Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.76 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................................................................1
NỘI DUNG..........................................................................................................................................................2
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.............................................................................................................................2
1. Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự......................................2
2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự......................................2
II. NỘI DUNG NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ.........................................................................3
1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự.......................3
2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và thoả thuận với nhau về
việc giải quyết vụ việc dân sự. ...................................................................................................................5
3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết định của toà án................................................................6
4. Một số quyền khác thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự ...........................7
5. Trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự ..................................................................................................................................................8
III. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TỰ ĐỊNH
ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.................................................................................8
1 Thực tiễn thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự .......................8
2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự . 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................11
1
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.
1. Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự (QTĐĐCĐS) trong TTDS là nguyên tắc cơ bản
của luật TTDS Việt Nam, theo đó đương sự (ĐS) được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong
việc lựa chọn thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, quyết
định quyền, lợi ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách nhiệm của TA trong


việc bảo đảm cho ĐS thực hiện được quyền tự định đoạt của họ trong TTDS.
2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
2.1 Cơ sở lí luận của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
Trong TTDS, nguyên tắc QTĐĐCĐS thể hiện ở khả năng những người tham gia tố tụng tự do
định đoạt các quyền dân sự của mình và các quyền về phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp bị xâm hại. Có thể thấy rằng nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS chính là các quyền
được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức, được phái sinh bởi các nguyên tắc trong
giao lưu dân sự do pháp luật nội dung quy định.
Mặt khác nguyên tắc QTĐĐCĐS được đặt ra do yêu cầu bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự.
Theo như quy định tại Điều 9 BLTTDS thì đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay
người khác có đủ điều kiện theo quy định của BLTTDS bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
TA có trách nhiệm bảo đảm cho ĐS thực hiện quyền bảo vệ của họ. Pháp luật cho phép ĐS có
quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Và để bảo đảm cho ĐS bảo vệ được quyền và lợi
ích hợp pháp của mình thì pháp luật phải có những quy định nhằm giúp ĐS thực hiện tốt quyền này.
ĐS sẽ có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu TA giải quyết vụ việc dân sự khi quyền và lợi ích của
mình bị xâm phạm. Việc khởi kiện và yêu cầu này hoàn toàn dựa trên sự tự do ý chí của ĐS. Hơn
nữa, để bảo đảm được quyền bảo vệ của ĐS, pháp luật còn quy định trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự các ĐS được quyền chấm dứt, thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu, được quyền tham gia
phiên toà… Nếu không có những quy định về QTĐĐCĐS trong TTDS thì sẽ không thể bảo đảm
được việc thực thi nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của ĐS. Chính vì vậy mà pháp luật TTDS đã
đưa ra quy định về nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS tại Điều 5 BLTTDS. ĐS được quyền tự
mình quyết định việc khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. Đây là một trong những
quyền tố tụng quan trọng của ĐS, nhờ vào quyền tự định đoạt này mà ĐS được quyền chủ động
trong việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, các vụ việc dân sự sẽ được giải
quyết một cách nhanh chóng, đúng đắn và khách quan hơn. Cho nên, việc ghi nhận QTĐĐCĐS
trong tố tụng dân sự là một vấn đề cấp thiết.
2.2 Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
Khi các tranh chấp dân sự xảy ra trong đời sống xã hội, bên nào nhận thấy quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm thì phải tiến hành khởi kiện hoặc yêu cầu Toà án giải quyết vụ việc dân
sự. Nếu người có quyền và lợi ích bị xâm phạm không yêu cầu TA giải quyết thì TA không được

quyền giải quyết. Việc khởi kiện, hoặc yêu cầu nêu trên hoàn toàn dựa trên sự tự do ý chí của họ.
Một khi đã nhận được yêu cầu của ĐS thì TA phải tiến hành xem xét và giải quyết vụ việc để đảm
bảo quyền lợi cho người có quyền và lợi ích bị xâm phạm. Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề này còn
rất nhiều bất cập. Một mặt, người dân không có hiểu biết về pháp luật, nên không biết là mình có
2
quyền yêu cầu TA giải quyết khi nhận thấy quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Hoặc có trường
hợp có yêu cầu nhưng ĐS lại hiểu sai quy định của pháp luật nên yêu cầu đó là trái pháp luật và đạo
đức xã hội. Và còn nhiều trường hợp, ĐS đưa ra yêu cầu không đầy đủ. Vì vậy, cần phải quy định
ĐS hoàn toàn có quyền chấm dứt, thay đổi, hoặc bổ sung yêu cầu. Mặt khác, bên cạnh đó, từ phía
TA cũng còn tồn tại nhiều sai sót. Có trường hợp, nhận được yêu cầu của ĐS mà TA vẫn không tiến
hành giải quyết hoặc là TA giải quyết không đúng, vượt quá phạm vi yêu cầu của ĐS. Vì vậy mà
việc quy định QTĐĐCĐS trong TTDS trong đó ghi nhận trách nhiệm của TA trong việc bảo đảm
QTĐĐCĐS là một yêu cầu cấp thiết. Cho nên BLTTDS năm 2004 đã đưa ra quy định về nguyên
tắc QTĐĐCĐS trong TTDS (Điều 5). Việc quy định QTĐĐCĐS là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn
khách quan. Góp phần bảo đảm được tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS, tăng cường pháp chế
XHCN.
II. NỘI DUNG NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ.
1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân
sự
Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS năm 2004 ĐS có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu
cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự. Theo Điều 60 BLTTDS bị đơn có quyền định đoạt
trong việc đưa ra yêu cầu phản tố. Và theo Điều 61 BLTTDS người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu đối với nguyên đơn, bị đơn.
1.1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết
việc dân sự
Thứ nhất, về QTĐĐCĐS trong việc khởi kiện vụ án DS. Tại Điều 161 BLTTDS quy định: “Cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án
dân sự (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình”. Và theo Điều 162 BLTTDS quy định cụ thể về quyền khởi kiện vụ án

dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà
nước. Với các quy định đó, Nhà nước chính thức ghi nhận quyền khởi kiện vụ án DS của cá nhân,
cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và của các chủ
thể khác như cơ quan dân số, gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ, công đoàn… trong việc khởi
kiện yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Quyền khởi kiện vụ án dân sự là
quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa
rộng, khi họ cho rằng quyền lợi của họ bị xâm phạm. Việc ghi nhận quyền khởi kiện vụ án dân sự,
trước hết cho phép cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm hại hoặc có tranh chấp yêu
cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thực hiện quyền khởi kiện chính là một trong
những biểu hiện của nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS. Theo đó, ĐS được quyền tự định đoạt
trong việc khởi kiện vụ án dân sự, nộp đơn yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
hay của người khác.
Thứ hai, về quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Trong các việc dân sự,
không có tranh chấp trực tiếp giữa các bên. Thông thường trong các việc DS một bên công nhận
hay bác bỏ một quyền lợi hay thực hiện một trách nhiệm DS nào đó nên không xuất hiện khái niệm
bị đơn và nguyên đơn DS mà được thay thế bằng thuật ngữ người yêu cầu và người bị yêu cầu.
Người yêu cầu trong việc DS là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải quyết việc dân sự.
Việc tham gia tố tụng của người yêu cầu việc DS cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án DS.
Người yêu cầu trong vụ việc DS có lợi ích pháp lý độc lập nên được đưa ra yêu cầu cho TA giải
3
quyết như nguyên đơn trong VADS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên yêu
cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu TA công nhận hay không công nhận một sự kiện
pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền,
nghĩa vụ của họ. Quyền yêu cầu giải quyết việc DS là một trong những quyền cơ bản của ĐS trong
TTDS. Việc BLTTDS ghi nhận quyền này của ĐS đã góp phần thể hiện việc thực thi nguyên tắc
QTĐĐCĐS trong TTDS thực tế. Từ các phân tích trên cho thấy quyền khởi kiện vụ án DS và quyền
yêu cầu giải quyết việc DS là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể, là cơ sở pháp lý làm phát
sinh quan hệ pháp luật TTDS, không có hành vi khởi kiện, hành vi yêu cầu giải quyết vụ việc DS
thì cũng không có quá trình TTDS cho các giai đoạn tiếp theo. Quy định này xuất phát từ trách
nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với việc bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp trong xã hội,

thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với cá nhân con người. Tuy nhiên, để việc thực hiện trách
nhiệm của xã hội không làm xâm phạm đến những vấn đề riêng tư mang tính chất cá nhân, chỉ một
số những vụ án nhất định thì pháp luật mới quy định những người không phải là cá nhân, cơ quan,
tổ chức bị xâm phạm hoặc người đại diện hợp pháp của các chủ thể này mới có quyền khởi kiện.
Đây là phương thức đặc trưng trong việc thực hiện quyền tự định đoạt trong TTDS được thể hiện
bằng việc ĐS có thể hành động ngay tức khắc để tự bảo vệ các quyền DS của mình tránh nguy cơ
xâm phạm xảy ra như khởi kiện đòi lại tài sản hoặc khởi kiện yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái
pháp luật…
1.2. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn.
Về quyền yêu cầu phản tố, nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi kiện và nội dung
khởi kiện thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Trong TTDS, phản
tố được hiểu là việc bị đơn khởi kiện ngược lại nguyên đơn về một quan hệ pháp luật khác với quan
hệ pháp luật nguyên đơn đã khởi kiện bị đơn, nhưng có liên quan đến quan hệ pháp luật mà nguyên
đơn đã khởi kiện. BLTTDS năm 2004 đã dành một số điều luật quy định cụ thể về quyền phản tố
của bị đơn trong TTDS, cụ thể tại điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS quy định bị đơn có quyền đưa
ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị
đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Ngoài ra BLTTDS cũng quy định cho bị đơn có quyền bác bỏ
yêu cầu theo luật nội dung và bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng. Sự bác bỏ yêu cầu theo luật nội dung
là sự giải thích và lập luận của bị đơn về tính không có căn cứ của yêu cầu khởi kiện về mặt pháp lý
cũng như về mặt thực tế. Sự bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng là sự lý giải và chứng minh của bị đơn
về tính không hợp pháp của việc giải quyết vụ án hoặc là về sự vi phạm thủ tục tố tụng trong việc
thụ lý và giải quyết vụ án. Với việc quy định quyền phản tố, quyền bác bỏ của bị đơn đối với yêu
cầu của nguyên đơn là thể hiện sự ghi nhận của pháp luật đối với QTĐĐCĐS.
1.3 Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Trong TTDS, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng
vào vụ án DS đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
nên cũng có quyền đưa ra yêu cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Việc tham gia tố
tụng của họ trong vụ án DS là do họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến VADS. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm hai loại là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quant ham gia tố tụng
độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc

bị đơn. Theo quy định tại Điều 177 BLTTDS thì trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc
lập khi có các điều kiện sau đây: Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ liên của
họ; yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết và yêu cầu độc lập của họ
được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
4
Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập với nguyên đơn, bị đơn hay nói cách khác người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa
những người kahcs để bảo vệ quyền, lợi ích độc lập của mình đối với đối tượng tranh chấp mà TA
đang xem xét và giải quyết. Trong vụ án DS lợi ích pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý của nguyên đơn, bị đơn nên yêu cầu
của họ có thể chống cả nguyên đơn, bị đơn. Có thể thấy rằng việc quyết định có tham gia vào vụ
kiện đã phát sinh giữa nguyên đơn, bị đơn hay không phải tuỳ thuộc vào sự lựa chọn và tự định
đoạt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập. Còn người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham
gia tố tụng phụ thuộc vào nguyên đơn hoặc bị đơn, lợi ích pháp lý của họ bị phụ thuộc vào nguyên
đơn, bị đơn nên việc tham gia tố tụng của họ bị phụ thuộc vào nguyên đơn và họ không có các
quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, bị đơn được. Tuy vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan tham gia tố tụng không độc lập cũng có quyền cùng nguyên đơn hoặc bị đơn thoả thuận
với bên đương sự kia được, không có quyền thừa nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của
bên đương sự kia. Đối với người có liên quan trong việc dân sự là người tham gia tố tụng vào việc
dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trả lời về những vấn đề liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Việc tham gia tố tụng của họ cũng giống như việc tham gia tố tụng của
người có liên quan trong vụ án dân sự có thể do họ chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự khác
hoặc theo yêu cầu của TA.
2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và thoả
thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự.
2.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu
Bằng phương thức khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, người yêu cầu đã thực

hiện việc yêu cầu TA có thẩm quyền giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khi
ĐS thực hiện hành vi khởi kiện, yêu cầu thì họ hoàn toàn có quyền quyết định các hành vi tố tụng
tiếp theo của mình. ĐS có quyền chấm dứt, thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu của mình. Tuy nhiên, tuỳ
thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà việc thay đổi, bổ sung yêu cầu có thể được TA chấp nhận hay
không chấp nhận. Trước khi mở phiên toà thì quyền này là quyền tuyệt đối của ĐS, theo đó ĐS có
thể thay đổi, bổ sung yêu cầu tuỳ ý. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 218 BLTTDS thì tại phiên
toà việc thay đổi yêu cầu chỉ được chấp nhận nếu không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Trước khi mở phiên toà xét xử sơ thẩm, BLTTDS không
có quy định giới hạn phạm vi thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy,
nguyên đơn có thể thay đổi, bổ sung đối tượng khởi kiện, thay đổi, bổ sung những yêu cầu mới đối
với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo quy định tại Mục 6 Phần III Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục
giải quyết vụ án tại toà án cấp sơ thẩm” của BLTTDS thì tại phiên toà xét xử sơ thẩm, việc thay đổi,
bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bị giới hạn là không được vượt quá so với phạm vi yêu
cầu ban đầu.
Đối với việc rút đơn khởi kiện, rút đơn yêu cầu trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thể được TA
chấp nhận. Theo nguyên tắc chung việc rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu là hành vi định đoạt của
nguyên đơn, người yêu cầu được biểu hiện ở hai khía cạnh đó là sự từ bỏ yêu cầu (dựa trên luật nội
dung) và là sự từ bỏ phương tiện bảo vệ yêu cầu bằng con đường tố tụng (thông qua TA). Nguyên
đơn có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện (điểm b khoản 1 Điều 59 BLTTDS). Người
yêu cầu trong việc dân sự cũng có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình. Theo quy định
5

×