Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Phân tích quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh Cách mạng Xã hội chủ nghĩa là cuộc biến đổi khó khăn nhất, sâu sắc nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.14 KB, 24 trang )

Đề bài:
Phân tích quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Cách mạng Xã
hội chủ nghĩa là cuộc biến đổi khó khăn nhất, sâu sắc nhất"
BÀI LÀM
Cuộc cách mạng xã hội nhằm chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản
chủ nghĩa sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu
là xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình phát
triển của xã hội loài người. CMXHCN bao gồm một loạt những cải biến cách
mạng có tính chất quyết định trong cơ cấu chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá
và xã hội. Giai cấp công nhân thông qua chính đảng cách mạng của mình nắm
quyền lãnh đạo cách mạng, liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp
lao động khác thực hiện nhiệm vụ cơ bản đầu tiên của CMXHCN là giành lấy
chính quyền, phá bỏ bộ máy chuyên chính tư sản, xác lập bộ máy chính quyền
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xây dựng một chế độ mới có
nền kinh tế phát triển trên cơ sở chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu, loại bỏ mọi đối kháng giai cấp, xoá bỏ mọi áp bức và bóc lột, phát triển
dân chủ xã hội chủ nghĩa và công bằng xã hội, xây dựng nền văn hoá mới xã
hội chủ nghĩa. Quá trình đó bao hàm nhiều giai đoạn khác nhau trong sự phát
triển của chế độ xã hội và kinh tế mới.
I. Quan điểm của Mác Lê Nin về cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1. Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa và nguyên nhân của nó.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế
độ cũ,nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc
cách mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân
dân lao động khác xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo nghĩa hẹp: cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách
mạng chính trị được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân
lao động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô
sản- nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Theo nghĩa rộng: cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến một
cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị,


văn hóa, tư tưởng, v.v. để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng
là chủ nghĩa cộng sản. Như vậy, theo nghĩa rộng, cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa bao gồm cả việc giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và cả quá trình giai cấp công nhân cùng với quần chúng nhân dân
lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội, tới khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cuộc
cách mạng này mới kết thúc.
Cũng như mọi cuộc cách mạng xã hội khác thì Nguyên nhân của cách
mạng xã hội chủ nghĩa: đều nổ ra từ nhu cầu giải phóng lực lượng sản xuất.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra từ nguyên nhân. Lực lượng sản xuất đã đạt
đến trình độ xã hội hoá cao mâu thuẫn với quan hệ sản xuất chiếm hữu tư liệu
sản xuất. Mâu thuẫn trên trở nên gay gắt hơn và trở thành mâu thuẫn cơ bản
trên trong chủ nghĩa tư bản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến hành trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo nên sự toàn diện, sâu sắc, triệt để. Trên
lĩnh vực chính trị thì nó đập tan chính quyền của giai cấp tư sản, thiết lập
chính quyền của dân vì dân. Khi có chính quyền phải xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa (dân chủ hóa đời sống chính trị). Trên lĩnh vực kinh tế: nó
xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất (sở hữu tư bản chủ nghĩa)
thay đổi vị trí người lao động trong hệ thống sản xuất xã hội. Phát triển lực
lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng:
Tạo nên sự thay đổi trong phương thức và nội dung sinh hoạt tư tưởng hướng
tới sự phát triển. Kế thừa, nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Xây dựng nền văn hóa mới theo lập
trường của giai cấp công nhân: giải phóng người lao động về mặt tinh thần.
Trong khi đó thì luôn xuất hiện 3 loại mâu thuẫn đó là: mâu thuẫn giữa
LLSX, mâu thuẫn giữa gc công nhân và nhân dân lao động bị áp bức với gc tư
sản, mâu thuẫn dân tộc.
2. Điều kiện của cách mạng xã hội chủ nghĩa có 2 điều kiện chính là
khách quan và chủ quan.
Về điều kiện khách quan : với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo

ra một đội ngũ công nhân ngày càng đông về số lượng, ngày càng nâng cao về
chất lượng. Công nhân dễ dàng nhận thấy rằng, họ là đồ vật, là tài sản của giai
cấp tư sản và công nhân trở thành kẻ thù của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư
bản. mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc với các nước thuộc địa ngày
càng trở nên gay gắt. Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
ngày càng gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết mâu thuẫn trên bằng một cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa nhằm xoá bỏ ách áp bức của giai cấp tư sản, xoá bỏ
quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, thiết lập quan
hệ sản xuất mới và chế độ mới xã hội chủ nghĩa. Về điều kiện chủ quan của
cách mạng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quyết định nhất là sự trưởng thành của
giai cấp công nhân, đặc biệt là khi nó đã có đảng tiên phong của mình.
3. Tiến trình cách mạng XHCN
Gồm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn giai cấp vô sản tự xây dựng thành giai
cấp thống trị, là giai đoạn giành lấy dân chủ.
- Giai đoạn thứ hai: là giai đoạn giai cấp công nhân đã nắm chính
quyền, sử dụng chính quyền đó, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, tập hợp
các tầng lớp nhân dân lao động, thực hiện cải tạo xã hội cũ, tổ chức xây dựng
xã hội mới về mọi mặt như: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, v.v
4. Nội dung cách mạng xã hội chủ nghĩa:
* Cách mạng Xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng toàn diện:
- Chính trị: Giai cấp công nhân thông qua chính đảng cách mạng của mình
nắm quyền lãnh đạo cách mạng
I. , liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác thực
hiện nhiệm vụ cơ bản đầu tiên của CMXHCN là giành lấy chính quyền, phá
bỏ bộ máy chuyên chính tư sản, xác lập bộ máy chính quyền của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.
-Kinh tế : cách mạng xã hội chủ nghĩa xây dựng một chế độ mới có nền
kinh tế phát triển trên cơ sở chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu,
loại bỏ mọi đối kháng giai cấp, xoá bỏ mọi áp bức và bóc lột, phát triển dân

chủ xã hội chủ nghĩa và công bằng xã hội, xây dựng nền văn hoá mới xã hội
chủ nghĩa.
Văn hoá : cách mạng xã hội chủ nghĩa sáng tạo những giá trị tinh thần
dựa trên kế thừa giá trị tư tưởng và tiếp thu tinh hoa nhân loại.
*Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng sâu sắc : Nội ung sứ
mệnh lịch sử của gia cấp công nhân là : Xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và
tiền tư bản chủ nghĩa, từng bước xây dựng xã hội mới- xã hội Xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, xoá bỏ áp bức bóc lột, giải phóng mình đồng
thời giải phóng toàn nhân loại. Đó là nội dung cơ bản bao trùm sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân. lịch sử phát triển của xã hội loài người chính là
lịch sử của đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực cơ bản của phát
triển lịch sử. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân
phải tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh mình, tiến hành cuộc
đấu tranh cách mạng nhằm xoá bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi
mặt. Con đường để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình đó
chính là phải tiến hành cuộc cách mạng không ngừng và triệt để qua hai giai
đoạn : Một là, lật đổ giai cấp tư sản giành lấy chính quyền, thiết lập nền
chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân. Hai là, sử dụng chính quyền
mới làm công cụ cải tạo xã hội cũ, tập hợp quần chúng nhân dân lao động xây
dựng thành công xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa
cộng sản.
*Cách mạng Xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng triệt để : thể hiện
qua mục tiêu cuối cùng là giải phóng con người.
II. Truyền thống dân tộc của các quốc gia khác về vấn đề cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
1.Kinh nghiệm từ Trung Quốc.
Bối cảnh của Trung Quốc : Sau cuộc Nội chiến Trung Quốc và thắng
lợi của các lực lượng Mao Trạch Đông trước Quốc dân Đảng của Tưởng Giới
Thạch, khiến Tưởng phải bỏ chạy tới Đài Loan, Mao Trạch Đông tuyên bố
thành lập nhà nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 1 tháng 10 năm

1949. Mục tiêu đầu tiên của mao là thay đổi toàn bộ hệ thống sở hữu đất đai
và những cuộc cải cách ruộng đất rộng lớn. Hệ thống sở hữu đất đai theo kiểu
chủ đất phong kiến Trung Quốc cũ cùng những người nông dân làm thuê
được thay thế bởi một hệ thống phân chia công bằng hơn có chú ý tới những
người nông dân nghèo khổ. mao nhấn mạnh tới cuộc đấu tranh giai cấp 1953,
ông đã thúc đẩy thực hiện nhiều chiến dịch tiêu diệt tầng lớp chủ đất và tư sản
cũ. Đầu tư nước ngoài cũng bị bãi bỏ.
Mao Trạch Đông tin rằng chủ nghĩa xã hội sẽ giành chiến thắng trước
mọi lí thuyết xã hội khác, và sau Kế hoạch Năm năm dựa trên khuân mẫu Xô
Viết với nền kinh tế quản lí tập trung hoá hoàn toàn, Mao Trạch Đông đưa ra
những dự án đầy tham vọng về Đại nhảy vọt năm 1957, bắt đầu một quá trình
chưa từng có nhằm tập trung hoá sản xuất tại các vùng nông thôn. Ý tưởng
trung tâm đằng sau Đại nhảy vọt là sự phát triển nhanh ngành công nghiệp và
nông nghiệp TRung Quốc nên được xảy ra song song. Hy vọng là công
nghiệp hoá bằng cách lợi dụng nguồn cung ứng lao động rẻ khổng lồ và tránh
phải nhập cảng các máy móc nặng. Để đạt được điều này Mao chủ trương một
vòng tập thể hoá sâu rộng hơn dựa theo mô hình Thời kì thứ 3 của Liên Xô là
cần thiết trong nông thôn TRung Quốc nơi các hợp tác xã hiện hữu sẽ được
nhập vào thành các Công xã nhân dân khổng lồ. Mao thấy sản xuất lúa gạo và
thép như là cột trụ chính của phát triển kinh tế. Mao khuyến khích việc thiết
lập các lò nung thép sân vườn loại nhỏ tại mỗi xã và tại mỗi khu phố. Nỗ lực
khổng lồ lấy từ nông dân và các công nhân khác được đưa vào để sản xuất
thép từ sắt vụn. Để cung cấp nguyên liệu đốt cho các lò nung, cây rừng bị chặt
đốn bừa bãi gây thiệt hại lớn cho môi trường thiên nhiên của địa phương.
Tình trạng phá cửa nhà và bàn ghế đồ đạc để lấy củi đốt lò nung cũng xảy ra
khắp nơi. Nồi, xoong, chảo và các thứ vật dụng kim loại khác được trưng
dụng để cung cấp ‘‘sắt vụn’’ cho các lò nung để mục tiêu sản xuất đầy lạc
quan ngông cuồng đó có thể đạt được. Nhiều nam lao động nông nghiệp bị
thuyên chuyển từ thu hoạch mùa màng sang giúp sản xuất thép cũng giống
như các công nhân ở nhiều nhà máy, trường học và thậm chí ở bệnh viện. Đối

với những ai có chút kinh nghiệm về sản xuất thép hoặc có hiểu biết cơ bản
về luện kim thì cũng có thể đoán ra được sản phẩm từ các lò nung này là
những đống sứt nguyên liệu phẩm chất thấp và chẳng có chút giá trị gì về
kinh tế. Chính sách kinh tế sai lầm đã đưa đến nạn đói lớn. Nhân dân chết đói
hàng loạt do mùa màng thất bạt cộng với thiên tai xảy ra liên miên. Đại nhảy
vọt vẫn được tiếp tục đến tháng giêng năm 1961, tại phiên họp toàn thể của
Ủy ban TRung ương lần thứ 9 mới chấm dứt.
• - Để áp đặt tính chính thống chủ nghĩa xã hội và tiêu diệt các nhân tố
cũ của Trung Quốc, cùng lúc ấy đạt được một số mục đích chính trị, Mao
Trạch Đông đã bắt đầu cho thực hiện Cách mạng Văn hóa năm 1967. Chiến
dịch này ảnh hưởng tới mọi mặt của đời sống TRung Quốc. Hồng Vệ Binh
khủng bố trên các đường phố và nhiều công dân bị coi là phản cách mạng.
Giáo dục và vận tải công cộng hầu như bị đình chỉ toàn bộ. Cuộc sống hàng
ngày chỉ là đi hô khẩu hiệu và kể lể lại các câu nói của Mao Trạch Đông.
Nhiều lãnh đạo chính trị nổi bật gồm cả Lưu Thiếu Kì và Đặng Tiểu Bình bị
thanh trừng và bị coi là những kẻ theo tư bản. Chiến dịch này chỉ hoàn toàn
chấm dứt cùng với cái chết của Mao Trạch Đông năm 1976.
Sau cái chết của Mao Trạch Đông kéo theo các cuộc đấu tranh quyền
lực. Cuối cùng, ĐẶng Tiểu Bình lên nắm quyền lãnh đào tối cao TRung
Quốc. Ông đã cải cách đất nước Trung Quốc theo hướng ‘‘Chủ nghĩa xã hội
mang màu sắc Trung Quốc’’ : nghĩa là cải cách nền kinh tế từ một nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung theo mô hình Liên Xô sang một nền kinh tế theo định
hướng thị trường trong khi vẫn duy trì thể chế chính trị do Đảng Cộng Sản
Trung Quốc lãnh đạo.Chính quyền đã chuyển đổi từ chế độ hợp tác xã sang
chế độ khoán đến từng hộ gia đình trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng quyền tự
chủ của các quan chức địa phương và các thủ trưởng nhà máy, cho phép sự
phát triển đa dạng của doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực dịch vụ và công
nghiệp nhẹ và mở của nền kinh tế để tăng ngoại hối và đầu tư nước ngoài.
Chính phủ cũng đã tập trung vào ngoại thương như một đòn bẩy phát triển
kinh tế. ĐẶng Tiểu Bình đã có công thu hồi Ma Cao và Hồng Công với chính

sách ‘’ một nước hai chế độ’’. Trung Quốc hiện nay phát triển là nhờ theo
đường lối của ông đó rút ra bài học cho Việt Nam. Không nên áp dụng máy
móc mô hình của nước khác vào đất nước mình mà phải cân nhăc để áp dụng
cho phù hợp, dựa trên hoàn cảnh của riêng đất nước mình.
2. Nga :
Bối cảnh lịch sử xã hội
Là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền đế quốc chủ nghĩa
giai cấp công nhân tuy ra đời muộn nhưng sớm trưởng thành, nước Nga
trở thành trung tâm của cách mạng thế giới.
Trong lòng nước Nga "đế quốc - phong kiến - quân phiệt" cùng một lúc
xuất hiện tiền đề của hai cuộc cách mạng. Chủ nghĩa tư bản đạt tới mức độ
phát triển trung bình và đã chuyển vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa làm cho
mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản biểu hiện gay gắt, tạo
nên tiền đề cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga. Tàn tích phong
kiến trung cổ được duy trì ở mức độ nặng nề làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp
nông dân và giai cấp địa chủ biểu hiện không kém gay gắt, tạo nên tiền đề của
cách mạng dân chủ.
Nội dung của cuộc cách mạng.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi tự do, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội
Cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức đòi bình đẳng và tự quyết dân
tộc;
Cuộc đấu tranh của đông đảo nhân dân đòi chấm dứt chiến tranh và tạo
lập một nền hoà bình vững chắc.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của nó được
bảo đảm và không ngừng củng cố.
Khối liên minh công nông được giữ vững và phát triển trên cơ sở một
đường lối thích hợp với từng giai đoạn cách mạng.
Chính quyền dân chủ cách mạng được củng cố để hoàn thành nhiệm vụ

của nó ở giai đoạn thứ nhất, đồng thời chuẩn bị những điều kiện để chuyển
sang giai đoạn thứ hai.
III.Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tính tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XX
( sự áp bức của thực dân, đế quốc, phong kiến với quần chúng nhân dân
lao động vô cùng tàn bạo, những phong trào đấu tranh theo xu hướng phong
kiến, tư sản đều bị thất bại, đã là mảnh đất tốt để tuyên truyền tư tưởng xã hội
chủ nghĩa cho nhân dân)
Chủ nghĩa Mác - Lênin được tuyên truyền vào Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã làm cho cách mạng Việt Nam thoát
khỏi sự khủng hoảng về đường lối chính trị.
Sự chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tính tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhâ
ndân ở Việt Nam.
Tính chất của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20 là xã hội thuộc địa nửa
phong kiến > vấn đề giải phóng đất nước khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân,
phong kiến là vấn đề to lớn và bức xúc nhất của nhân dân ta.
Vào những năm đầu thế kỷ 20 đất nước lâm vào khủng hoảng đường lối
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và sớm giành được quyền lãnh đạo cách
mạng khi ĐCS Việt Nam ra đời.
Các giai cấp trung gian đã tham gia ngay từ đầu vào phong trào đấu tranh
vì độc lập dân tộc, dân chủ và hướng tới CNXH.
Khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đã làm các
h mạng tháng 8 thành công lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Xuất phát từ điều kiện cụ thể của đất nước mà ngay từ năm 1930 Đảng ta
đã xác định cách mạng nước ta phải trải qua 2 giai đoạn, kết thúc giai đoạn 1
cũng là mở đầu của giai đoạn 2.
Thành tựu của công cuộc kháng chiến kiến quốcuốc sau cách mạng 8.19
45, của công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc đã tạo nên những điều kiện v

ật chất và tinh thần để dân tộc ta thắng Pháp, thắng Mỹ và chuyển sang cách
mạng XHCN.
Sự nhất quán về đường lối và mục tiêu của cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo duy nhất của ĐCS. Tình trạng khủng hoảng, sự suy giảm vị thế của c
ác nước thuộc Liên Xô và Đông Âu đã chứng tỏ sự lựa chọn đúng đắn của Đả
ng và nhân dân ta
Sự thành công của quá trình đổi mới chứng tỏ đường lối đúng đắn của Đản
g
Việt Nam có đủ những điều kiện để tiếp tục con đường cách mạng mà nhân d
ân ta đã lựa chọn.Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là bài học kinh nghiệm
của cách mạng Việt Nam
Việt Nam giai đoạn 1945: háng 11 nǎm ấy, tiết trời đặc biệt rét đến sớm
hơn mọi nǎm, khiến con người ta ai cũng thấy đói "mọi lúc mọi nơi", chỉ có
lúc ních vào thật no cǎng bụng người ta mới cảm thấy đỡ lạnh. Không phải vô
lý mà ông bà ta ghép hai từ "đói" và "rét" đi chung với nhau. Càng rét người
ta lại càng thấy đói, càng đói người ta lại càng thấy rét, cái vòng luẩn quẩn ấy
bao vây dân nghèo ngày một gay gắt hơn bao giờ hết. Thái Bình hồi ấy được
mệnh danh là "vựa lúa" của miền Bắc với những cánh đồng "cò bay thẳng
cánh, chó chạy cong đuôi". Nhưng thật trớ trêu, chính ở trên mảnh đất ấy, cái
đói đến với tầng lớp "lê dân" mới thật là dữ dội kinh khiếp nhất, vượt quá sức
chịu đựng bình thường của con người.
Quân Nhật thông qua chính quyền bảo hộ Pháp buộc nông dân phải nộp
hết thóc lúa cho chúng để phục vụ cho lính "Thiên Hoàng", rồi lại cưỡng ép
phá hoại trồng lúa trong vụ Đông Xuân nǎm ấy, để dành đất trồng đay làm
bao công sự chiến đấu chống lại quân đồng minh. Thật là "hoạ vô đơn chí",
nǎm đó Thái Bình bị mất trắng vụ lúa do bị hạn hán hoành hành khắp nơi, đất
đai thiếu nước khô nứt nẻ ra từng mảng, cây trái xơ xác, ruộng vườn hoang
vắng tiêu điều. Tất cả những gì ǎn được người ta đã ǎn hết cả rồi, khoai sắn củ
còn non biến mất quá nhanh vào dạ dày lép kẹp, rồi gia súc cho mèo đều lần
lượt phải "hy sinh" cho bao tử của chủ. Không phải mọi người đều chịu cái

đói, ở thành thị, công chức, người đi buôn vẫn sống bình thường, tuy có điều
vất vả, chính nông dân ở các làng mới bị đói nhiều ngày trên mảnh đất ruộng
vườn của họ.
Không còn gì để bỏ vào bụng nữa, người dân lam lũ từ các vùng chung
quanh bắt đầu ùn ùn kéo nhau về thị xã trung tâm. Nhiều huyện như Kiến
Xương, Tiền Hải người ta kiếm ǎn bằng mọi cách để rồi ngã chết ra cả nhà.
Những người còn sức đi được thì đi thành từng đoàn, họ lê bước trên những
nẻo đường về thị xã với bộ quần áo rách rưới, có người gần như trần truồng vì
đã bán những bộ quần áo lành lặn để đi đổi lấy gạo ǎn. Cái đói cái rét cắt thịt
như thúc giục họ tiến bước về phía trước. Những người nào đói quá thì lả đi
gục xuống để rồi không bao giờ dậy nổi nữa. Hai bên đường, thây người chết
đói ngã ra như rạ, lại càng thúc giục họ đổ về thị xã Thái Bình bất chấp một
vành đai lính tráng bao quanh khu vực thị xã ngǎn không cho họ vào.
Nguyên nhân :
Nguyên nhân trực tiếp: Các hậu quả của chiến tranh tại Đông Dương.
Các cường quốc liên quan như Pháp, Nhật Bản và cả Hoa Kỳ đã can thiệp vào
Việt Nam và gây nhiều tai họa ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế của người
Việt. Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra khiến miền Bắc
vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói.
Nguyên nhân gián tiếp: Là sự tệ hại của chế độ thực dân Pháp tại Việt
Nam, với những biện pháp cải cách kinh tế nhằm phục vụ chế độ và nhu cầu
chiến tranh, do tại nước Pháp khi đó đang có chiến tranh và cũng đang bị xâm
chiếm.
Nguyên nhân tự nhiên: Thiên tai, lũ lụt gây mất mùa tại miền Bắc.
Sau vụ khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 1930, Pháp quay lại với chính
sách bảo hộ mậu dịch và độc quyền khai thác Đông Dương theo đường lối
thực dân. Toàn thể dân Đông Dương phải ra sức nâng cao giá trị kinh tế của
khu vực, nhưng chỉ có người Pháp, một thiểu số rất ít người Việt và người
Hoa gần gũi với Pháp hay một số dân chúng thành thị được hưởng lợi. Hậu
quả là trước Đại chiến thế giới lần thứ hai, Việt Nam vẫn chỉ là một xứ lạc

hậu và nghèo đói so với nhiều quốc gia châu Á khác. Khi Đại chiến thế giới
bùng nổ, Pháp bị yếu thế. Tại Đông Á, Nhật Bản bắt đầu bành trướng và nhìn
vào Đông Dương như đầu cầu tiến qua Nam Á và khống chế Trung Quốc.
Giữa năm 1940, Pháp bị Đức chiếm và Nhật Bản gây sức ép với Pháp rồi năm
sau tiến vào Đông Dương. Việt Nam bị cuốn vào nền kinh tế thời chiến, với
việc Pháp và Nhật tranh giành quyền kiểm soát kinh tế. Người ta nói đến lý
do là Nhật Bản bắt dân Việt Nam trồng đay thay trồng lúa gạo để phục vụ
chiến tranh, nhưng thực ra Pháp đã tiến hành việc ấy từ trước, cụ thể là thu
hẹp diện tích canh tác các hoa màu phụ như ngô, khoai, sắn, để trồng bông,
đay, gai hay cây kỹ nghệ. Sản lượng lúa gạo và hoa mầu quy ra thóc tại miền
Bắc giảm xuống rất mạnh do diện tích canh tác bị thu hẹp.
Từ phía Nhật Bản và Hoa Kỳ
Việt Nam bị Nhật Bản chiếm đóng và Đồng Minh - chủ yếu là Hoa Kỳ
-thường xuyên oanh tạc các tuyến đường vận tải để tấn công quân Nhật Bản,
nên gạo từ miền nam ra bắc rất khó khăn. Cả Pháp và Nhật Bản đều ra sức vơ
vét gạo với chế độ cưỡng bách thu mua cho nhu cầu chiến tranh của họ, trong
khi bộ máy chính quyền của Pháp đã tan rã nên không đảm bảo được việc tiếp
vận và phân phối. Nạn thiếu ăn biến thành nạn đói, đã xuất hiện từ đầu năm
1944. Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, lập ra chính quyền do Trần
Trọng Kim đứng đầu. Chính quyền này mặc dù đã có một số cố gắng để cứu
đói cho dân, nhưng mọi việc đã trở nên khó khăn hơn rất nhiều khi mà Nhật
vẫn tích cực áp dụng chính sách cũ.
Thiên tai
Do chiến tranh và sự tê liệt của guồng máy nhà nước, giá cả các mặt hàng
thiết yếu liên tục leo thang, đặc biệt là lương thực. Miền bắc cũng bị hạn hán và
côn trùng phá hoại, khiến sản lượng vụ đông-xuân năm 1944 bị sụt khoảng 20%.
Sau đó là lũ lụt xảy ra vào vụ mùa nên khủng hoảng bắt đầu bùng nổ.
Hậu quả :
Nạn đói năm Ất Dậu là một nạn đói xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong
khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 làm khoảng từ 400.000

đến 2 triệu người dân chết đói.
Không có số liệu chính xác về số người đã chết đói, nhưng một số nguồn
khác nhau ước tính là từ khoảng 400.000 đến 2 triệu người đã bị chết đói tại
miền bắc Việt Nam trong thời điểm này. Tháng 5 năm 1945, bảy tháng sau
khi trận đói bùng nổ tại miền bắc, toà khâm sai tại Hà Nội ra lệnh cho các tỉnh
miền Bắc phúc trình về tổn thất. Có 20 tỉnh báo cáo số người chết vì đói ở
miền bắc là hơn 380.000, chết vì bệnh – không rõ nguyên nhân – là hơn
20.000, tổng cộng 400.000 cho riêng miền bắc. Tháng 10 năm 1945, theo báo
cáo của một quan chức quân sự của Pháp tại Đông Dương khi đó là tướng
Mordant thì khoảng nửa triệu người chết. Toàn quyền Pháp Jean Decoux thì
viết trong hồi ký của ông về thời kỳ cầm quyền tại Đông Dương "À la barre
de l’Indochine" – là có 1 triệu người miền Bắc chết đói. Các nhà sử học Việt
Nam ước đoán là từ 1 đến 2 triệu. Nhiều nhà sử học sau này nêu con số 1 triệu
trong khi những người sinh sống tại miền Bắc khi đó thì thiên về con số 2
triệu, là điều Hồ Chí Minh có nhắc đến trong bài Tuyên ngôn Độc lập ngày 2
tháng 9 năm 1945.
3. Thực tiễn Việt Nam giai đoạn 1954-1960 ( câu nói)
Xây dựng miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ-Diệm ở miền Nam (1954-
1960).
Sau tháng 7-1954, đất nước ta tạm chia làm hai miền. Miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh thực hiện nhiệm vụ cách mạng
dân tộc, dân chủ, tiến tới thống nhất nước nhà.1. Công cuộc xây dựng miền
Bắc (1954-1960)* Tiếp quản Miền Bắc (1954-1955)Trước khi rút quân ra
khỏi miền Bắc theo Hiệp định Giơnevơ, thực dân Pháp cùng đế quốc Mỹ tiến
hành nhiều hoạt động nhằm chống phá công cuộc xây dựng miền Bắc.
Sau tháng 7-1954, đất nước ta tạm chia làm hai miền. Miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh thực hiện nhiệm vụ cách mạng
dân tộc, dân chủ, tiến tới thống nhất nước nhà.
* Công cuộc xây dựng miền Bắc (1954-1960)
-Tiếp quản Miền Bắc (1954-1955)

Trước khi rút quân ra khỏi miền Bắc theo Hiệp định Giơnevơ, thực dân
Pháp cùng đế quốc Mỹ tiến hành nhiều hoạt động nhằm chống phá công cuộc
xây dựng miền Bắc.
Trong các thành phố, chúng tháo dỡ máy móc chuyển vào Nam, đóng cửa
một số nhà máy cửa hàng, lôi kéo lực lượng trí thức, cán bộ kỹ thuật tay nghề
cao vào Sài Gòn. Hồ sơ, tài liệu trong các công sở bị thiêu huỷ hoặc chuyển về
vùng kiểm soát. Chúng xuyên tạc, dụ dỗ, cưỡng bức gần một triệu đồng bào di
cư vào Nam, xúi dục bạo loạn, cài gián điệp ở lại… Cuộc đấu tranh chống địch
phá hoại miền Bắc diễn ra khá gay go, trên tất cả các lĩnh vực.
Vì chuẩn bị chu đáo nên ta đã tiếp quản Hà Nội nhanh, gọn, an toàn.
Ngày 1-1-1955, hàng vạn nhân dân đã tiến hành cuộc mít tinh chào mừng
Trung ương Đảng, Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh về thủ đô. Hà Nội trở
thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà. Tháng 5-1955, quân đội Pháp hoàn toàn rút khỏi miền Bắc.
Ta và địch tiến hành trao trả cho nhau hàng vạn tù binh, 15 vạn chiến sĩ
miền Nam tập kết ra Bắc. Miền Bắc bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ khôi phục
kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.
Trong nông nghiệp, ngành kinh tế chủ yếu của miền Bắc, có hơn
1.400.000 hécta đất bị bỏ hoang, hàng chục vạn nông dân không nhà ở, nhiều
công trình thủy lợi bị thực dân Pháp tàn phá, hàng chục vạn trâu bò bị
giựt Trong công nghiệp, phần lớn các xí nghiệp máy móc thiếu, hoặc quá lạc
hậu. Khai thác mỏ giảm một nửa so với trước chiến tranh. Hệ thống giao
thông và cơ sở hạ tầng nói chung bị tàn phá nghiêm trọng. Hàng triệu người
miền Bắc mù chữ. Số trường lớp thiếu, tỷ lệ học sinh đến trường thấp. Số kỹ
sư và cán bộ kỹ thuật ở lại trong các công sở thuộc Pháp trước đây rất ít. Hệ
thống y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân hầu như không đáng kể.
Thực trạng trên đòi hỏi phải khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh. Đó là nhiệm vụ trung tâm, nặng nề của nhân dân miền
Bắc sau tháng 7- 1954.
Trong năm 1954 và đầu năm 1955, Trung ương Đảng, Chính phủ và

Quốc hội đã ra chiếu chỉ thị, chủ trương khôi phục kinh tế. Kế hoạch khôi
phục kinh tế trong 3 năm (1955-1957) là phấn đấu đạt các chỉ tiêu kinh tế
trước chiến tranh.
Nông nghiệp: Thực hiện cải cách ruộng đất trong những năm 1954-1956
không chỉ nhằm thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân chủ, chia ruộng đất cho
nông dân, mà nó còn có ý nghĩa quyết định trong khôi phục và phái triển kinh
tế nông nghiệp.
Từ đợt 1 đến đợt V, cải cách ruộng đất được tiến hành trong 3653 xã, đã
chia khoảng 334.100 ha ruộng đất cho khoảng 2 triệu hộ nông dân không có
hoặc thiếu ruộng. Sau cải cách ruộng đất, các tầng lớp nông dân có diện tích
canh tác tương đối đồng đều.
Do nông dân thực sự được quyền sở hữu ruộng đất và do các chính sách
khuyến nông như, thủy lơi, phân bón, sức kéo nền nông nghiệp được phục
hồi nhanh chóng. Đến năm 1957, sản lượng lúa của miền Bắc đạt khoảng 4
triệu tấn, tăng hơn 1,5 triệu tấn so với năm 1939.
Về công nghiệp: Hầu hết các cơ sở sản xuất cũ được khôi phục, hơn 50
cơ sở mới, chủ yếu thuộc ngành sản xuất tiêu dùng được xây dựng. Bên cạnh
việc xây dựng cơ sơ sản xuất quốc doanh, khu vực công nghiệp tư nhân. bao
gồm các cơ sở sản xuất tư bản tư doanh và tiểu thủ công nghiệp được khuyến
khích phát triển sản xuất.
- Ngành văn hoá giáo dục phát triển khá nhanh. Hệ thống giáo dục từ
phổ thông đến đại học được tiêu chuẩn hóa một bước. Năm học 1956-1957,
có gần 1 triệu học sinh phổ thông, hơn 600.000 học sinh vỡ lòng, 2984 sinh
viên đại học, gần 8000 học sinh chuyên nghiệp trung cấp. Hơn 1 triệu người
được xoá nạn mù chữ.
- Hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được nhà nước quan tâm
xây dựng. Nếp sống lành mạnh, vệ sinh được vận động thực hiện khắp mọi nơi.
Đến năm 1957, miền Bắc có 153 cơ sở điều trị, 108 đội y tế lưu động, khoảng
8000 cán bộ y tế từ bác sĩ đến y tá. Những nạn dịch rất phổ biến ở miền Bắc như
đau mắt hột, sốt rét… không còn xuất hiện nhiều như trước nữa.

Tuy nhiên trong buổi đầu xây dựng đất nước không thể tránh khỏi những
khuyết điểm hạn chế. Những sai lầm trong khi thực hiện cải cách ruộng đất ảnh
hưởng lớn đến tư tưởng quần chúng nhân dân, nhất là tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, trí
thức. Lực lượng trong và ngoài nước lợi dụng tình hình đó đã đẩy mạnh hoạt động
thổ phỉ ở một số vùng miền núi, gây bạo loạn ở một số nơi ở vùng đồng bằng; nhóm
Nhân văn giai phẩm ra nhiều ấn phẩm chống lại vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đánh giá đúng nguyên nhân của các sự kiện trên, một mặt, Đảng và
chính phủ nghiêm khắc sửa chữa sai lầm của mình, mặt khác, tuyên truyền
giáo dục, phân hoá những người lầm đường trở về với sự nghiệp chung của
dân tộc. Đối với những phần tử đầu sỏ, ngoan cố, nhà nước kiên quyết xử lý
theo pháp luật.
Trong ba năm khôi phục kinh tế, nền kinh tế miền Bắc được phục hồi,
phát triển với sự hiện diện của nhiều thành phần kinh tế. Trên 10 vạn người
thất nghiệp ở Hà Nội, Hải Phòng và các thị xã, thị trấn trên miền Bắc đã có
việc làm ổn định. Đời sống nhân dân dần được nâng cao.
Với những thành tựu thu được trong thời kỳ khôi phục kinh tế, phát triển
văn hoá xã hội (1955-1957), miền Bắc đã cơ bản khắc phục được hậu quả của
chiến tranh. Đây là thời đoạn lịch sử quá độ chuẩn bị cho miền Bắc bước vào
thời kỳ mới.
- Trong thời kì cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960)
Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng )tháng 11-1958)
vạch chủ trương thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế
tư bản tư doanh, tiểu thương tiểu chủ, thợ thủ công và nông dân cá thể. Đi đôi
với quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hội nghị xác định phải ra sức xây
dựng, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh.
Trong kế hoạch 3 năm lần thứ hai, nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa
trong nông nghiệp có vị trí trọng tâm, quan trọng nhất. Phương hướng cải tạo
xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp là đưa nông dân vào làm ăn tập thể.
Từ quý III năm 1958, một số hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có vị trí
trọng tâm, quan trọng nhất. Phương hướng cải tạo xã hội chủ nghĩa trong

nông nghiệp được xây dựng thí điểm. Năm 1959, phong trào phát triển khắp
nơi và trở thành cao trào trong năm 1960. Đến cuối năm 1960, có 85,83%
tổng sản xuất tập thể
Tư sản dân tộc miền Bắc vốn ít, phần đông kinh doanh thương nghiệp và
nhà ở. Họ từng là bạn đồng minh của giai cấp công nhân trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Vì vậy với chính sách cải tạo hoà bình, bằng trưng mua, chuộc
lại, nên đến năm 1960, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với lực lượng
này căn bản đã hoàn thành. Khoảng 3 vạn công nhân trong các cơ sơ sản xuất
tư nhân đã trở thành cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước.
Chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với lực lượng tiểu thương, tiểu
chủ, thợ thủ công là đưa họ vào con đường làm ăn tập thể trong các hợp tác xã
thủ công nghiệp, tổ sản xuất thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán. Phần lớn
lực lượng tiểu thương được chuyển sang sản xuất nông nghiệp.
Đồng thời với nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, công nghiệp quốc
doanh được ưu tiên đầu tư xây dựng. Vốn đầu tư năm 1960 ở khu vực công
nghiệp quốc doanh tăng 2.6 lần so với năm 1957. Vì vậy, có hàng trăm cơ sở
sản xuất mới và tỷ trọng giá trị tổng sản lượng công nghiệp ngày một cao. Tỷ
trọng công nghiệp quốc doanh và công ty hợp doanh chiếm 25.6% vào năm
1957 đã lên 58% tổng giá trị sản phẩm công nghiệp vào năm 1960. Tỷ trọng
giữa công nghiệp và nông nghiệp năm 1957 là 31,4%/ 68,4% đã tăng lên
42,6%/ 57.4% vào năm 1960. Một số khu công nghiệp được xây dựng như
Thượng Đình, Thái Nguyên, Nam Định, Hải Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng.
Công nghiệp địa phương cũng phát triển khá nhanh, năm 1960 đã tăng 10 lần
so với năm 1957.
Lực lượng lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh tăng từ 259.100
người vào năm 1957 lên 477.400 người vào năm 1960.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế-xã hội
miền Bắc, đưa thành phần kinh tế toàn dân và tập thể thành vai trò chủ đạo
trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
Văn hóa, giáo dục cũng thu được nhiều thành tựu to lớn. Vào năm học

1959-1960, miền Bắc có 6.300 trường, với 2,5 triệu học sinh, sinh viên, chiếm
khoảng 17% dân số. Số học sinh phổ thông ở các cấp I, II, III và số sinh viên
đại học tăng từ 2 đến 4 lần so với năm học 1956-1957. Số nữ sinh và học sinh
các dân tộc miền núi đến trường ngày càng đông.
Hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng phát triển khá nhanh. Số cơ
sở điều trị, điều dưỡng, nhà hộ sinh tăng hơn 10 lần so với năm 1956. Các bệnh
dịch lây lan với quy mô và phạm vi lớn ở miền Bắc căn bản không còn nữa.
Hệ thống chính trị được củng cố, hoàn thiện. Hiến pháp mới của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được ban hành ngày 1-1-1960. Cơ quan hành
chính các cấp từ trung ương đến cơ sở tuy giảm về số lượng biên chế, nhưng
hiệu quả công tác lại được nâng cao hơn trước.
Lực lượng vũ trang cách mạng phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Chế độ nghĩa vụ quân sự xác định nhập ngũ bảo vệ tổ quốc là trách nhiệm và
nghĩa vụ của mọi công dân. Các sư đoàn chủ lực được trang bị binh khí kỹ
thuật mới, tiến dần lên chính quy hiện đại. Bộ đội địa phương, dân quân du
kích được tổ chức, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Lực lượng Công an nhân dân
được kiện toàn về tổ chức, nghiệp vụ được nâng cao. Đến năm 1960, về căn bản,
quân và dân miền Bắc đã tiêu trừ xong lực lượng phỉ và bọn bạo loạn.
Thực hiện kế hoạch 3 năm lần thứ nhất (1955-1957) và 3 năm lần thứ hai
1 (1958-1960) đã làm diện mạo miền Bắc thay đổi.
4.Việt Nam thời kì đổi mới sau 1986 Năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực
hiện đường lối Đổi mới với ba trụ cột: (i) chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường; (ii) phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần trong đó khu vực dân doanh đóng vai trò ngày càng quan
trọng; (iii) chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới một cách hiệu quả
và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Sau hơn hai mươi năm kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, công cuộc đổi
mới của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tế Việt Nam
luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao liên tục trong nhiều năm. Việc
trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thúc đẩy nền

kinh tế Việt Nam hội nhập sâu, rộng hơn vào kinh tế thế giới, cơ hội tranh thủ
các nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việt
Nam đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo
ra khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam.
Năm 1991 Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ra đời. Hiến pháp sửa
đổi năm 1992 đã khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và khu vực đầu tư
nước ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng của nền kinh tế
thị trường đã được hình thành tại Việt Nam như Luật đất đai, Luật thuế, Luật
phá sản, Luật môi trường, Luật lao động và hàng trăm các văn bản pháp lệnh,
nghị định của chính phủ đã được ban hành nhằm cụ thể hóa việc thực hiện
luật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng
từng bước được hình thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung,
bao cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp
quản lý kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính, ngân hàng, hình
thành các thị trường cơ bản như thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị
trường hàng hóa, thị trường đất đai… Cải cách hành chính được thúc đẩy
nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và
đầy đủ hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng
trưởng kinh tế. Chiến lược cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 là một
quyết tâm của Chính phủ Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc sửa đổi các thủ
tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế… để tạo ra một thể chế năng
động, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong hơn hai thập kỷ đổi
mới vừa qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng
phấn khởi. Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính
cạnh tranh và năng động. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được

khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc huy động các nguồn
lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối ngoại đã
trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển
thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn như
du lịch, xuất khẩu lao động, kiều hối
Trong hơn 20 năm đổi mới, GDP của Việt Nam đã tăng liên tục. Nếu
như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), GDP chỉ tăng trưởng bình quân
3,9%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991-1995) đã nâng lên đạt mức tăng
bình quân 8,2%. Trong giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng GDP của Việt Nam
là 7,5%, thấp hơn nửa đầu thập niên 1990 do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính châu Á. Từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng GDP của Việt
Nam luôn giữ ở mức cao và ổn định. Năm 2003 tăng 7,3% ; 2004 : 7,7% ;
2005 : 8,4% ; 2006 : 8,2% ; 2007 : 8,5% và năm 2008, trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu, Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng kinh tế
là 6,2%.
Cùng với việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu kinh tế trong nước
của Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2007, tỷ trọng của
khu vực nông-lâm nghiệp thủy sản đã giảm từ 38,7% xuống dưới 20% GDP,
nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng
từ 22,7% lên 41,7%, còn khu vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không
thay đổi: 38,6% năm 1990 và 38,3% năm 2007. Trong từng nhóm ngành, cơ
cấu cũng có sự thay đổi tích cực. Trong cơ cấu công nghiệp, tỷ trọng của
ngành công nghiệp chế biến tăng, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng
cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của
các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du
lịch…
Luật doanh nghiệp được sửa đổi năm 2000 đã tạo điều kiện cho sự phát
triển của các doanh nghiệp tư nhân. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do
kinh doanh của các cá nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không

cấm, dỡ bỏ những rào cản về hành chính đang làm trở ngại đến hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp như cấp giấy phép, thủ tục, các loại phí…
Từ 1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung cho cả doanh nghiệp
trong nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn sự lớn mạnh của các
doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu.
Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, những chính sách và biện pháp
điều chỉnh, sắp xếp lại các doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về quản
lý tài chính của công ty nhà nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp, hay việc chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần
theo tinh thần cải cách mạnh mẽ hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước, ngày
càng được coi trọng nhằm nâng cao tính hiệu quả cho khu vực kinh tế quốc
doanh. Tính đến 30/6/2008, đã có 3.786 doanh nghiệp Nhà nước được cổ
phẩn hóa.
Việt Nam đã sử dụng một cách hiệu quả các thành tựu kinh tế vào mục
tiêu phát triển xã hội như phân chia một cách tương đối đồng đều các lợi ích
của đổi mới cho đại đa số dân chúng; gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao
chất lượng cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục; nâng chỉ số phát triển con
người (HDI) của Việt Nam từ vị trí thứ 120/174 nước năm 1994, lên vị trí thứ
109/177 nước trên thế giới năm 2007; tăng tuổi thọ trung bình của người dân
từ 50 tuổi trong những năm 1960 lên đến 73 tuổi năm 2008, giảm tỷ lệ số hộ
đói nghèo từ trên 70% đầu những năm 1980 xuống 14,75% năm 2007 (tương
đương 2,7 triệu hộ nghèo), ước tính còn khoảng trên 13% vào cuối năm 2008.
Ngoại thương và hội nhập kinh tế quốc tế: Với chủ trương tích cực, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước,
các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam là thành viên quan
trọng trong ASEAN, tích cực thực hiện các cam kết Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), là thành viên tích cực của APEC, ASEM và nhiều tổ chức
kinh tế quốc tế khác. Hợp tác kinh tế của Việt Nam với các nền kinh tế lớn
như Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ ngày càng được củng cố và

mở rộng, Việt Nam đã ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ, đang
đàm phán hiệp định đầu tư với Mỹ, Hiệp định khung Đối tác và Hợp tác toàn
diện (PCA) với EU, hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản. Tháng
01 năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), có quan hệ với trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, đánh dấu sự hội
nhập toàn diện và đầy đủ của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu.
Từ sau đổi mới, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam mỗi năm tăng
khoảng 20%, nhờ đó đã đưa tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam từ mức
khoảng nửa tỷ USD/năm trong những năm trước đổi mới lên 48,4 tỷ USD
năm 2007 và 62,7 tỷ USD năm 2008. Kim ngạch nhập khẩu năm 2008 của
Việt Nam là 80,4 tỉ USD. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch tiến
bộ. Trong giai đoạn 1991-1995, hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm
dầu thô, thủy sản, gạo, dệt may, cà phê, lâm sản, cao su, lạc, hạt điều. Đến
năm 2008, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, dệt may, giày dép, thủy
sản, sản phẩm gỗ, điện tử, máy tính và gạo. Cơ cấu này phản ánh xu hướng
gia tăng các chủng loại mặt hàng chế biến, chế tạo, và sự giảm đi về tỷ trọng
của các mặt hàng xuất khẩu thô, chủ yếu là các mặt hàng nông, lâm, hải sản
và khoáng sản. Dù vậy, các mặt hàng xuất khẩu thô của Việt Nam đến nay
vẫn còn chiếm tỷ trọng cao, đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa để tăng nhanh các mặt
hàng công nghiệp xuất khẩu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được
ban hành tháng 12/1987 đã tạo khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các hoạt động
đầu tư nước ngoài trực tiếp tại Việt Nam. Luật đã có một số lần được sửa đổi,
bổ sung, nổi bật là các lần sửa đổi vào những năm 1996 và năm 2002 nhằm
tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn để khuyến khích các nhà
đầu tư nuớc ngoài đầu tư vào những mục tiêu trọng điểm và những lĩnh vực
ưu tiên, nhất là trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hướng vào xuất
khẩu và các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước.
Cùng với Luật Doanh nghiệp, việc ban hành Luật Đầu tư 2005 đã tạo
bước tiến dài trong việc điều chỉnh, cải tiến môi trường đầu tư của Việt Nam

để tạo thêm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, việc đẩy
mạnh tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài,
chỉnh sửa thuế thu nhập cá nhân theo hướng hạ thấp mức thuế, đẩy mạnh việc
thực hiện cơ chế một cửa, giảm giá dịch vụ viễn thông xuống ngang bằng
mức giá tại các nước trong khu vực, nâng cấp cơ sở hạ tầng, mở rộng lĩnh vực
đầu tư, cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào một số lĩnh
vực trước đây chưa cho phép như viễn thông, bảo hiểm, kinh doanh siêu thị,
ngân hàng… cũng góp phần tạo nên một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn ở
Việt Nam.
FDI vào Việt Nam tăng nhanh còn do các nguyên nhân quan trọng khác
như: sự ổn định về chính trị, kinh tế, an ninh và quốc phòng; nền kinh tế Việt
Nam liên tục đạt mức tăng trưởng cao; công cuộc đổi mới kinh tế theo cơ chế
thị trường tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh; mức sống của người dân được
nâng cao góp phần làm tăng mức cầu nội địa; tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế được đẩy mạnh, uy tín và thương hiệu của các loại hàng hóa sản xuất tại
Việt Nam trên các thị trường thế giới ngày càng được nâng cao.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã thu hút được một lượng đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng lớn. Từ ở mức gần như con số không
vào năm 1986, vốn đăng ký FDI đã tăng lên 64 tỷ USD năm 2008. Việt Nam
hiện có 10.700 dự án đầu tư trực tiếp của 90 quốc gia và vùng lãnh thổ đang
hoạt động với tổng số vốn đầu tư gần 170 tỉ USD. FDI tăng không chỉ hứa
hẹn mang lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư nước ngoài, mà còn đóng vai
trò quan trọng trong việc bổ sung nguồn vốn, chuyển giao công nghệ và
phương thức kinh doanh hiện đại, khai thác các tiềm năng của đất nước, đào
tạo tay nghề và giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
IV.Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nước ta đứng trước cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước và giải phóng dân tộc. Chính trong điều kiện đó,
Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau khi bắt gặp

chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tìm thấy cơ sở lý luận chắc chắn cho con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng vô sản. Bác
Hồ khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức: "Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn".
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản". Tư tưởng đó đã được Đảng ta khẳng định, được cả
dân tộc hưởng ứng và đi theo. Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của
toàn dân tộc Việt Nam.
Sự lựa chọn này dựa trên cơ sở:
Chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp
bức bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ
chân chính cho người lao động. Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ triệt để chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, là nguồn gốc sinh ra tình
trạng người bóc lột người, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu, cơ sở kinh tế đảm bảo cho nhân dân lao động thoát khỏi đói nghèo,
hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, tạo điều kiện giải phóng và phát triển con người toàn diện. Độc lập
dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã
hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi mở ra
một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới. Tính tất yếu của thời đại mới đã tạo khả năng và điều
kiện để các dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, đem lại những nhận thức mới
trong quan niệm và giải pháp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc một cách
triệt để.
Sức mạnh và thành tựu của chủ nghĩa xã hội, tính ưu việt của chế độ xã
hội chủ nghĩa đã thức tỉnh nhân loại, tạo khả năng đoàn kết các dân tộc để giữ
gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh huỷ diệt, buộc chủ nghĩa tư bản phải

điều chỉnh chính sách có lợi cho người lao động; tạo khả năng hiện thực cho
các nước lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Trong hơn 7 thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa đã đạt thành tựu quan trọng: Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế,
xây dựng cơ sở vật chất với quy mô và trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng
tốt hơn về vật chất và tinh thần của nhân dân. Từ một nước Nga nghèo nàn và
lạc hậu, sau một thời gian xây dựng đã trở thành một cường quốc của thế giới,
đạt được bước tiến lớn trong nghiên cứu khoa học, chinh phục vũ trụ, có tiềm
lực quân sự và quốc phòng hùng mạnh… tạo điều kiện cho phong trào giải
phóng dân tộc phát triển. Hàng trăm nước đã giành được độc lập dân tộc góp
phần quyết định vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới và hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn đó.
Nhưng lịch sử loài người đã không đi theo con đường thẳng tắp và
phong trào cách mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, thậm chí
có những thất bại hoặc thoái trào. Nhưng quan trọng hơn là từ trong sai lầm,
khuyết điểm đó, tìm ra những nguyên nhân, rút kinh nghiệm để đưa phong
trào cách mạng tiến lên. Đó mới là một thái độ nghiêm túc, đúng mực.
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ do
nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân trực tiếp là Đảng Cộng sản phạm những
sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức bắt đầu từ sự
phản bội của người lãnh đạo chủ chốt; chủ nghĩa đế quốc can thiệp vừa tinh
vi, vừa trắng trợn, thực hiện "diễn biến hòa bình" ở Liên Xô và các nước
Đông Âu. Sự đổ vỡ đó không có nghĩa là sự sụp đổ của học thuyết về chủ
nghĩa xã hội, không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế
giới, bởi vì hiện nay một số nước xã hội chủ nghĩa vẫn đang tiếp tục đứng
vững và phát triển. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng đã chỉ rõ: "Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song
loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là qui luật

tiến hóa của lịch sử".
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bên cạnh những thành
tựu, chúng ta cũng còn có khuyết điểm, yếu kém, những vấp váp sai lầm.
Đảng ta đã sớm nhận thức ra những thiếu sót, khuyết điểm và tự nhận
khuyết điểm trước nhân dân, đã sửa chữa và sửa chữa có kết quả, đem lại lòng
tin của nhân dân với Đảng. Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi
mới toàn diện vì chủ nghĩa xã hội, với quyết tâm và trí tuệ của toàn Đảng, sự
tham gia tích cực của nhân dân, công cuộc đổi mới ở nước ta trong hơn 17
năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, khẳng
định đường lối đổi mới là đúng đắn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng khẳng định: "Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành
công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc có điều
kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch
sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội".
Xét trên cơ sở lý luận và thực tiễn, cả tình hình trong nước và kinh nghiệm
quốc tế, muốn thay đổi căn bản cuộc sống của người lao động từ kiếp nô lệ làm
thuê trở thành người làm chủ, không có con đường nào khác ngoài con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội. Mọi con đường khác đều không được nhân dân ta chấp
nhận. Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần kiên định vững vàng với mục tiêu, lý
tưởng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
V.Đánh giá:
CMXHCN là cuộc cách mạng được chủ nghĩa tư bản chuẩn bị sẵn.
Những mâu thuẫn toàn diện và gay gắt trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa là
tiền đề khách quan của CMXHCN. Sự liên minh chính trị của giai cấp công
nhân với các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động là lực lượng cơ bản để
giành thắng lợi cho CMXHCN. Các lực lượng chính trị cách mạng được hình
thành trên cơ sở kinh nghiệm chính trị của chính đội quân chính trị của quần
chúng, kinh nghiệm đó giáo dục quần chúng đoàn kết họ xung quanh giai cấp
công nhân. Trong quá trình chuẩn bị, nhân tố chủ quan giữ vai trò chủ yếu
quyết định thắng lợi của CMXHCN là sự lãnh đạo của chính đảng tiên phong

của giai cấp công nhân. Tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể, nhất là tuỳ thuộc
thái độ chính trị của giai cấp thống trị, CMXHCN có thể diễn ra bằng các
phương thức khác nhau, có thể hoà bình hoặc bạo lực. Điều cơ bản là
CMXHCN phải dựa vào đông đảo quần chúng dưới sự lãnh đạo của chính
đảng cách mạng, có ý chí tiến công dũng cảm và sẵn sàng sử dụng các
phương thức thích hợp để giành lấy chính quyền. CMXHCN là một quá trình
có tính chất thế giới nảy sinh từ những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc với
tính cách là một hệ thống thế giới. Song do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
mang tính chất xung đột không đều cho nên ở các nước khác nhau những mâu
thuẫn này phát triển cũng không đồng đều, đã làm xuất hiện những khu vực
mâu thuẫn tập trung, gay gắt nhất; ở đó có những lực lượng chính trị - xã hội
của cách mạng đã trưởng thành sẽ dẫn đến sự xuất hiện tình thế cách mạng.
Đó là nguyên nhân khiến cho CMXHCN có thể nổ ra và thắng lợi không cùng
một lúc ở các nước khác nhau, thậm chí ở trong một nước riêng biệt. Với tính
cách là một quá trình thế giới, CMXHCN mang tính chất phức tạp và lâu dài,
trong đó quyện chặt với nhau là những phong trào cách mạng đa dạng về nội
dung và hình thức. Một số phong trào ấy tự nó không phải là phong trào
CMXHCN nhưng chúng góp phần phá huỷ nền tảng của chủ nghĩa đế quốc
thế giới nên chúng hoà vào một cách khách quan với quỹ đạo chung của quá
trình cách mạng thế giới. Ở các nước chậm phát triển, các nước thuộc địa và
nửa thuộc địa, nhiệm vụ chính trị trước mắt là phải lật đổ ách thống trị của
chủ nghĩa đế quốc và phong kiến, thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng dân
chủ tư sản. Trong thời đại mới sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917, ở một
số nước, giai cấp công nhân đã trưởng thành về chính trị có thể gánh lấy trách
nhiệm lịch sử lãnh đạo quần chúng thực hiện nhiệm vụ của cách mạng dân
chủ tư sản, thành lập nhà nước cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mở
đường chuyển lên CMXHCN, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Cách mạng
Việt Nam, cách mạng Cuba thuộc loại hình đó.
CMXHCN là một cuộc cách mạng sâu sắc và triệt để nhất trong lịch sử,
diễn ra lâu dài, quanh co và phức tạp, thậm chí có lúc tạm thời thất bại. Điều

cơ bản là sau khi giành được chính quyền, đảng tiên phong của giai cấp công
nhân phải kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, nắm vững bản chất cách mạng
và khoa học của chủ nghĩa Mac - Lênin, không ngừng bổ sung và phát triển
cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước mình và tình hình biến đổi
của thời đại, kiên quyết khắc phục giáo điều trì trệ, chủ quan duy ý chí, đấu
tranh chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh dưới mọi màu sắc, giữ vững quyền
lãnh đạo của giai cấp công nhân và luôn luôn gắn bó với nhân dân, với dân
tộc để thực hiện một cách triệt để và sáng tạo cải biến cách mạng toàn diện
nhằm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, toàn dân đã đoàn kết
trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, tiến hành thắng lợi cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mở đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là
một quá trình cải biến lâu dài, sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ
đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, và kiến
trúc thượng tầng. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một chế độ xã hội do nhân
dân lao động làm chủ, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền
văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống
ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc
trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới (Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội).

×