xa ba thước. Người bạn khác giới của bạn phải là mẫu
người thủ cựu và có tinh thần sẵn sàng hiến dâng, hy sinh bản thân mình. Mẫu đàn
ông đầy nam tính là đối tượng tuyệt vời nhất của bạn.
Nữ giới tuổi Ngọ luôn theo đuổi một cuộc sống gia đình hoàn mỹ, sự quan tâm dịu
dàng, ấm áp của bạn sẽ khiến chồng bạn cảm phục và càng yêu bạn hơn. Nhưng bạn
không yêu chồng một cách mù quáng, nếu phát hiện chồng chán và có ý định bỏ rơi

×