Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Mồ mả và xâm phạm mồ mả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.31 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
I. Khái niệm 3
1. Mồ mả và xâm phạm mồ mả 3
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 3
II. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả. 4
1. Cơ sở pháp lý 4
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm
mồ mả.
5
3. Nội dung trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả. 8
III. Thực trạng của vấn đề xâm phạm mồ mả và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả.
12
1. Một số khó khăn khi giải quyết tranh chấp liên quan đến hành vi
xâm phạm mồ mả.
12
2. Một số vụ việc về xâm phạm mồ mả trên thực tế và tầm quan trọng
của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả hiện nay.
15
3. Hướng hoàn thiện pháp luật. 16
LỜI KẾT
17
LỜI MỞ ĐẦU


1
Trong những năm gần đây, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Song đi kèm với thành tựu


đó là một số vấn đề bất cập trong đời sống xã hội mà một trong số đó là hiện
tượng xâm phạm mồ mả. Đây là hiện tượng xã hội tiêu cực, đáng lên án, được dư
luận hết sức quan tâm. Cho dù ai đó có hành vi xâm phạm mồ mả của người chết
là do lỗi cố ý hay vô ý đều khiến cho dư luận xã hội hết sức quan tâm, đặc biệt là
ở các địa phương và các miền quê. Nhưng hành vi xâm phạm mồ mả đó có
bị pháp luật xử lý hay không hoặc xử lý thì phải xử lý ra sao, trách nhiệm bồi
thường như thế nào, đó là vấn đề mà tôi chọn để tìm hiểu trong đề tài này.
NỘI DUNG

I. Khái niệm
1. Mồ mả và xâm phạm mồ mả.

Theo vi.wikipedia.org/ Mồ mả là nơi người chết được chôn cất hay còn được
hiểu theo là nơi người chết an nghỉ theo hình thức địa táng(chôn xuống đất). Đây
là một phương thức táng người đã khuất phổ biến toàn thế giới theo hình thức
2
địa táng, mộ thường nằm tập trung ở các nghĩa địa (nghĩa trang) hoặc nằm riêng
lẻ, với xác người chết hoặc tro đốt xác chôn bên dưới. Còn xâm phạm mồ mả là
hành vi xâm phạm đến vị trí mai tang xác, hài cốt, tro hài cốt của người chết theo
phong tục, nghi lễ, tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng dân cư. Chính hành vi
xâm phạm mồ mả này đã làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Hành vi xâm phạm mồ mả đã làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do xâm phạm mồ mả - trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vậy
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là gì? Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên
các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho
các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng phát sinh khi thỏa mãn các điều kiện:
- Có thiệt hại xảy ra. Có thể là thiệt hại về tài sản hay thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại; tổn thất về tinh thần.
- Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
- Có lỗi của người gây ra thiệt hại.
- Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
II. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả.
1. Cơ sở pháp lý.
3

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả được quy định tại điều
629 BLDS 2005: “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác gây thiệt hại đến mồ
mả của người khác phải bồi thường thiệt hại. Thiệt hại do xâm phạm mồ
mả gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại.”.
Cha ông ta có câu: “sống cái nhà, già cái mồ” . Khi còn sống công dân được
pháp luật bảo vệ về chỗ ở và khi chết đi cũng được pháp luật bảo vệ ở “nơi an
nghỉ cuối cùng”. Cụ thể tại Điều 246 Bộ Luật Hình sự có quy định về tội xâm
phạm thi thể, mồ mả, hài cốt. Theo đó, ngưòi nào đào phá mồ mả, chiếm đoạt
những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ hoặc có hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ
mả, hài cốt thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba
tháng đến hai năm. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ một năm
đến năm năm. Bên cạnh đó, đối với luật dân sự, lần đầu tiên ở nước ta, BLDS
2005 đã quy định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả tại điều 629. Quy
định này thật sự phù hợp với đời sống thực tế, khi cuộc sống luôn luôn biến động
và pháp luật luôn cần bám sát với thực tiễn. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN đang phát triển ở nước ta, việc mở rộng những khu
công nghiệp mới, khu nhà chung cư, mở rộng đô thị, mở rộng hệ thống đường
giao thông, sân bay, bến cảng, các khu công nghiệp…, cùng với việc giải phóng
mặt bằng để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Bên cạnh sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân, các công ty

liên doanh, hợp doanh và kinh tế của hộ gia đình, của cá nhân cũng không ngừng
phát triển theo. Nhu cầu mở rộng mặt bằng kinh doanh, làm kinh tế cá thể, tiểu
chủ cũng rất phát triển ở nước ta. Từ những điều kiện sản xuất, kinh doanh và
giải phóng mặt bằng xây dựng cở sở hạ tầng, có những trường hợp chủ thể đầu
tư, xây dựng đã vô tình hay cố ý xâm phạm đến mồ mả của người khác. Bên
cạnh đó là một số trường hợp một số cá nhân không kinh doanh, sản xuất xâm
4
phạm mồ mả của người khác với lý do bất chính, trái đạo đức. Những trường
hợp xâm phạm mồ mả của người khác thường phát sinh trong đời sống thực tế
không phải là cá biệt, hữu hạn mà thậm chí ở nơi này, nơi khác đã xảy ra khá
phổ. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả là trách nhiệm pháp lý đặc biệt vì
hành vi xâm phạm mồ mả, đồng thời xâm phạm về nhân thân và xâm phạm về
tài sản.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ
mả.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả phát sinh phải thỏa
mãn các điều kiện:
- Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra. Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại bởi mục đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình
trạng tài sản cho người bị thiệt hại, do đó không có thiệt hại thì không đặt vấn đề
bồi thường cho dù có đầy đủ các điều kiện khác. Ở đây, là những thiệt hại về tài
sản và thiệt hại về tổn thất tinh thần cho những người thân thích của cá nhân có
mồ mả.
- Thứ hai, hành vi xâm phạm mồ mả luôn luôn được xác định là hành vi trái pháp
luật. Hành vi xâm phạm mồ mả không những trái đạo đức mà còn trái pháp luật,
nếu hành vi đó được xác định là hành vi xâm phạm đến nơi an nghỉ cuối cùng
của cá nhân người chết, đều bị coi là hành vi xâm phạm mồ mả. Việc xác định
hành vi xâm phạm mồ mả là một việc rất quan trọng vì việc xác định đó là căn
cứ pháp lý để xác định trách nhiệm dân sự của người có hành vi xâm phạm hay

5
không bị coi là xâm phạm mồ mả của cá nhân. Việc xác định xem đó có phải là
hành vi xâm phạm mồ mả hay không có thể dựa vào một số dấu hiệu:
+ Một người có hành vi cho dù với bất kỳ mục đích gì mà xâm phạm trực tiếp
đến xác, hài cốt, tro hài cốt hoặc làm hao hụt hài cốt, tro hài cốt đã mai táng thì
hành vi đó là hành vi xâm phạm mồ mả. Như vậy đây là dấu hiệu quan trọng để
phân biệt với hành vi xâm phạm đến thi thể điều 628 BLDS. Cần biết rằng, xác,
hài cốt, tro hài cốt ở đây đã được mai táng, đây là những yếu tố cấu thành nên
ngôi mộ. Vì thế xâm phạm xác, hài cốt nằm trong ngôi mộ là xâm phạm mồ mả
chứ không phải xâm phạm thi thể.
+ Người có hành vi di chuyển vị trí chôn cất xác, chôn hài cốt, tro hài cốt của cá
nhân trái với ý chí của người thân thích của người chết (ngoại trừ trượng hợp
phải di dời mồ mả theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ).
+ Người có hành vi thay đổi tấm bia ghi tên của người chết có xác, hài cốt, tro
hài cốt dưới mộ, gây ra sự nhầm lẫn đối với người thân thích của người chết đó.
+ Người có hành vi sản phẳng mồ mả của người chết, làm mất dấu tích của ngôi
mộ, khiến không thể phát hiện được vị trí của ngôi mộ đó.
Khi hành vi của người xâm phạm mồ mả có một trong các dấu hiệu trên là căn
cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm mồ mả.
Căn cứ vào một trong bốn dấu hiệu trên, người gây thiệt hại có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại những chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại. Khi xác
định hành vi xâm phạm mồ mả còn cần phải hiểu theo nghĩa rộng, đó là hành vi
xâm phạm đến không gian, phạm vi, hình dáng ngôi mộ. tường rào bao bọc xung
quanh ngôi mộ. Bởi vì, vị trí ngôi mộ được xây dựng có mối liên hệ hữu cơ với
mục địch giữ gìn, bảo vệ xác, hài cốt, tro hài cốt của người có ngôi mộ đó, do
vậy mọi hành vi làm biến dạng những những vật kiến trúc liên quan đến mục
đích bảo vệ bảo vệ người đã chết được nguyên vẹn, đều bị coi là hành vi xâm
phạm mồ mả. Ngoài ra, cần phải phân biệt với những hành vi không bị coi là
6
xâm phạm mồ mả nhưng thuộc trách nhiệm dân sự khác. Hành vi bịa đặt những

giai thoại, tin tức thất thiệt hoặc quá đáng gây tổn hại đến danh dự của người có
mồ mả khi còn sống; tạo ra những dư luận không có lợi hoặc làm giảm sút uy
tín, danh dự của người có mồ mả khi còn sống cũng là hành vi trái pháp luật,
nhưng không thuộc hành vi xâm phạm mồ mả.
- Thứ ba, yếu tố lỗi. Điều 604 BLDS quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô
ý…mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường”. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý
của người có hành vi gây ra thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hay vô ý.
Người xâm phạm mồ mả cho dù có lỗi cố ý hay vô ý đều phải chịu trách nhiệm
dân sự ( xét về hậu quả của hành vi xâm phạm mồ mả).
- Thứ tư, hành vi xâm phạm mồ mả có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại về tài
sản của những người thân thích của cá nhân có mồ mả, đồng thời cũng là hành vi
xâm phạm đến quyền nhân thân gắn liền với cá nhân có mồ mả.
Như vậy, hành vi xâm phạm mồ mả thỏa mãn 4 điều kiện trên thì người xâm
phạm có trách nhiệm dân sự về tài sản và nhân thân đối với những người thân
thích của người có mồ mả.
3. Nội dung trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả.

Theo điều 629 BLDS 2005: “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác gây thiệt hại
đến mồ mả của người khác phải bồi thường thiệt hại”. Việc bồi thường thiệt hại
do xâm phạm mồ mả trước hết áp dụng theo nguyên tắc bồi thường thiệt hại tại
điều 605 BLDS 2005: “1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời.
7
Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền,
bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần
hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc
người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác thay đổi mức bồi thường.”

Bên cạnh đó, để hiểu sâu sắc hơn vấn đề này, ta sẽ xem xét nội dung cụ thể
của việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả.
3.1. Người xâm phạm mồ mả chịu trách nhiệm về tài sản.
Thiệt hại về tài sản do hành vi xâm phạm mồ mả gây ra là phần thiệt hại về tài
sản liên quan đến những chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại. Tính hợp
lý khi xác định thiệt hại về tài sản liên quan đến mồ mả của một người bị xâm
phạm được xác định trên cơ sở những thiệt hại thực tế. Những thiệt hại về tài sản
khi mồ mả bị xâm phạm là những chi phí mua vật liệu xây dựng và những chi
phí hợp lí khác cho việc xây dựng mồ mả (chi phí về tiền công xây dựng mồ
mả…). Những vật liệu xây dựng mồ mả thông thường gồm số gạch đất nung, đá
nhân tạo, đá tự nhiên, cát, vôi, xi măng, sắt thép, sơn, bia đá, bia đồng, bia xi
măng cốt thép, gỗ, tấm lợp, ngói…, đã bị người xâm phạm mồ mả gây thiệt hại,
xác định được bằng một khoản tiền vào thời điểm bồi thường thiệt hại. Bồi
thường thiệt hại về mồ mả do phần tài sản ( vật chất ) bị xâm phạm cũng theo
nguyên tắc gây thiệt hại bao nhiêu thì người gây thiệt hại phải bồi thường bấy
nhiêu ( bồi thường toàn bộ thiệt hại). Như vậy, bồi thường thiệt hại về mồ mả
( phần tài sản) cũng tuân theo nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, do hành vi xâm phạm mồ mả mà gây thiệt hại về tài sản. Những chi
8

×