Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Báo cáo về Tổ CHứC Bộ MÁY KIểM TOÁN NHÀ NƯớC VIệT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.89 KB, 37 trang )

1
MỤC LỤC
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Kiểm toán Nhà nước tổ chức độc lập với cơ quan Quốc Hội và
Chính Phủ.
Sơ đồ 2: Mô tả vị trí trực thuộc cơ quan Hành pháp
Sơ đồ 3: Mô tả vị trí cua KTNN trực thuộc cơ quan Lập Pháp.
Sơ đồ 4: Vị trí của kiểm toán nhà nước trước khi có luật KTNN.
Sơ đồ 5: Vị trí của kiểm toán nhà nước sau khi có luật KTNN.
Sơ đồ 6: Sơ đồ bộ máy Kiểm toán Nhà nước sau khi có luật KTNN.

2
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
LỜI NÓI ĐẦU
Qua hơn nhiều năm hoạt động, KTNN đã khẳng định được vai trò và vị trí
như là một công cụ không thể thiếu được trong hệ thống kiểm tra kiểm soát của
Nhà nước. Kiểm toán nói chung và KTNN nói riêng đã giúp các đơn vị thấy được
những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý tài chính; trong việc thực hiện chế độ
kế toán của Nhà nước. Qua đó, KTNN giúp các đơn vị có biện pháp khắc phục
những yếu kém, sơ hở trong công tác quản lý, ngăn ngừa gian lân, tham ô, tham
nhũng, lãng phí các nguồn lực tài chính quốc gia. KTNN còn có vai trò cung cấp
cho Chính phủ, Quốc hội những thông tin, tài liệu tin cậy để làm cơ sở cho việc
phân bổ Ngân sách nhà nước, quyết toán Ngân sách Nhà nước, hoạch định chính
sách và đề ra các biện pháp nhằm tăng cường quản lý vĩ mô nền kinh tế…
KTNN ngày càng phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng kiểm toán và ngày
càng giữ vị trí quan trọng trong hệ thống các cơ quan Nhà nước. Để có được điều
đó thì tổ chức kiểm toán là yếu tố có vai trò vô cùng quan trọng, không thể thiếu
được. Bên cạnh tổ chức công tác kiểm toán thì tổ chức bộ máy kiểm toán cũng là
một trong những vấn đề cơ bản bao hàm trong khái niệm tổ chức kiểm toán.
Với địa vị pháp lý là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà


nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Luật
KTNN 2005), cơ cấu tổ chức KTNN đã được kiện toàn tương đối đồng đều. Tuy
nhiên vẫn còn tồn tại một số những hạn chế nhất định.Để tiếp tục kiện toàn và nâng
cao hiệu quả hoạt động của KTNN, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tổ chức bộ máy
KTNN để có thể phát huy những ưu điểm và khắc phục nhược điểm của bộ máy
KTNN để góp phần thúc đẩy KTNN ngày càng phát triển và giữ vai trò quan trọng
hơn. Đây cũng là lý do vì sao em chọn để tài: “Bàn về Mô hình tổ chức bộ máy
KTNN tại Việt Nam”.
Để có kết quả tìm hiểu,nghiên cứu ngày hôm nay, em xin chân thành cảm ơn
thầy Trần Mạnh Dũng – TS Khoa Kế toán trường Đại học Kinh tế quốc dân đã
giảng dạy và trang bị cho em những kiến thức cơ bản, đồng thời tận tình hướng
dẫn em trong quá trình viết đề án môn học này.
Ngoài phần lời mở đầu và phần kết luận, nội dung đề án bao gồm ba phần
sau:
- Chương I: Cơ sở lý luận về tổ chức bộ máy Kiểm toán Nhà nước
3
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
- Chương II: Tổ chức bộ máy Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam.
- Chương III: Nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy kiểm
toán Nhà nước Việt Nam
Do sự hiểu biết còn nhiều hạn chế và thời gian nghiên cứu tìm hiểu có hạn
nên bài viết của em còn nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của
thầy cô để em có thể hoàn thành bài viết và đạt kết quả tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 6 tháng 11 năm 2011
Sinh viên
Đinh Công Tỉnh
4
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY KIỂM TOÁN

NHÀ NƯỚC.
I. Mô hình tổ chức kiểm toán nhà nước.
1. Khái niệm về tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nước.
a. Khái niệm về tổ chức:
Xã hội loài người chính là xã hội của các tổ chức, sự tồn tại của các tổ
chức là đặc điểm nổi bật nhất của lịch sử trong tiến trình phát triển loài người.
Tổ chức nói chung là mối liên hệ giữa các yếu tố trong một hệ thống. Mức liên
hệ này được xác định qua biên độ giao động từ 0 đến 1. Ở mức độ 0, các yếu tố
trong hệ thống không tồn tại bất kì mối liên hệ nào. Khi đó hệ thống rơi vào
tình trạng tan rã hay vô tổ chức. Ở mức độ 1, các yếu tố quan hệ rất chặt chẽ,
khoa học và hệ thống hoạt động ở mức tối ưu.
b. Khái niệm về tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nước:
- Kiểm toán nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn của Nhà nước thực hiện
các chức năng kiểm toán tài sản công.
- Bộ máy kiểm toán gồm cả con người và phương tiện chứa đựng các yếu tố
của kiểm toán để thực hiện chức năng của kiểm toán. Tổ chức bộ máy kiểm
toán với những mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động linh hoạt nhằm thích ứng
với đặc điểm của đối tượng và khách thể kiểm toán trong các cuộc kiểm toán
cụ thể và hướng tới việc thực hiện các chức năng của kiểm toán.
2. Ý nghĩa,vai trò của tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nước.
Tổ chức bộ máy kiểm toán với những mô hình tổ chức và cơ chế hoạt
động linh hoạt nhằm thích ứng với đặc điểm của đối tượng và khách thể kiểm
toán trong các cuộc kiểm toán cụ thể và hướng tới việc thực hiện các chức
năng của kiểm toán.
Theo điều 14 luật kiểm toán nhà nước : “ Kiểm toán nhà nước có chức
năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động với
các cơ quan tổ chức quản lý sử dụng ngân sách tiền và tài sản của nhà nước.
5
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Khi đã khẳng định các yếu tố cấu thành hệ thống phương pháp kiểm toán

bao gồm cả kiểm toán chứng từ (kiểm toán cân đối, đối chiếu logic, đối chiếu
trực tiếp), và kiểm toán ngoài chứng từ (điều tra, thực nghiệm, kiểm kê), những
yếu tố này phải trở thành nhận thức và cả kinh nghiệm trong con người và trở
thành cơ chế hoạt động (kể cả phần cứng và phần mềm) các phương tiện cấu
thành bộ máy kiểm toán.
Lý thuyết hệ thống cũng chỉ rõ mối liên hệ lôgic giữa yếu tố phân hệ và hệ
thống. Đó là mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung và chúng có thể chuyển
hóa cho nhau song sự bao gồm của cái riêng trong cái chung vẫn phải được tôn
trọng trong tổ chức bộ máy kiểm toán nói riêng cũng như trong mọi hệ thống tổ
chức nói chung. Ngoài ra theo nguyên lý chung của tổ chức bộ máy, bộ máy
kiểm toán cũng có thể được tổ chức theo phương pháp trực tuyến – tham mưu
hoặc phương thức chức năng và có thể chọn loại hình tập trung hay phân tán
tùy theo quy mô và địa bàn hoạt động, tùy khả năng và phương tiện điều
hành…
Do có sự khác nhau về các điều kiện trên và do trình độ nhận thức và kinh
nghiệm kiểm toán cùng mức trang bị các phương tiện kiểm toán ở mỗi nơi, mỗi
lúc khác nhau nên bộ máy kiểm toán không thể tổ chức theo một khuôn mẫu
máy móc. Hơn nữa, khi đã nói tới yếu tố con người là nói tới các quan hệ xã
hội, đến truyền thống văn hóa cụ thể. Do đó, tổ chức bộ máy KTNN không chỉ
mang tính khoa học mà còn mang cả tính nghệ thuật nữa. Trong trường hợp
này tính khoa học cảu tổ chức bộ máy đòi hỏi phải tạo ra những mối liên hệ
giữa các yếu tố, các phân hệ với hệ thống; giữa bản thân hệ thống kiểm toán
với các yếu tố khác và cả với môi trường hoạt động của hệ thống này. Trong
khi đó, tính nghệ thuật của tổ chức đòi hỏi phải xử lý các mối liên hệ này thật
mềm dẻo để duy trì được biên độ tổ chức cao nhất, thích ứng với từng điều
kiện cụ thể về nhân viên, thiết bị và môi trường thực hiện…
3. Nguyên tắc hoạt động của tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nước.
Bất kỳ một bộ máy nào cũng cần phải được tổ chức theo những nguyên
tắc nhất định. Những nguyên tắc này tùy thuộc vào đặc điểm, bản chất của từng
bộ máy. Bộ máy kiểm toán cũng là một bộ máy nên nó cũng phải tuân theo

6
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
những nguyên tắc nhất định phù hợp với đặc điểm, bản chất của ngành kiểm
toán.
Từ bản chất của tổ chức, tổ chức bộ máy kiểm toán, có thể nhận thấy các
nguyên tắc cơ bản của tổ chức bộ máy kiểm toán sau:
Thứ nhất: Phải xây dựng đội ngũ kiểm toán viên đủ về số lượng và bảo
đảm yêu cầu chất lượng phù hợp với từng bộ máy kiểm toán
Nguyên tắc này cho ta thấy kiểm toán viên là yếu tố cơ bản cấu thành nên
bộ máy kiểm toán. Sự tồn tại cũng như chất lượng hoạt động của bộ máy kiểm
toán được quyết định trướng hết bởi số lượng và chất lượng đội ngũ kiểm toán
viên. Đó cũng là nguyên lý cho việc tổ chức mọi hệ thống bộ máy. Hơn nữa,
hoạt động kiểm toán lại có chức năng đặc biệt nên càng đòi hỏi cao với những
kiểm toán viên cả về chuyên môn lẫn phẩm hạnh đạo đức. Vì vậy, bất cứ ở đâu,
cho dù trong phạm vi quốc gia hay quốc tế, và bất cứ lúc nào – chi dù khi mới
xây dựng hay trong bước đường phát triển – các tổ chức kiểm toán đều coi
trọng việc xây dựng đội ngũ kiểm toán viên.
Mặt khác, kiểm toán lại bao gồm nhiều loại hình với những bộ máy tổ
chức cụ thể cũng có những điểm khác nhau về nội dung và phương pháp kiểm
toán cụ thể và từ đó cả về tổ chức kiểm toán. Vì vậy, xây dựng đội ngũ kiểm
toán viên cũng đòi hỏi những yêu cầu cụ thể riêng biệt thích ứng với từng loại
hình, từng bộ máy kiểm toán.
Tất nhiên, gắn với đội ngũ kiểm toán viên là trang thiết bị cụ thể cho kiểm
toán:: đó là những máy móc, thiết bị, phương tiện thích ứng với kỹ thuật kiểm
toán (cả phần cứng và phần mềm nếu có) và hình thành cơ chế hoạt đôngh
thống nhất đang thực hiện chức năng kiểm toán.
Thứ hai: Hệ thống bộ máy kiểm toán phải bao gồm các phân hệ chứa
đựng các mối liên hệ trong- ngoài khác nhau phù hợp với nguyên tắc chung
của lý thuyết tổ chức và phù hợp với quy luật của phép biện chứng về liên hệ
Thật vậy, mục tiểu của tổ chức là tạo ra mối liên hệ theo một trật tự xác

định. Trong kiểm toán, trật tự này được xác định khác nhau do quan hệ giữa
các mục tiêu kiểm toán khác nhau với các khách thể kiểm toán khác nhau. Mỗi
khách thể, mỗi chủ thể này lại có nhiều mối liên hệ khác ngoài kiểm toán.
Trong việc xử lý hàng loạt mối liên hệ phức tạp này cần phải có phương pháp
luận biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng, giữa cái chung và cái riêng, giữa
cái mới và cái cũ.
7
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Thứ ba: Tổ chức bộ máy kiểm toán phải quán triệt nguyên tắc chung của
mọi hệ thống tổ chức bộ máy: tập trung, dân chủ thích ứng với từng bộ phận
kiểm toán.
Nguyên tắc tập trung – dân chủ do Lênin để xướng trong việc xây dựng
Đảng Cộng sản và được phát triển ứng dụng trong mối quan hệ giữa các khách
thể - chủ thể - môi trường kiểm toán. Ở từng phân hệ kiểm toán trong từng thời
kỳ phát triển mối liên hệ chủ thể - khách thể có những điểm khác nhau song
đều được tổ chức và hoạt động trong mỗi Nhà nước cụ thể với một nguyên tắc
tổ chức cụ thể: Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
II. Các mô hình của bộ máy kiểm toán nhà nước.
Cơ quan kiểm toán nhà nước ở mỗi quốc gia có những tên gọi khác nhau.
Ví dụ : Cơ quan Tổng kế toán Hoa Kỳ, Cục kiểm toán Liên Bang Nga, Tòa
Thẩm kế Cộng hòa Pháp, Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra Hàn Quốc, Ủy ban
kiểm toán và kiểm soát Ấn Độ, Ủy ban kiểm toán Nhật Bản…. Và kiểm toán
nhà nước ở mỗi quốc gia cũng hình thành những mô hình tổ chức khác nhau
phụ thuộc vào tổ chức bộ máy của mỗi quốc gia.
1.Xét trong mối quan hệ với bộ máy nhà nước:
a.Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nước độc lập với cơ quan hành
pháp và lập pháp.

8
Ban hành luật

: Liên hệ trong tổ chức
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Sơ đồ 1: Kiểm toán Nhà nước tổ chức độc lập với cơ quan Quốc Hội và
Chính Phủ.

Ghi chú:
9
BỘ MÁY NHÀ
NƯỚC
KIỂM TOÁN
NHÀ NƯỚC
QUỐC
HỘI
CHÍNH
PHỦ
TÒA ÁN
CÁC BAN CỦA
QUÔC HỘI
CÁC BỘ CỦA
CHÍNH PHỦ
Duyệt ngân sách
giám sát
Bổ nhiệm
: Quan hệ chi đạo
: Quan hệ đặt hàng kiểm toán
: Quan hệ kiểm toán
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Khi cơ quan KTNN được đặt trong vị trí độc lập với cả cơ quan Lập pháp
và cơ quan Hành pháp, cơ quan KTNN sẽ có tính độc lập rất cao, điều này
càng đúng khi nó có quyết định và phán quyết mang tính độc lập. Bởi vì cơ

quan kiểm toán độc lập với cơ quan Lập pháp và cơ quan Hành pháp nên nó có
nhiệm vụ là hỗ trợ cho cả hai cơ quan này. Đồng thời những đề nghị kiểm toán
của Quốc hội hay của Chính phủ chỉ mang tính chất gợi ý chứ không phải là
những chỉ thị hay mệnh lệnh. Mô hình này được ứng dụng ở hầu hết các nước
có nền kiểm toán phát triển, có nhà nước pháp quyền được xây dựng có nền
nếp…Ví dụ như KTNN Cộng hòa Liên bang Đức, Tòa thẩm kế của Cộng hòa
Pháp, Phi-lip-pin, Inđônêsia, Hy Lạp, Thụy Sỹ, Bồ Đào Nha, Italia…
Cơ quan KTNN tổ chức theo mô hình này có một số ưu điểm sau:
Thứ nhất: Cơ quan KTNN không chịu sự chỉ đạo của Chính phủ hay sự
chi phối của Quốc hội. Không có các tác nhân làm ảnh hưởng đến việc lựa
chọn đối tượng kiểm toán hay các áp lực đối với hoạt động đòi hỏi sự độc lập
và khách quan trong các đánh giá và kết luận.
Thứ hai: Chức năng của KTNN là xác định một cách độc lập và trung
thực, khách quan các thông tin về quản lý tài chính và tài sản Nhà nước đối với
các hoạt động quản lý và điều hành nền kinh tế của Chính phủ. Do đó theo mô
hình này, KTNN là công cụ đắc lực cho cả cơ quan Lập pháp trong việc thực
hiện quyển giám sát của mình và cho cả cơ quan Hành pháp trong việc quản lý
và điều hành nền kinh tế.
Thứ ba: KTNN hoạt động chỉ tuân theo pháp luật, các đánh giá và kết
luận đưa ra mang tính cung cấp thông tin một cách trung thực va khách quan
theo quy định của pháp luật, việc sử dụng thông tin sẽ do các cơ quan sử dụng
thông tin ra quyết định. Ngoài ra, KTNN còn có chức năng tư vấn rất quan
trọng về các vấn đề kinh tế, tài chính, góp phần nâng cao việc chấp hành và
hoàn thiện pháp luật về kinh tế, tài chính.
10
: Quan hệ chỉ đạo
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Tuy mô hình tổ chức này có rất nhiều ưu điểm, nhưng không phải quốc
gia nào cũng có thế tổ chức theo mô hình này bởi mô hình này vẫn tồn tại một
số hạn chế sau:

Thứ nhất: Để một quốc gia có thể tổ chức theo mô hình này thì đòi hỏi
môi trường pháp lý cho hoạt động quản lý kinh tế và tài chính phải được minh
bạch và đầy đủ các quy định làm hành lang pháp lý cho các hoạt động của
Chính phủ.
Thứ hai: Mô hình này đòi hỏi khả năng về trình độ của các Kiểm toán
viên mang tính chuyên môn rất cao mới có thể đáp ứng được yêu cầu. Bởi vì
quyền cao nhất của KTNN là quyền kiến nghị, để kiến nghị được thì các KTV
cần phải có trình độ và rất khách quan trong việc đánh giá và kết luận trong
báo cáo kiểm toán.
b. Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nước trực thuộc cơ quan hành
pháp.
Sơ đồ 2: Mô tả vị trí trực thuộc cơ quan Hành pháp.
Ghi chú:
11
Quốc
hội
Chính
Phủ
Kiểm toán nhà
nước
: Quan hệ phối hợp
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Trong trường hợp cơ quan KTNN được đặt trong hệ thống hành pháp, về
mặt tổ chức đã thấy rõ sự độc lập không rõ ràng giữa cơ quan KTNN với các
đơn vị kiểm toán. Do đó, để hoạt động có hiệu quả thì cần phải phân định ranh
giới giữa trách nhiệm về quản lý hành chính với trách nhiệm về kiểm tra tài
chính.
Ưu điểm
* Chính phủ sử dụng công cụ kiểm toán nhằm kiểm tra, kiểm soát các
hoạt động kinh tế, tài chính đối với các cơ quan của Chính phủ, do đó có sự

chủ động trong việc triển khai công việc theo yêu cầu của người đứng đầu
Chính phủ.
* Hiệu lực của các kết luận, kiến nghị nhanh chóng được triển khai do
những phát hiện, kiến nghị của KTNN sẽ được trình lên Chính phủ để chỉ đạo
nhanh chóng theo quyết định của người đứng đầu Chính phủ để kịp thời khắc
phục những sai sót trong điều hành hệ thống các cơ quan Hành pháp.
* Do KTNN nằm trong cùng hệ thống cơ quan hành pháp nên có điều
kiện thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin, số liệu của các cơ quan hành chính
Nhà nước các cấp. Các kết luận và kiến nghị của KTNN có được các thông tin
tin cậy và phù hợp.
Nhược điểm
* Theo mô hình tổ chức này thì bản chất của KTNN là kiểm toán nội bộ
của Chính phủ, do đó việc KTNN đánh giá hoạt động của Chính phủ có thể sẽ
thiếu khách quan do bị Chính phủ chi phối trong hoạt động và bị sự nể nang
nhất định trong đánh giá và kết luận.
* Không được coi là cơ quan kiểm toán tài chính Nhà nước cao nhất quốc
gia (vì trực thuộc Chính phủ- không phải là cơ quan quyền lực cao nhất).
* Việc phân định ranh giới giữa hành vi quản lý và trách nhiệm kiểm tra,
giữa kiểm tra nội bộ và kiểm tra từ bên ngoài sẽ rất khó khăn.
c.Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toàn nhà nước trực thuộc lập pháp.
Sơ đồ 3: Mô tả vị trí cua KTNN trực thuộc cơ quan Lập Pháp.
12
: Quan hệ chỉ đạo.
: Quan hệ phối hợp.
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Ghi chú:
Ưu điểm
* Cơ quan KTNN được thiết lập trên nguyên tắc độc lập với cơ quan
Hành pháp, đồng thời hoạt động của KTNN gắn liền với hoạt động giám sát
của Quốc hội và chỉ tuân theo pháp luật, do đó, đánh giá, kết luận về quản lý và

điều hành ngân sách của Chính phủ mang tính độc lập khách quan hơn.
* Quyền hạn của cơ quan kiểm toán Nhà nước gắn liền với quyền của
Quốc hội.
* Theo mô hình tổ chức này, bản chất của KTNN là hoạt động ngoại
kiểm, cung cấp thông tin cho Quốc hội, công bố công khai cho dân chúng, đảm
bảo tính minh bạch hơn.
13
Quốc
Hội
Chính
phủ
Kiểm toán
nhà nước
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Nhược điểm
* Kiểm toán Nhà nước chủ yếu là kiểm toán các báo cáo tài chính, chủ
yếu thực hiện phương thức kiểm tra sau, việc phát hiện sai phạm không mang
tính kịp thời, hạn chế tính phòng ngừa trong các hoạt động kinh tế- tài chính.
* Kiến nghị của cơ quan kiểm toán Nhà nước đối với Chính phủ chậm
được thực hiện.
d.Một số loại mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nước khác.
Ngoài ba mô hình phổ biến trên, tổ chức bộ máy KTNN còn có một loại
khác, đó là Cơ quan kiểm toán Nhà nước trực thuộc Tổng thống hoặc cơ quan
kiểm toán Nhà nước có mang một ít quyền lực của cơ quan tư pháp xét xử về
các sai phạm trong lĩnh vực tài chính. Trong trường hợp KTNN trực thuộc
Tổng thống, KTNN có những quyền riêng và bị ảnh hưởng nhất định bởi cá
nhân Tổng thống mà không bị ảnh hưởng bởi các cơ quan Lập pháp hay Hành
pháp.
2.Xét trong mối quan hệ nội bộ.
Xét trong mối liên hệ nội bộ, cơ quan KTNN lại có thể liên hệ theo chiều

dọc (liên hệ dọc) và theo chiều ngang (liên hệ ngang).
a. Liên hệ theo chiều dọc:
Liên hệ dọc của tổ chức kiểm toán Nhà nước có thể khái quát trong hai
mô hình chủ yếu:
Mô hình I: Cơ quan kiểm toán Nhà nước trung ương (Quốc gia) có mạng
lưới ở tất cả các địa phương.
* Ưu điểm: Thích hợp với các nước có quy mô lớn, các địa phương phân
bố rộng và phân tán, khối lượng tài sản công ở mỗi địa phương lớn và quan hệ
phức tạp…
* Nhược điểm: Mỗi địa phương phải có khối lượng công sản, tài sản
tương đối đồng đều và đòi hỏi phải có tổ chức kiểm toán nhà nước ngay tại địa
phương.
Mô hình II: Cơ quan kiểm toán Nhà nước trung ương (Quốc gia) có mạng
lưới kiểm toán ở từng khu vực. Những khu vực này trước hết có khối lượng tài
sản công đủ lớn và thường ở xa trung tâm nên đòi hỏi có tổ chức KTNN tại
14
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
thực địa để thực hiện chức năng của KTNN. Ưu điểm của mô hình này là thích
ứng với những nước có quy mô nhỏ song địa bàn tương đối phân tán.
b. Liên hệ theo chiều ngang:
- Khái niệm: Liên hệ ngang là mối liên hệ nội bộ trong cơ quan kiểm toán
cùng cấp (trung ương hay khu vực hoặc địa phương).
- Phân loại: Liên hệ ngang có 2 loại: liên hệ theo kiểu trực tuyến hoặc
chức năng
Liên hệ trực tuyến: Trong mối liên hệ này, Tổng kiểm toán trưởng (hoặc
phó Tổng kiểm toán được ủy nhiệm) trực tiếp chỉ huy các loại hoạt động của
KTNN. Liên hệ trực tuyến có một số ưu điểm sau:
* Bảo đảm lệnh của Tổng kiểm toán trưởng được chuyển trưc tiếp đến các
kiểm toán viên.
* Bảo đảm điều hành nhanh, nhạy và thông tin ngược xuôi kịp thời.

* Nâng cao trách nhiệm cá nhân, tránh tình trạng người thừa hành phải thi hành
những chỉ thị khác nhau.
Tuy nhiên liên hệ theo kiểu này vẫn tồn tại một số nhược điểm là: nó chỉ
thích hợp trong điều kiện quy mô kiểm toán và số lượng nhân viên không quá
lớn. Khi quy mô kiểm toán lớn hoặc số lượng kiểm toán viên quá lớn sẽ khó tổ
chức theo kiểu này.
Liên hệ chức năng: Trong mối liên hệ này, quyền điều hành công việc
được phân thành nhiều khối, mỗi khối lại chia thành nhiều cấp khác nhau.Ưu
điểm của liên hệ theo chức năng là: Giảm bớt gánh nặng cho người chỉ huy,
thích hợp với bộ máy kiểm toán có quy mô lớn. Tuy nhiên nó lại dễ sinh ra tình
trạng thiếu trách nhiệm rõ ràng.
3. Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nước của các nước trên thế giới.
Trong 178 thành viên chính thức của tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán
tối cao (INTOSAI), mô hình các cơ quan kiểm toán không giống nhau. Một số
Kiểm toán nhà nước trực thuộc Chính phủ, một số trực thuộc Quốc hội, số còn
lại trực thuộc nhà vua, tổng thống hoặc độc lập hoàn toàn với chính phủ và
quốc hội. Trên đây là 1 số bộ máy kiểm toán quốc gia tối cao:
a. Kiểm toán Nhà nước cộng hòa liên bang Đức.
15
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Trong luật về CQKT Liên bang Đức quy định: Cơ quan Kiểm toán Liên
bang là cơ quan có thẩm quyền tối cao của Liên bang với tư cách là một thể
chế độc lập về kiểm tra tài chính, CQKT Liên bang chỉ tuân thủ pháp luật. Địa
vị của KTNN Liên bang và các ủy viên cũng như những nhiệm vụ cơ bản được
đảm bảo bằng Hiến pháp (Điều 114 Khoản 2 đạo luật cơ bản – Hiến pháp).
Trong phạm vi chức năng do luật pháp quy định, CQKT Liên bang sẽ giúp
Nghị viện trong quá trình đưa ra các quyết định. Như vậy, KTNN Liên bang
không phải là một cơ quan của Chính phủ hay của Quốc hội và cũng không
phải là một cơ quan tư pháp. Do đó, KTNN Liên bang đảm bảo tính độc lập,
khách quan trong hoạt động kiểm tra tài chính nói chung và Ngân sách nói

riêng.
Theo điều 2 Luật về CQKT Liên bang ngày 11/07/1985: Cơ quan Kiểm
toán Liên bang gồm có các CQKT khu vực và các bộ phận kiểm toán. Có thể
thành lập các nhóm kiểm toán để thực hiện các chức năng đặc thù. Cần hình
thành bộ phận kiểm toán nói riêng tại Phủ Tổng thống chịu trách nhiệm về các
dịch vụ văn phòng. Tại các Bang thành lập CQKT riêng theo từng Luật Liên
bang
Bộ máy KTNN Liên bang Đức bao gồm:
- 9 Vụ kiểm toán,mỗi Vụ có 6 Phòng kiểm toán,bao gồm khoảng 600 kiểm
toán viên.
- 9 KTNN Khu vực gồm 500 Kiểm toán viên.
- Khoảng 1.500 kiểm toán viên trong các cơ quan của Liên bang.
- Kế hoạch ngân sách KTNN Liên bang được 78 triệu DM.
- Kế hoạch ngân sách KTNN Khu vực được 92 triệu DM.
Những quyết định của KTNN Liên bang được biểu quyết tập thể. Trong
trường hợp bình thường thì 2 thành viên hữu trách ra quyết định (Vụ trưởng và
Trưởng Phòng Kiểm toán). Trong một số trường hợp nhất định thì Chủ tịch
hoặc Phó Chủ tịch sẽ tham gia vào Hội đồng (Hội đồng 3 thành viên). Những
quyết định trong Hội đồng 2 hoặc 3 thành viên chỉ có thể thông qua với sự nhất
trí của tất cả các thành viên. Đại hội đồng của KTNN Liên bang chỉ quyết nghị
về những vấn đề vợt ra ngoài khuôn khổ 1 Vụ hoặc đặc biệt quan trọng.
b. Kiểm toán nhà nước Liên bang Nga.
16
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Kiểm toán nhà nước liên bang Nga (KTNNLB) là cơ quan cao nhất hoạt động
thường xuyên của hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nước, được lập ra bởi Hội
nghị Liên bang và trực thuộc Hội nghị. KTNN Liên bang Nga trong hoạt động
của mình tuân thủ theo Hiến pháp Liên bang, Đạo luật KTNN và các Đạo luật
khác của Liên bang Nga. Trong khuôn khổ các nhiệm vụ do luật định,
KTNNLB Nga độc lập về tổ chức và chức năng. KTNNLB Nga là một pháp

nhân, có con dấu khắc hình Quốc huy Liên bang.
Tổ chức bộ máy: KTNNLB bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Kiểm toán trưởng
và bộ máy giúp việc của KTNN Liên bang.
Chủ tịch KTNNLB do Viện Duma quốc gia bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 6 năm.
Nghị quyết về việc bổ nhiệm Chủ tịch KTNNLB được Viện Duma quốc gia
thông qua với đa số phiếu cuả tất cả đại biểu Viện Duma quốc gia. Mọi công
dân Liên bang Nga đã tốt nghiệp Đại học tổng hợp, có kinh nghiệm trong lĩnh
vực hành chính Nhà nước, kiểm tra Nhà nước, kinh tế và tài chính đều có thể
được bổ nhiệm làm Chủ tịch KTNNLB.
Chủ tịch KTNNLB không được có quan hệ họ hàng với Tổng thống Liên bang
Nga, Chủ tịch Hội đồng Liên bang, Chủ tịch Viện Duma quốc gia, Chủ tịch
Chính phủ Liên bang, Thủ trưởng Phủ Tổng thống Liên bang, Chánh Toà án
tối cao Liên bang và Chủ tịch Hội đồng trọng tài tối cao Liên bang.
Chủ tịch KTNNLB có quyền tham dự các phiên họp của Hội đồng Liên bang,
Viện Duma quốc gia, các Uỷ ban và tiểu ban của Nghị viện, các phiên họp của
Chính phủ Liên bang và của Đoàn Chủ tịch Chính phủ Liên bang.
Chủ tịch KTNNLB không được phép là Đại biểu của Viện Duma quốc gia, là
thành viên của Chính phủ Liên bang, không được làm bất kỳ công việc nào có
tính chất sinh lợi, trừ công tác giảng dạy khoa học nghệ thuật
Phó Chủ tịch KTNNLB do Hội đồng Liên bang bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 6
năm. Nghị quyết bổ nhiệm Phó Chủ tịch KTNNLB được thông qua bởi đa số
tất cả các đại biểu Hội đồng Liên bang.
c. Kiểm toán nhà nươc Nhật Bản.
Tổ chức bộ máy cơ quan KTNN Nhật Bản:
* Uỷ ban Kiểm toán Nhật bản là một cơ quan độc lập dưới quyền của Nhà vua
trong việc kiểm toán ài chính công.
* Uỷ ban Kiểm toán Nhật Bản gồm có 2 cơ quan là: Hội đồng kiểm toán (The
Audit Commission) và Cơ quan chấp hành (The Executive Bureau). Hội đồng
17
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng

kiểm toán là cơ quan ra các quyết định. Hội đồng kiểm toán quyết định tất cả
các vấn đề quan trọng đồng thời kiểm tra trực tiếp các hoạt động do cơ quan
Chấp hành thực hiện. Cơ quan Chấp hành gồm một Tổng Thư ký và 5 Vụ (gồm
35 phòng kiểm toán) thực hiện công tác kiểm toán và công việc quản lý.
* Uỷ ban Kiểm toán Nhật Bản có 1.294 cán bộ chính thức, trong đó có khoảng
850 kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán viên.
18
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC BỘ MÁY KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT
NAM.
I. Quá trình hình thành và phát triển của tổ chức bộ máy kiểm toán nhà
nước Việt Nam.
1.Giai đoạn 1994-2005: Trực thuộc cơ quan hành pháp.
KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra tài chính
nhà nước. Cơ quan kiểm toán Nhà nước được thành lập theo Nghị định số
70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ. Với chức năng kiểm tra, xác nhận tính
đúng đắn, trung thực,hợp pháp của tài liệu, số liệu kế toán. Báo cáo quyết toán
của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội có sử dụng
kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp.
Thực hiện chương trình cải cách hành chính Nhà nước, sau một thời gian
hoạt động, do yêu cầu cần đẩy mạnh công tác kiểm toán cho phù hợp với tình
hình mới, Chính phủ ban hành Nghị định số 93/2003/NĐ- CP ngày 13/08/2003
xác định KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng kiểm toán, xác nhận
tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo Ngân sách Nhà nước các cấp và báo cáo
tổng quyết toán Ngân sách Nhà nước; báo cao quyết toán, bóa cáo tài chính của
các cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng Ngân sách Nhà nước; kiểm toán tính
tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong việc quản lý, sử dụng Ngân sách Nhà
nước và tài sản Nhà nước theo kế hoạch kiểm toán hàng năm được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt và các nhiệm vụ đột xuất do Thủ tướng Chính phủ giao
hoặc cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.

Đứng đầu KTNN là Tổng KTNN, giúp việc cho Tổng KTNN là Phó Tổng
KTNN. Tổng kiểm toán, các Phó Tổng kiểm toán do Thủ tướng Chính phủ bổ
nhiệm và miễn nhiệm; Tổng KTNN chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính
phủ toàn bộ công tác KTNN, các Phó Tổng KTNN chịu trách nhiệm trước
Tổng KTNN về nhiệm vụ được phân công.
Khi cần thiết, Kiểm toán nhà nước được thành lập hội đồng kiểm toán để
thẩm định báo cáo kiểm toán. Hội đồng thẩm định do Tổng kiểm toán nhà
nước quyết định thành lập và qui định quy chế làm việc. Kiểm toán nhà nước
có con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do Ngân sách nhà nước cấp
hàng năm theo chu trình giống như cơ quan hành chính sự nghiệp khác thuộc
Chính phủ.
19
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Sơ đồ 4: Vị trí của kiểm toán nhà nước trước khi có luật KTNN.
Tổ chức và hoạt động của kiểm toán Nhà nước được quy định trong quyết
định 61/TTG ngày 24/1/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành điều
lệ tổ chức và hoạt động của kiểm toán Nhà nước.
2.Giai đoạn 2005 đến nay: Trực thuộc cơ quan lập pháp.
Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật KTNN ngày
14/06/2005, Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 24/06/2005 và có hiệu lực từ
ngày 01/01/2006 quy định về vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của KTNN, trong điều 13 quy định KTNN
là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội
thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Như vậy về mặt tổ
chức KTNN không phụ thuộc Chính phủ.
KTNN có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ,
kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền
và tài sản nhà nước.
20
QUỐC HỘI

TÒA
ÁN
NHÂN
DÂN
TỐI
CAO
VIỆN
KIỂM
SÁT
NHÂN
DÂN
TỐI
CAO
CHÍNH PHỦ
- Các bộ
- Cơ quan ngang bộ
- Các cơ quan thuộc chính phủ
+ Kiểm toán nhà nước
+ Các cơ quan khác
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Tổng KTN là người đứng đầu KTNN, chịu trách nhiệm toàn bộ về tổ chức
và hoạt động của KTNN, tính độc lập của Tổng KTNN được đảm bảo thông
qua quy trình bổ nhiệm và miễn nhiệm được quy định tại khoản 2 điều 17 của
Luật KTNN: “Tổng KTNN do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo để
nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sau khi trao đổi thống nhất với Thủ
tường Chính phủ”, Tổng KTNN có nhiệm kỳ dài tới 7 năm.
Luật KTNN là một trong số rất ít các luật trong hệ thống luật của Việt
Nam có chương quy định riêng về đảm bảo hoạt động, đó là bảo đảm về nhân
lực, vật lực cho hoạt động của cơ quan KTNN, đặc biệt hơn là sự đảm bảo về
tài sản chính, là cơ sở cho sự độc lập khách quan trong hoạt động của cơ quan

KTNN. “KTNN có kinh phí hoạt động riêng, là đơn vị dự toán cấp 1 của ngân
sách trung ương. Kinh phí hoạt động của KTNN do KTNN lập dự toán và đề
nghị Chính phủ trình Quốc hội quyết định”
Về giá trị của báo cáo kiểm toán- Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà
nước xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính, báo cáo quyết
toán ngân sách; đánh giá tính tuân thủ pháp luật , tính kinh tế hiệu lực và hiệu
quả trong quản lý ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Báo cáo kiểm toán là căn
cứ quan trọng để Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ
quan khác của Nhà nước sử dụng trong quá trình thực hiện chức năng của
mình; đối tượng kiểm toán phải thực hiện các kết luận kiến nghị của KTNN về
các sai phạm đã được chỉ ra trong báo cáo kiểm toán.
21
TÒA
ÁN
NHÂN
DÂN
TỐI
CAO
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Sơ đồ 5: Vị trí của kiểm toán nhà nước sau khi có luật KTNN.
II. Tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nước Việt Nam.
1.Kiểm toán viên kiểm toán nhà nước Việt Nam
a.Khái niệm:
Theo điều 27 luật KTNN : “ Kiểm toán viên nhà nước là công chức nhà nước
được bổ nghiệm vào ngạch kiểm toán để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán.’’
Chức danh kiểm toán viên nhà nước bao gồm các ngạch sau đây:
- Kiểm toán viên dự bị.
- Kiểm toán viên.
- Kiểm toán viên chính.
- Kiểm toán viên cao cấp.

22
QUỐC HỘI
- Các bộ
- Cơ quan ngang bộ
- Các cơ quan thuộc chính phủ
CHÍNH PHỦ
VIỆN
KIỂM
SÁT
NHÂN
DÂN
TỐI
CAO
KIỂM
TOÁN
NHÀ
NƯỚC
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
b.Các tiêu chuẩn của kiểm toán viên nhà nước Việt Nam.
Theo điều 29 luật KTNN thì kiểm toán viên nhà nước Việt Nam phải có
đủ tiêu chuẩn của cán bộ, công chức theo qui định của pháp luật về cán bộ,
công chức và các tiêu chuẩn sau đây:
- Có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết trung thực khách
quan.
- Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thuộc một trong các chuyên ngành kiểm
toán, kế toán, tài chính, ngân hàng, kinh tế, luật hoặc chuyên ngành khác có
liên quan trực tiếp đến hoạt động kiểm toán.
- Đã có thời gian làm việc liên tục từ năm năm trở lên theo chuyên ngành được
đào tạo hoặc có thời gian làm nghiệp vụ kiểm toán ở Kiểm toán Nhà nước từ
ba năm trở lên;

- Đã tốt nghiệp chương trình bồi dưỡng Kiểm toán viên nhà nước và được
Tổng Kiểm toán Nhà nước cấp chứng chỉ.
c.Trách nhiệm và nghĩa vụ của kiểm toán viên nhà nước Việt Nam.
Theo điều 30 luật KTNN thì kiểm toán viên nhà nước Việt Nam có trách
nhiệm như sau:
- Thực hiện nhiệm vụ kiểm toán và chịu trách nhiệm trước Tổ trưởng Tổ kiểm
toán, Trưởng Đoàn kiểm toán về việc thực hiện nhiệm vụ kiểm toán được phân
công; đưa ra ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị về những nội
dung đã kiểm toán trên cơ sở thu thập đầy đủ và đánh giá các bằng chứng kiểm
toán thích hợp.
- Tuân thủ pháp luật, nguyên tắc hoạt động, chuẩn mực, quy trình, phương
pháp chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán nhà nước và các quy định khác có liên
quan của Tổng Kiểm toán Nhà nước.
- Chịu trách nhiệm trước Tổng Kiểm toán Nhà nước và trước pháp luật về
những bằng chứng, đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị của mình
23
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
- Thu thập bằng chứng kiểm toán, ghi sổ nhật ký kiểm toán và các tài liệu làm
việc khác của Kiểm toán viên nhà nước theo quy định của Tổng Kiểm toán
Nhà nước
- Giữ bí mật thông tin, tài liệu thu thập được trong quá trình kiểm toán
- Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, Kiểm toán viên nhà nước phải xuất trình
và đeo thẻ Kiểm toán viên nhà nước.
- Thường xuyên học tập và rèn luyện để nâng cao kiến thức chuyên môn, kỹ
năng và đạo đức nghề nghiệp; thực hiện chương trình cập nhật kiến thức hàng
năm theo quy định của Tổng Kiểm toán Nhà nước, bảo đảm có đủ năng lực,
trình độ chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ được giao.
- Khai báo kịp thời và đầy đủ với người ra quyết định thành lập Đoàn kiểm
toán khi có trường hợp quy định tại Điều 31 của Luật này và các tình huống
khác làm ảnh hưởng đến tính độc lập của Kiểm toán viên nhà nước.

- Khi có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà
bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải
bồi thường theo quy định của pháp luật.
2.Tổ chức bộ máy Kiểm toán Nhà nước Việt Nam.



24
SV: Đinh Công Tỉnh GVHD: TS Trần Mạnh Dũng
Sơ đồ 6: Sơ đồ bộ máy Kiểm toán Nhà nước sau khi có luật KTNN.
25

×