Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN Nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.05 KB, 21 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN
LỊCH SỬ THPT”
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nội dung các khóa trình Lịch sử ở trường Trung học phổ thông là cung

cấp cho
học sinh những vốn hiểu biết phổ thông, cơ bản vững chắc về sự phát triển

của xã hội
loài người và dân tộc, làm cơ sở để rút ra những kết luận khoa học về

các quy luật vận
động, phát triển của xã hội; rút ra những bài học kinh nghiệm lịch

sử bổ ích. Giúp cho
học sinh nhận thức đúng con đường loài người đã, đang và sẽ

tiếp tục trải qua. Trên cơ
sở đó giúp học sinh dần hình thành thế giới quan khoa

học, góp phần tích cực vào việc
giáo dục đạo đức, niềm tin, truyền thống của dân

tộc.
Để dạy và học tốt môn Lịch sử ở hệ trung học phổ thông, giúp học sinh

yêu thích
môn học thật sự là công việc rất khó khăn. Trong khi sách giáo khoa Lịch



sử còn nhiều
chổ bất cập, kiến thức sai, diễn đạt dài dòng, nhiều sự sự kiện trong

một tiết học. Học
sinh ngày càng không quan tâm đến môn học
Theo quy định của Bộ giáo dục và đào tạo về việc dạy học khối THPT

là tích
cực phát huy tính tự giác, khả năng sáng tạo của học sinh trong quá trình

tiếp cận
kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Đồng thời đối với trường

chuyên phải
nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi. Hướng dẫn học sinh tự

nghiên cứu khoa
học, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ phù hợp với

điều kiện của trường
và tâm sinh lý học sinh. Đây là một quá trình có thể nói là sự

tương tác mang tính tích
cực giữa thầy và trò trong quá trình dạy và học.
Cho đến nay, trên khắp cả nước, việc dạy học ở trường THPT chuyên

vẫn
mang nặng yếu tố truyền thống trong nền giáo dục Việt Nam. Học sinh vẫn bị


động
trong quá trình tiếp cận kiến thức. Dạy học nhằm phát huy tính chủ động, tích

cực lấy
“học sinh làm trung tâm” vẫn chưa được đẩy mạnh, hiệu quả thực hiện còn

thấp. Dẫn
đến trình độ của giáo viên, chất lượng học sinh không được nâng cao.
Kết quả kỳ thi tốt nghiệp môn Lịch sử, kỳ thi tuyển sinh đại học, các kỳ thi học
sinh giỏi cấp tỉnh, cấp Quốc gia nhiều năm cho thấy chất lượng môn Lịch sử có
nhiều biểu hiện giảm sút. Học sinh chưa nhận thức đúng đắn về môn học. Hầu hết

học
sinh đều quan niệm học lịch sử chỉ cần học thuộc lòng; chuẩn bị cho kỳ thi chỉ

là nhồi
nhét kiến thức, học tủ, học vẹt
Từ năm học 1996-1997, Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định hàng năm

đều tổ
chức cho học sinh THPT thi học sinh giỏi môn lịch sử. Nó thể hiện sự quan

tâm của
Nhà nước- Bộ Giáo dục về tác dụng của môn lịch sử trong việc bồi dưỡng,

giáo dục thế
hệ trẻ. Vậy, bằng cách nào để học giỏi và trở thành học sinh giỏi môn

lịch sử. Biện
pháp, phương pháp nào giúp các em đạt được điều mong ước đó?

Từ những căn cứ trên, thì việc dạy học- đào tạo, bồi dưỡng học sinh

giỏi, tài
năng môn Lịch sử đóng một vai trò hết sức quan trọng. Do đó việc tiếp tục

tìm ra
những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác dạy học đặc thù này là hết

sức cần
thiết. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài:

“Một số
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch

sử khối
trung học phổ thông chuyên” làm sáng kiến kinh nghiệm năm 2011.
2. Lịch sử vấn đề
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu phương pháp dạy học Lịch sử
được chú trọng quan tâm. Tại Đại hội của các nhà sử học trên thế giới do Ủy ban
Quốc tế khoa học Lịch sử tổ chức đã thu hút sự tham gia của nhiều học giả, chuyên

gia
nghiên cứu, giảng dạy có uy tín trên nhiều nước.
Tại Đại hội lần thứ XV năm 1980, tiểu ban Giáo dục lịch sử đã thảo luận sôi

nổi
vấn đề: “Ý nghĩa của việc dạy học lịch sử đối với việc hình thành con người

thế kỷ
XX”. Hầu hết họ đều cho rằng, trong thời đại cách mạng khoa học- kĩ thuật,


bộ môn
lịch sử ở trường phổ thông không những vẫn giữ nguyên, mà còn cần phải

tăng thêm
vị trí cho nó. Trên quan điểm đó, nhà sử học Xô viết Pausutô khẳng

định: “Muốn
đào tạo con người phù hợp với thời đại chúng ta, cần phải không ngừng cải tiến và
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Cuộc cách mạng khoa học-

kĩ thuật, sự hứng thú,
hấp dẫn ngày càng tăng đối với hiện tại không hề làm giảm

bớt sự chú ý của chúng ta
đối với việc dạy học lịch sử. Chính lịch sử là bằng chứng

hiển nhiên về sự toàn thắng
của công cuộc xây dựng, sáng tạo đối với sự tàn phá,

chiến thắng của hòa bình đối với
chiến tranh, sự gần gủi, hiểu biết của các dân tộc

về văn học và các mặt khác, khắc
phục tình trạng biệt lập”. {7; 18}
Đồng thời, UNESCO cũng công bố nhiều tài liệu về Phương pháp dạy học

lịch
sử như: Sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử, sử dụng các phương tiện kĩ


thuật
hiện đại, đặc biệt là phương tiện nghe nhìn đây là cơ hội để nhà nghiên cứu,

nhà giáo
dục lịch sử có điều kiện học tập, trao đổi lẫn nhau.
Ở Việt Nam, phải từ sau năm 1975 thì việc nghiên cứu các phương pháp,

biện
pháp dạy học lịch sử mới phát triển khá mạnh mẽ. Trên các tạp chí của ngành

giáo dục:
Tạp chí nghiên cứu giáo dục, Tập san phổ thông cấp II, cấp III, Thông

báo khoa học
của các trường Đại học Sư phạm đã công bố nhiều luận văn, bài viết

có giá trị cả về lý
luận lẫn thực tiễn. Nhà Xuất bản Giáo dục, các trường đại học sư

phạm cũng phát hành
nhiều tài liệu đề cập một cách có hệ thống các vấn đề về biện

pháp, phương pháp dạy
học, nâng cao chất lượng môn lịch sử: Vị trí của dạy học

lịch sử ở trường phổ thông,
Gây hứng thú học tập lịch sử, Phương pháp học tập

lịch sử, Sử dụng tài liệu của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử, Công tác


ngoại khóa, thực hành môn lịch sử ở
trường phổ thông, Phát triển tư duy học sinh

trong dạy học lịch sử
Gần đây, tháng 2 năm 1997 Vụ Trung học phổ thông ban hành tài liệu Tập

huấn
giảng dạy môn lịch sử dành cho cán bộ chỉ đạo và giáo viên chuẩn bị cho học

sinh
tham gia kỳ thi quốc gia. Giáo sư Phan Ngọc Liên đã có bài viết dài tới 23

trang:
“Một số vấn đề phương pháp bồi dưỡng học sinh học giỏi môn lịch sử ở

trường
THPT” đầy bổ ích. Trong bài viết này, Giáo sư đã đề cập đến hai điểm:

Cần nhận
thức đúng về học tập lịch sử; xác định phương pháp học tập giỏi môn

lịch sử, với các
biện pháp, con đường, phương tiện có hiệu quả cao.
Năm 1999, Hội giáo dục lịch sử (thuộc Hội khoa học lịch sử Việt Nam)-
Khoa Lịch sử trường Đại học sư phạm hà Nội) đã cho ra mắt bạn đọc tác phẩm của

tập
thể tác giả: Nguyễn Thị Côi, Trần Bá Đệ, Nguyễn Tiến Hỷ, Đặng Thanh Toán,


Trịnh
Tùng: “Hướng dẫn ôn tập và làm bài thi môn lịch sử” dày 428 trang. Cuốn

sách giúp
học sinh học tập, ôn thi môn lịch sử đạt kết quả tốt nhất nhờ tính chủ

động, sáng tạo
và những phương pháp học tập thích hợp.
Đến năm 2003, Hội giáo dục Lịch sử, Khoa Lịch sử trường Đại học sư phạm


Nội tiếp tục cho tái bản lần thứ 3 quyển sách: “Hướng dẫn thi đại học- cao

đẳng
môn lịch sử” dày 474 trang của tập thể tác giả do PGS. TS Trần Bá Đệ (chủ

biên).
Trong lời nói đầu, các tác giả đã khẳng định: “xuất phát từ nhận thức đúng

về bộ
môn, từ yêu cầu xác định những kiến thức cơ bản của các kháo trình lịch sử

Việt Nam
và Lịch sử thế giới, lựa chọn phương pháp học tập, ôn và làm bài có hiệu

quả, phù hợp
với yêu cầu học tập và ôn thi (tốt nghiệp, thi học sinh giỏi quốc gia,

tuyển sinh các
trường Đại học Cao đẳng. Chúng tôi không đặt cho mình nhiệm vụ


hướng dẫn học
sinh nắm chắc các đề thi cụ thể, mà trang bị cho các em những kiến

thức và phương
pháp cơ bản có thể ứng phó với mọi “tình hướng có vấn đề” trong

các kỳ thi”. {9 ;
tr3}.
3. Nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ
Trình bày một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử.
Nêu, phân tích khả năng ứng dụng của từng biện pháp cho từng kiểu bài, đề

tài
lên lớp, cũng như một số biện pháp nhằm nâng chất lượng giáo viên trực tiếp

giảng
dạy.
3.2. Mục tiêu
Góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử khối
THPT chuyên.
Giúp cấp quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh nhận thức đúng đắn vai trò

của
môn Lịch sử trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Trên cơ sở đó có cách thức

quản lý,
dạy - học sao cho hiệu quả nhất.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Sáng kiến kinh nghiệm là việc tìm ra, vận dụng

một
số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lịch sử trong khối THPT chuyên.
Những biện pháp này sẽ được ứng dụng cho từng bài học, kiểu bài lên lớp


bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp Quốc gia.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu, đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao

chất
lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử cho khối THPT chuyên trên đất

nước
Việt Nam hệ ba năm. Cơ sở để đưa ra giải pháp là thực trạng dạy - học, thi cử

môn lịch
sử hiện nay, chương trình sách giáo khoa lịch sử cơ bản, sách giáo viên

khối 10, 11,
12 và một số tài liệu tham khảo khác.
5. Đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm lần đầu tiên đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng bồi dưỡng học sinh giỏi, tài năng.
- Đây là một trong những sáng kiến đầu tiên trong việc đưa ra các biện pháp giúp

các
trường Trung học phổ thông chuyên trên khắp cả nước có kế hoạch xây dựng


chương
trình bồi dưỡng, dạy học sinh giỏi sao cho có hiệu quả nhất.
- Sáng kiến kinh nghiệm nêu lên quan điểm cần mạnh dạn cho phép học sinh được
tham gia nghiên cứu các công trình khoa học với thầy cô giáo; cần dạy học sinh
phương pháp học tập tích cực trước khi cung cấp kiến thức, giáo viên cần đưa ra
những quan điểm mới, nội dung khó mà từ trước tới nay giới sử học trong và ngoài
nước còn đang tranh luận để các em nhận định, đánh giá; quá trình dạy học chính
là quá trình rèn luyện về năng lực tư duy, phẩm chất đạo đức, chính trị cho học
sinh. Tránh những quan điểm của một số trường Trung học phổ thông chuyên bồi
dưỡng học sinh giỏi cốt chỉ đi thi giành giải cao.
- Ngoài ra, đây còn có thể là tài liệu cho các trường THPT chuyên và giáo viên mới

ra
trường ít có kinh nghiệm giảng dạy, nhất là khi lại được giao đảm nhiệm việc

bồi
dươngc học sinh giỏi, tài năng.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ
1.1. Chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên khối 10, 11, 12
1.1.1 Chương trình sách giáo khoa lớp 10
* Về hệ thống kiến thức khối 10
Trong phần giới thiệu "mục tiêu chương trình giảng dạy lịch sử lớp 10" các

tác
giả viết: Lịch sử thế giới được đưa vào giảng dạy ở lớp 10 với yêu cầu chung là

cung

cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản và tương đối hệ thống là ba thời kỳ

lịch sử
thế giới: Thời kỳ xã hội nguyên thuỷ, thời kỳ cổ đại, thời kỳ trung đại và để

thuận tiện
cho việc xắp xếp chương trình lịch sử toàn cấp, lịch sử lớp 10 cßn có

thêm" giai
đoạn đầu của thời Cận đại" ( điều này không khớp với nội dung chương

trình SGK
lịch sử lớp 10). ở đây các tác giả không chỉ trình bày "Thời kỳ cách

mạng tư sản và
bước phát triển của chủ nghĩa tư bản" mà cßn giới thiệu quá trình các nước tư bản chủ
nghĩa chuyển sang giai đoạn đế quốc, cũng như "Phong trào

công nhân thế giới cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XIX". Như vậy, các tác giả đã trình

bày gần như hầu hết phần
lịch sử thế giới Cận đại. Thế mà ở mục "về kiến thức"

tiếp đó lại viết: "Giúp cho học
sinh có hiểu biết về 3/4 thời kỳ lịch sử căn bản của

loài người ! Nếu tách xã hội
nguyên thuỷ thành một thời kỳ lịch sử, thì loài người


trải qua 5 thời kỳ lịch sử căn
bản: Thời kỳ nguyên thuỷ, thời kỳ cổ đại, thời kỳ

trung đại, thời kỳ cận đại và thời
kỳ hiện đại. Trong thực tế SGK đã giới thiệu bao

gồm 4/5 thời kỳ lịch sử, vì vậy yêu
cầu về mặt sư phạm đã bị phá vỡ trong việc

phân bổ chương trình.
Chính vì sai lầm đó, nên dù cố gắng biên soạn lại, SGK Lịch sử lớp 10 vẫn
không tránh khỏi sự ôm đồm không cần thiết. Thậm chí cßn gây mâu thuẫn trong

việc
dạy và học của giáo viên và học sinh: Học sinh chỉ được học 1 tiết/ tuần (học

kỳ I) và
2 tiết/ tuần (học kỳ II) nhưng phải gánh một khối lượng kiến thức lớn.
* Về nội dung kiến thức
Mặc dù đã cố gắng sửa chữa, nhưng nội dung kiến thức SGK vẫn cßn

thiên về
kể lể các sự kiện, thậm chí quá rườm rà, hành văn không hấp dẫn. Một bài

học sinh
phải nhớ đến 10 hoặc có bài phải nhớ tới 20 sự kiện không cần thiết. Gây

tâm lý nhàm
chán, cho học sinh ( ví dụ Bài 19 tr. 96 SGK cơ bản lớp 10).
Một số bài về kiến thức cßn sai lầm nghiêm trọng: Thể hiện ở các bài 29


SGV
đáng lẽ phải viết " sự phát triển của ngành dệt len " thì lại viết là " sự

phát triển
ào ạt của ngành dệt lụa sinh ra nhu cầu lớn của thị trường đối với lông

cừu "( tr149)
dệt lụa chắc chắn không dùng lông cừu!
Bài 30 về "Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ"

trong
sách giáo khoa lịch sử lớp 10 các tác giả viết: " Tuyên ngôn độc lập là một

văn kiện
có ý nghĩa lịch sử trọng đại Nhưng Tuyên ngôn không xoá bỏ chế độ nô

lệ cùng việc
bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động " (tr.149). ở đây các

tác giả đã
nhầm lẫn giữa bản chất của cuộc cách mạng Tư sản với bản chất của

cuộc cách
mạng Vô sản. C. Mác từng nói "Bản chất của cuộc cách mạng tư sản là chỉ thay một
hình thức bóc lột này bằng một hình thức bóc lột khác mà thôi!". Do đó làm gì có
chuyện giai cấp tư sản ở 13 bang thuộc địa Bắc Mĩ tuyên bố xoá bỏ

việc bóc lột giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Mặt khác bóc lột lao động


của các nô lệ ở các
bang thuộc địa miền Nam lúc bấy giờ là một trong những "đặc điểm của quá trình
tích luỹ nguyên thuỷ TBCN". Quá trình khách quan này dĩ

nhiên là tàn bạo, nhưng
là tiền đề không thể thiếu đối với sự ra đời của chủ nghĩa tư

bản. Tuyên ngôn độc lập
của 13 bang thuộc địa Bắc Mĩ không thể có chuyện hạn

chế được! Lưu ý, đây là tuyên
ngôn của cuộc cách mạng Tư sản chứ không phải là

tuyên ngôn của cuộc cách mạng
vô sản. Do đó khi dạy học đến phần này giáo viên

không nên buộc học sinh phải chỉ ra
những điểm hạn chế của Tuyên ngôn.
Về "Cách mạng tư sản Pháp": Về mốc kết thúc, vẫn có hai quan điểm,

thể hiện
trong giáo trình đại học và cao đẳng. Quan điểm thứ nhất, lấy cuộc đảo

chính tháng
Nóng (27/7/1794) làm mốc cuối và quan điểm thứ hai lấy cuộc chính

biến ngày 18
tháng Sương mù (9/11/1799) làm mốc kết thúc. Sự tồn tại của hai


quan điểm này ở
bậc đại học và cao đẳng cßn có thể chấp nhận được, nhưng ở bậc

phổ thông thì thật là
khó hiểu. Vậy mà SGK lịch sử lớp 8 các tác gải lấy mốc

27/7/1974 (tr.17) và trong
SGK lớp 10 lại lấy 9/11/ 1799 làm mốc kết thúc cuộc

cách mạng tư sản Pháp (mặc
dù cùng một chủ biên). Chính vì vậy đã gây sự hồ

nghi cho HS, cũng như nguyên
tắc "Theo chương trình đổi mới, bộ môn lịch sử ở

THPT nhằm giúp HS cũng cố và
nâng cao kiến thức cơ bản nhất đã học ở bậc

THCS" đã bị phá vỡ (SGV lịch sử lớp
10 tr.3).
SGV lịch sử lớp 10 viết " Cách mạng Pháp thực sự chấm dứt khi chế độ
Đốc Chính kết thúc vai trß (1799) " trong khi SGK trình bày làm cho người ta
tưởng là cách mạng mãi đến khi " chế độ quân chủ phục hồi" mới kết thúc
(tr.158).
SGV Lịch sử lớp 10 " Cách mạng Pháp thực sự chấm dứt khi chế độ Đốc
chính kết thúc vai trß (1799), mọi thành quả cách mạng bị bãi bỏ thế lực phản động
trở lại cầm quyền ở Pháp " (tr.161). Nếu thực sự là như vậy thì làm sao có thể gọi
Cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng tương đối triệt để là Đại cách

mạng được.

Bằng chứng, khi theo lưỡi gươm của quân Liên minh trở về cầm quyền

ở Pháp, Lui
XVIII buộc phải công bố một bản Hiến chương lập hiến (một bản hiến

Pháp do nhà vua
ban) thừa nhận những thành quả cơ bản của cách mạng như: Xoá

bỏ chế độ đẳng cấp,
công nhận quyền sở hữu ruộng đất đã được xác lập trong quá

trình cách mạng. Đây là
một sai lầm đáng tiếc, mà nếu giáo viên không nắm chắc

kiến thức thì dễ thể nhầm lẫn.
1.1.2. Chương trình lịch sử lớp 11
Ở chương trình Lịch sử khối 11ban cơ bản: 1 tiết x 35 tuần = 35 tiết. Trong
đó:
- Lịch sử thế giới cận đại (phần tiếp theo chương trình lịch sử lớp 10): 8 tiết;
- Lịch sử thế giới hiện đại (phần 1917- 1945): 11 tiết;
- Lịch sử Việt Nam từ 1858- 1918: 11 tiết;
- Lịch sử địa phương: 1 tiết;
- Củng cố kiểm tra 4 tiết.
Qua việc xây dựng chương trình lớp 11 cơ bản, chúng ta nhận thấy những

ưu
điểm như: về cấu tạo và phân kỳ lịch sử đều đảm bảo nguyên tắc phân kỳ theo

học
thuyết hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin; đảm bảo tính toàn


diện của
việc học tập lịch sử. Chương trình đề cập đến những vấn đề về đời sống

xã hội, văn
hóa, khoa học và được xem xét như một sự kiện lịch sử chứ không phải

nội dung của
khoa học chuyên ngành. Chương trình mặc dù gồm hai khóa trình:

lịch sử thế giới và
lịch sử dân tộc, song vẫn đảm bảo tính hệ thống, mối quan hệ lô

gíc giữa lịch sử Việt
Nam với lịch sử thế giới… Chương trình đặc biệt chú trọng

đến việc giáo dục tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, phù hợp với

quan điểm, mục tiêu giáo
dục. Tuy nhiên lịch sử 11 còn nhiều hạn chế, ví dụ: Bài

18 Ôn tập lịch sử thế giới
hiện đại (phần từ năm 1917-1945). Phần I. Những kiến

thức cơ bản về thế giới hiện
đại (1917-1945). Sau lời dẫn của tập thể tác giả SGK:

“Trong gần 30 năm (1917-
1945), nhiều sự kiện lịch sử đã diễn ra trên toàn thế giới Chúng ta cùng nhau ôn

tập các sự kiện lịch sử cơ bản theo hệ thống kiến

thức dưới đây”: Thời gian, sự kiện,
diễn biến chính, kết quả, ý nghĩa. Điều đáng

ngạc nhiên là Giáo sư Phan Ngọc Liên
(Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên) đã đưa sự

kiện cách mạng Dân chủ tư sản tháng 2
-1917 (diễn biến chính): Tổng bãi công

chính trị ở Pê- tơ- rô- grát, Khởi nghĩa vũ
trang, Nga Hoàng bị lật đổ vào phần

Lịch sử thế giới hiện đại. Không hiểu tác giả
lấy căn cứ nào? Nếu theo cách thức

phân kỳ Lịch sử thế giới hiện đại được đông đảo
giới sử học trong và ngoài nước

chấp nhận nhất thì mốc khởi đầu cho Lịch sử thế
giới hiện đại bắt đầu khi Cách

mạng tháng Mười Nga thành công, nhà nước Xô viết
đầu tiên trên thế giới xuất

hiện. hoặc ít ra là Đại chiến thế giới thứ nhất (1914-1918)
kết thúc. Đó là chư kể

đến sự nhầm lẫn cả về nội dung lẫn phương pháp. Ví dụ: Khởi

nghĩa vũ trang, đây

là hình thức, không phải là diễn biến; Nga Hoàng bị lật đổ là
kết quả của cách

mạng chứ không phải là diễn biễn
1.1.2. Chương trình lịch sử khối 12
Chương trình Lịch sử cơ bản lớp 12, mặc dù được đánh giá cao trong khi

thay
sách. Song, sách chứa một khối lượng kiến thức quá tải đối với học sinh, nếu

dạy theo
phân phối chương trình của Bộ Giáo dục & Đào tạo.
Theo đó Chương trình nội dung Lịch sử 12 nghiên cứu khoảng thời gian
ngắn nhất nhưng số tiết dạy nhiều nhất. Lịch sử 10 nghiên cứu hàng triệu năm với

1,5
tiết/1 tuần, Lịch sử 11 - 455 năm với 1 tiết/1 tuần, Lịch sử 12 chỉ nghiên cứu 55

năm
nhưng lại học tới 2 tiết/1 tuần (từ 1945 đến 2000) (Học kỳ I).
Chương trình nội dung Lịch sử 12 có sự gắn kết chặt chẽ giữa Lịch sử Thế

giới
và Lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới có tác động đến lịch sử dân tộc, nên các

sự kiện
của lịch sử dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong nước mà cßn có ý nghĩa


Quốc tế.
Bên cạnh đó Chương trình gắn liền với chính trị, nhiều sự kiện chịu ảnh hưởng
chi phối nhiều yếu tố chính trị. Điều đó tác động đến bài giảng, thi cử. Vì vậy, dạy
lịch sử 12 giáo viên phải chịu áp lực lớn hơn so với dạy sử khối 10 và 11,

nhưng yêu
cầu về nhận thức đßi hỏi cao hơn khối 10, khối 11.
Theo Tiến sĩ Hà Thị Minh Thuỷ trường Đại học sư phạm Thái Nguyên thì:
“Phần Lịch sử Việt Nam trong SGK Lịch sử 12 (mới) là phần Lịch sử Việt Nam từ
1919 đến nay. Đây là giai đoạn lịch sử rất gần với chúng ta, có nhiều sự kiện đang

tiếp
diễn. Thực tế học sinh đã học giai đoạn này ở lớp 9, đến lớp 12 học sinh tiếp

tục
được bổ sung một số kiến thức cần thiết và nâng cao hơn sự nhận thức về sự

kiện,
nhân vật lịch sử.
So với chương trình và SGK Lịch sử lớp 12 cũ (sách viết cách đây 16 năm do

GS
Đinh Xuân Lâm chủ biên), phần Lịch sử Việt Nam có nội dung kéo dài thêm 10

năm
(SGK cũ chỉ viết đến năm 1991, SGK mới viết đến năm 2000), nhưng với số

tiết học
giảm 1 tiết đối với chương trình nâng cao (39/40 tiết), giảm 8 tiết đối với


chương
trình chuẩn (32/40 tiết). Sách giáo khoa mới viết cô đọng hơn SGK cũ (trước đây 1 tiết
dạy được viết từ 5-8 trang, nay khoảng 3-5 trang) nhưng vẫn bảo đảm

tính hệ thống,
toàn diện, hiện đại, cập nhật và đổi mới. Một số sự kiện, niên đại,

nhận định đánh giá
có sự điều chỉnh bổ sung bảo đảm tính khách quan lịch sử”.
Một điều dễ nhận thấy chương trình sách giáo khoa lịch sử 10, 11, 12 đều
không có tiết bài tập, thực hành (SGK) để rèn luyện kĩ năng thực hành cho học

sinh
(chỉ có một vài tiết bài tập). Nhất là tiết ôn tập đó lại nhằm mô tả lại một trận

đánh,
một chiến dịch trên sơ đồ - lược đồ mà giáo viên hướng dẫn các em chuẩn bị

trước ở
nhà. Đó là chưa kể đến chất lượng in còn thấp, màu sắc đơn điệu, tranh

ảnh hầu hết
là màu đen trắng, do đó không thể diễn tả được giá trị nội dung, nghệ

thuật, những
thành tựu về kinh tế, chính trị, văn hoá: ( Bài 5, Bài 6, Bài 7, Bài 8

Bài 9, SGK lớp
10 cơ bản, hình 2, Bài 1 Nhật Bản, hình 24, Bài 9, trang 49, hình
54, Bài 20 , hình 73, Bài 23 SGK Lịch sử 11 ban cơ bản …).

Như vậy, ta thấy rõ ràng sách giáo khoa, sách giáo viên không thể làm chổ

dựa
cho học sinh học tốt môn Lịch sử, càng không thể giúp giáo viên nâng cao

trình độ
và phương pháp dạy học.
1.2. Thực trạng dạy và học hiện nay
Theo GS Đinh Xuân Lâm đăng trên dantri.com.vn: “Lịch sử là môn khoa

học
góp phần đạo tạo nhân cách con người. Đối với học sinh càng nhỏ càng tiếp

cận lịch
sử càng có ấn tượng sâu sắc. Cùng với tuổi lớn lên của các em thì kiến

thức đó ngày
càng sâu rộng nên tôi cho rằng học lịch sử rất quan trọng… Nhưng

hiện nay, vấn đề
học lịch sử ở trường phổ thông chưa được coi trọng”.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, một phần là do cấp quản lý, giáo viên,

phụ
huynh và học sinh chưa nhận thức được vai trò, vị trí của môn học trong

Chương
trình giáo dục phổ thông. Hay nói cách khác là xu hướng hiện nay đang

thiên về học

các môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, nhằm tìm kiếm những cơ

hội cao hơn, tốt
hơn, dễ hơn sau khi tốt nghiệp THPT, vào thi đại học. Những hạn

chế của sách giáo
khoa, những yếu kém về trình độ, phương pháp giảng dạy của

giáo viên cũng là một
trong những tác nhân dẫn đến sự sa sút này… thậm chí nhiều

trường THPT vì thiếu
hoặc không có giáo viên dạy sử cấp quản lý đã điều động cả

giáo viên chưa bao giờ
được đào tạo Lịch sử vào đảm nhiệm.
Thực tế, ở các trường THPT, thậm chí là các trường chuyên có lớp chuyên

Sử
thì số lượng học sinh thi vào chuyên sử cũng rất ít, mặc dù đây cũng là một

trong
những môn được Bộ Giáo dục & Đào tạo đưa vào kỳ thi chọn học sinh giỏi

lớp 12.
Theo kết quả kỳ thi đại học năm 2006-2007, tỷ lệ thí sinh có điểm thi dưới
trung bình chiếm hơn 80 %, trong đó, hơn 60 % có điểm thi dưới 1 (1/10). Qua đó

cho
thấy, thực trạng dạy học môn Lịch sử bậc trung học phổ thông đáng báo động.

Trên cơ sở đó, chúng tôi đã đưa ra một số biện pháp, giải pháp nhằm nâng

cao
chất lượng dạy học môn lịch sử, nhất là trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi,

tài
năng.
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
2.1. Xây dựng và thống nhất chương trình bồi dưỡng
2.1.1. Đối với Ban biên soạn sách giáo khoa
Về hệ thống kiến thức trong Chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 10, 11,

12
hệ cơ bản nên xắp xếp lại để tiện cho việc giảng dạy và học tập của học sinh,

tránh
sự ôm đồm không cần thiết.
Về nội dung các bài viết cần nên lược bớt phần diễn biến. Tốt nhất các bài
nên tập trung vào những vấn đề mấu chốt, làm rõ trọng tâm.
Đối với việc dạy về thời kỳ lịch sử Trung đại, nhất là về các triều đại nên

cho
các em thấy những ưu điểm và hạn chế của triều đại đó. Tức cho các em thấy
được những chính sách đúng đắn,và sai lầm của triều đại dẫn đến sự hưng khởi, diệt
vong. Đồng thời cần phải chỉ ra lực lượng nào trong xã hội làm nên lịch sử.
Tốt nhất để hệ thống lại kiến thức SGK không chỉ có nhiệm vụ tóm tắt lại
những gì đã học (Theo kiểu ôn tập chương) mà cần đưa ra những so sánh, nhận xét

lịch

sử giữa các khu vực, các nước với nhau, đặc biệt giữa phương Đông với phương

Tây.
Từ đó giúp HS hiểu được tại sao phương Đông mặc dù ra đời sớm, nhưng

không
thể phát triển mạnh như phương Tây. Nhất là trong giai đoạn cuối thời kỳ

Trung đại.
Về công tác in ấn và bổ trợ kiến thức: Nên in một tập bản đồ, biểu đồ theo

từng
bài ( giống quyển átlát của môn địa lý) với hình thức đẹp ( in mầu), nội dung

trùng
khớp với các bản đồ, biểu đồ lớn mà giáo viên treo trên bảng, tạo điều kiện

cho học
sinh xem trước ở nhà, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo.
Chúng ta nên biết rằng, việc dạy và học lịch sử dù có nhiều mục đích, song
quan trọng nhất là giúp các em nhận thức được những bước đi của lịch sử loài
người. Giúp các em nhận thức được những bài học lịch sử, từ đó có thể ứng dụng

vào
cuộc sống hiện tại, và nhận biết, đoán định sự tiến triển của thế giới loài người

trong
tương lai.
2.1.2. Xây dựng, thống nhất chương trình bồi dưỡng
Chúng tôi cho rằng việc dạy học sinh giỏi phải luôn thực hiện được mục tiêu


giáo
dục. Đó là mục tiêu về kiến thức, về kĩ năng, về tư tưởng tình cảm. Trong quá

trình bồi
dưỡng học sinh giỏi chúng ta đang chú trọng vào việc nâng cao kiến thức,

và kĩ năng
cho học sinh. Để thực hiện được mục tiêu giáo dục, chúng ta gặp phải

một khó khăn
rất lớn, đó là việc Bộ Giáo dục và Đạo tạo chưa thể xây dựng một

chương trình giáo
dục đặc biệt dành cho học sinh giỏi, tài năng ở tất cả các môn

học, trong đó có môn
Lịch sử. Vụ Trung học phổ thông chỉ dừng lại ở việc ban

hành Tài liệu Hội nghị tập
huấn giảng dạy môn Lịch sử dành cho cán bộ chỉ đạo và

giáo viên chuẩn bị cho học
sinh tham gia kỳ thi Quốc gia. Thành thử, để bồi dưỡng

học sinh giỏi, học sinh tài
năng, các trường THPT nói chung, trường chuyên nói

riêng phải xây dựng chương
trình bồi dưỡng riêng, nên khó cho công tác bồi dưỡng


và khi tiến hành kiểm tra đánh
giá để chọn học sinh giỏi sẽ khó có một tiêu chí

chung, thống nhất.
Vậy, Bộ Giáo dục và Đạo tạo cần tiến hành xây dựng chương trình giáo dục

đặc
biệt dành cho học sinh giỏi, tài năng. Chương trình này phải được xây dựng

theo
quan điểm phát triển, cần được bổ sung, điều chỉnh theo sự phát triển của

khoa học
và phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước.
Chương trình này được phép đưa vào những vấn đề lịch sử đang tranh luận,

vấn
đề khó, quan điểm mới mà từ trước đến nay chúng ta cho rằng nó không phù

hợp với
trình độ nhận thức của học sinh phổ thông. Tất nhiên những quan điểm

mới đó
không thể trái với quan điểm của Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng

mà dân tộc
Việt Nam đã lựa chọn.
Xây dựng Chương trình phải có sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành và
những giáo viên đã và đang đào tạo học sinh giỏi cấp quốc gia, quốc tế ở trường THPT

trên khắp cả nước
2. 2. Tăng cường nghiên cứu khoa học
Một thực tế dễ nhận thấy trong hệ thống các trường THPT chuyên hiện nay


việc rèn luyện, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của giáo viên, học sinh

rất
thấp. Nghiên cứu khoa học là một trong những năng lực không thể thiếu của

một
giáo viên. Bởi, dạy học là một khoa học, nhưng đồng thời cũng là một nghệ

thuật.
Đối với việc dạy học Lịch sử, nhất là việc đáp ứng nhu cầu học tập của học

sinh giỏi,
tài năng, thì giáo viên hơn ai hết cũng cần phải có, và phải được trang bị

năng lực
nghiên cứu khoa học thực sự. Công việc nghiên cứu này phải được tiến

hành nghiêm
túc, cẩn thận và thường xuyên Năng lực nghiên cứu là cơ sở giúp

giúp giáo viên,
học sinh giỏi nâng cao được năng lực nhận thức, năng lực dạy và

khả năng tự học một
cách sáng tạo, có hiệu quả. Tránh quan niệm từ trước đến nay


cho rằng Lịch sử chỉ là
môn học thuộc, chỉ cần nhớ và hiểu các sự kiện là đủ.
Muốn được như vậy, trường chuyên phải tiến hành quan hệ hợp tác với các
trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước.Thường xuyên trao đổi kinh
nghiệm, tài liệu, chương trình giảng dạy học sinh giỏi và tổ chức hội thảo khoa

học.
Trên cơ sở đó trường chuyên sẽ thành lập Hội đồng khoa học. Hội đồng này

được
phép phối hợp với các cấp chính quyền tạo điều kiện thuận lợi về kinh phí,

thời gian
và những chế độ ưu đãi khác dành cho giáo viên và học sinh tham gia

nghiên cứu.
Đồng thời, Hội đồng khoa học sẽ tiến hành kiểm tra, đánh giá và khen

thưởng một
cách nghiêm túc kết quả đạt được của các tập thể, cá nhân đã có thành

tích xuất sắc
trong nghiên cứu khoa học cũng như công bố kết quả nghiên cứu

khoa học trên các
tạp chí, đặc san khoa học của trường, của tỉnh, và các tạp chí

Trung ương khác.
Học sinh giỏi cần phải được giáo viên hướng dẫn nghiên cứu những chuyên đề

nằm trong chương trình học và thi học sinh giỏi. Đến lượt mình, giáo viên cần được
hướng dẫn, được bồi dưỡng và tự bồi dưỡng chuyên môn, năng lực, phương pháp
nghiên cứu khoa học một cách bài bản, thực chất bởi chuyên gia đầu ngành với những
khóa học ngắn ngày hoặc dài ngày.
Kiến thức, kĩ năng học sinh được trang bị đi thi, đó không chỉ là kiến thức,


năng, mà giáo viên nhận thức được từ sách giáo khoa, những công trình nghiên

cứu
của các học giả trong và ngoài nước…, rồi đem dạy lại cho học sinh, mà đó

còn là
kết quả của cả một quá trình nghiên cứu khoa học thực sự nghiêm túc của

giáo viên
và chính bản thân học sinh.
2.3. Thay đổi phương pháp dạy và học
2.3.1 Dạy học sinh phương pháp học tập tích cực
Theo Chương II, Mục 2 Luật Giáo dục năm 2005 thì: “Phương pháp giáo

dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;

phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học,

rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại


niềm
vui, hứng thú học tập cho học sinh”. [12; tr 22]. Đồng thời đối trường chuyên

phải nâng
cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi. Hướng dẫn học sinh tự nghiên

cứu khoa học,
ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ phù hợp với điều kiện

của trường và tâm
sinh lý học sinh. Đây là một quá trình có thể nói là sự tương tác

mang tính tích cực
giữa thầy và trò trong quá trình dạy học.
Như thế, dạy và học là hai mặt thống nhất, biện chứng của quá trình dạy học.
Trong đó hoạt động dạy chỉ đạo hoạt động học. Để nâng chất lượng của công việc

dạy
học sinh giỏi nói chung, bộ môn Lịch sử nói riêng đòi hỏi ở người giáo viên

không
chỉ có chuyên môn giỏi, phương pháp dạy học tốt, mà còn đòi hỏi cả người

học phải
biết phương pháp học. Vì thế giáo viên cần phải dạy phương pháp học

cho học sinh.
Khi đã có phương pháp học thì học sinh mới biết vận dụng vào quá trình học và
nghiên cứu theo trình tự tư duy lôgíc và có khoa học. Giáo viên không


chỉ truyền thụ
những tri thức có sẵn, mà phải biết định hướng, tổ chức, hướng dẫn

để học sinh tự
khám phá kiến thức, biết sử dụng phương pháp để tìm ra, khám phá

ra kiến thức đó.
Khi đã hình thành chức năng cơ bản của quá trình dạy học là dạy

cho học sinh cách
thức học tập, thì dạy phương pháp học tập sẽ trở thành mục tiêu

dạy học, chứ không
đơn giản chỉ là phương tiện, biện pháp, thủ thuật nhằm nâng

cao hiệu quả, chất
lượng dạy học.
Thực tế cho thấy khi tiến hành bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử ở các
trường THPT chuyên, giáo viên vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc dạy học

sinh
phương pháp học tập tích cực. Mặc dù ở một số trường chuyên có lớp chuyên

sử, học
sinh nhìn chung yêu thích, có khả năng tự học, đủ tài liệu tham khảo và có

thái độ
đúng đắn với môn học này, nhưng nếu giáo viên không dạy các em phương

pháp học

tập tích cực, khả năng hợp tác, tương trợ, giúp đỡ nhau trong học tập thì

kết quả bồi
dưỡng sẽ không cao.
Dạy phương pháp học tập tích cực phải đồng thời diễn ra trong suốt quá trình
giáo

dục. Để các em thay đổi phương pháp học, đòi hỏi sự nổ lực, tâm huyết của giáo
viên, nhà trường, đồng thời phải xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh.
2.3.2 Phát huy tư duy, sáng tạo và tính chủ động của học sinh
Dạy học là một quá trình sáng tạo, dạy học mang tính chất khám phá. Vậy,

bằng
cách nào để phát huy tư duy sáng tạo và chủ động của học sinh? Đây là vấn

đề hoàn
toàn không có gì mới mẻ đối với việc dạy Lịch sử ở các nước có nền giáo

dục phát
triển. Song, với Việt Nam trong quá trình dạy học, nhiều giáo viên, thậm

chí là giáo
viên giỏi vẫn là người “phát thanh” lại những kiến thức, nội dung trong

sách giáo
khoa, và các tài liệu khác. Cao hơn một chút là giáo viên vừa cung cấp

kiến thức, vừa
tiến hành luyện các dạng đề, gây không ít khó khăn cho học sinh


trong việc điều
chỉnh cách học, và không khuyến khích tư duy, sự năng động, sáng

tạo, tính chủ động
ở các em. Cho nên, dạy Lịch sử, bồi dưỡng học sinh giỏi giáo viên cần phải coi trọng
việc hướng dẫn, gợi mở để các em tự đặt vấn đề suy nghĩ,

trao đổi và nghiên cứu.
Giáo viên phải nắm được những nguyên tắc và con đường

phát triển tư duy học sinh.
Để thực hiện tốt vấn đề này giáo viên cần thực hiện

đồng bộ các biện pháp sau đây:
Thứ nhất, thông báo cho học sinh toàn bộ kế hoạch, nội dung chương trình

học
tập trong năm học và cả khóa học. Đánh dấu những phần kiến thức khó, trọng

tâm để
các em dành nhiều thời gian để suy nghĩ. Nhất là kế hoạch ôn luyện trong

giai đoạn
thi học sinh giỏi cấp tỉnh, khu vực và cấp quốc gia.
Thứ hai, giới thiệu, hướng dẫn tư liệu đọc thêm cho học sinh, để làm sao các

em
có một bộ sách tham khảo hoàn chỉnh. Quan trọng nhất là các tài liệu có liên quan

đến

Kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia, những công trình vừa được công bố có những quan

điểm
mới tiến bộ.
Thứ ba, thường xuyên kiểm, tra đánh giá ý thức, kết quả học học tập của các

em.
Bổ sung vào đội tuyển những sinh thực sự có năng lực, trình độ và thải loại

những
học sinh không đủ năng lực. Giáo viên cần phải nắm bắt được thế mạnh và

điểm yếu
của từng học sinh, trên cơ sở đó đưa ra phương pháp dạy học, thời gian

bồi dưỡng
thích hợp.
Thứ tư, chú ý phát hiện những học sinh có năng khiếu vượt trội để có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng riêng. Thực tế, đối với trường chuyên học sinh chủ yếu là
khá, giỏi nhưng trong số đó sẽ có những học sinh cực kỳ suất sắc. Những học sinh

này
cần phải được tạo điều kiện tốt nhất để các em phát huy hết năng lực học tập

của
mình.
Thứ năm, tất cả học sinh giỏi đều phải được giao nghiên cứu và viết chuyên

đề
hẹp (đảm bảo tính vừa sức, thiết thực…). Đề tài nghiên cứu, học sinh cỏ thể làm


theo
nhóm, cá nhân, một số học sinh thật sự xuất sắc có thể tham gia vào các công

trình
nghiên cứu của giáo viên. Đồng thời tổ chuyên môn, trường sẽ tổ chức hội

thảo để
các em báo cáo kết quả nghiên cứu.
Thứ sáu, trước khi lên lớp giáo viên cần gửi chuyên đề sẽ dạy cho học sinh ít
nhất trước một tuần kèm theo tên tài liệu tham khảo phục vục chuyên đề đó, để các

em
có thời gian chuẩn bị và tìm hiểu trước. Lưu ý là cả một chuyên đề hoàn chỉnh

chứ
không phải là tên chuyên đề, hay một số câu hỏi nằm trong chuyên đề đó.
Thứ bảy, trong quá trình lên lớp giáo viên có thể sử dụng rất nhiều phương

pháp
dạy học. Bởi các phương pháp này đều có những mặt mạnh và hạn chế của

nó. Vấn
đề ở chổ là biết khai thác, vận dụng một cách phù hợp, làm sao nó phải

hướng tới
mục đích thúc đẩy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong

việc tiếp thu,
khám phá tri thức. Một trong những phương pháp có hiệu quả nhất


trong việc bồi
dưỡng học sinh giỏi Quốc gia là phương pháp dạy học nêu vấn đề.

Giáo viên phải dẫn
dắt học sinh vào một tình huống có vấn đề, một tình huống mâu

thuẫn. Tình huống này
cần rõ ràng, sau đó tổ chức hướng dẫn và tạo điều kiện gợi

mở, cung cấp một số sự
kiện làm nảy sinh và giải quyết vấn đề [10; tr60].Ví dụ,

khi trình bày công lao của
Nguyễn Ái Quốc đối với phong trào cách mạng Việt

Nam 30 năm đầu thế kỷ XX,
giáo viên có thể nêu vấn đề: Theo các em “Dân tộc

Việt Nam đã chọn con đường
cách mạng theo khuynh hướng vô sản, hay Nguyễn

Ái Quốc đã chọn cho?”. Học sinh
phải tìm tài liệu để làm sáng tỏ vấn đề, và các

em phải thấy được đâu là những điều
kiện khách quan và chủ quan tác động đến sự

lựa chọn ấy. Kết quả các em phải hiểu
được chính dân tộc Việt Nam đã lựa chọn


Con đường cách mạng theo khuynh hướng
vô sản. Giáo viên đặt tình huống có vấn

đề tiếp “Vậy, vai trò của Nguyễn Ái Quốc ở
đây là gì?”. Học sinh một lần nữa phải

tìm những tài liệu, sự kiện lịch sử để trả lời:
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường

cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.
Nếu như Lênin đã đưa cách mạng vô

sản từ những nước có nền công nghiệp phát
triển, giai cấp công nhân, phong trào

công nhân thực sự lớn mạnh vào một nước Nga
“chỉ là một nước tư bản chủ nghĩa

phát triển trung bình. Chủ nghĩa tư bản Nga phát
triển muộn ngày càng lạc hậu và

lệ thuộc vào các nước phương Tây” [13; tr9] thành
công, thì Nguyễn Ái Quốc đã

phát triển học thuyết của Mác bằng việc truyền bá một
cách có hiệu quả con đường cách mạng vô sản về một nước thuộc địa. Điều đó đã làm
chuyển biến phong trào

yêu nước và cách mạng ở Việt Nam. Đến năm 1930 con

đường yêu nước theo

khuynh hướng vô sản đã thắng thế. Đây là một sự sáng tạo của
Nguyễn Ái Quốc,

đã làm cho chủ nghĩa Mác- cách mạng vô sản có tính phổ quát ra
toàn thế giới.
2.3.3 Phát triển khả năng thực hành lịch sử của học sinh
Từ trước tới nay, nhiều người vẫn quan niệm, học lịch sử không có thực
hành, vì học để tìm hiểu cái đã qua, đã mất, cái không còn tồn tại. Người học tập

lịch
sử đáng lẽ là chủ thể của lịch sử thì lại trở thành khách thể của lịch sử. Có lẽ vì

thế mà
trong suốt nhiều năm việc ra đề thi chọn học sinh giỏi cấp Quốc gia vẫn

mang nặng
yếu tố nhận thức, cao hơn một chút là đòi hỏi kĩ năng làm bài của học

sinh. Cho nên,
thiết nghĩ hơn ai hết giáo viên phải phát triển năng lực thực hành,

hoạt động thực tiễn
cho học sinh thông qua quá trình dạy học. Sao cho từ việc nhận

thức được quá khứ, các
em sẽ đoán định được tương lai.
Phát triển khả năng thực hành, hoạt động thực tiễn của học sinh, không đơn


giản
chỉ dừng lại ở chổ giúp học sinh cụ thể hóa các sự kiện lịch sử, làm và sử

dụng các
loại đồ dùng trực quan, khả năng vẽ bảng biểu, bản đồ, lược đồ, mà phải

giúp học sinh
liên hệ, so sánh, đối chiếu, phân tích các sự kiện lịch sử đã qua với

những sự kiện
đang diễn ra hàng ngày để thấy được chiều hướng phát triển của lịch

sử. Từ đó, giúp
các em thấy được những bài học lịch sử, quy luật phát triển của xã

hội loài người, giáo
viên phải đặt học sinh vào trong một tình huống lịch sử cố

định để xem các em giải
quyết thế nào. Ví dụ, khi dạy bài 17 Sách giáo khoa Lịch

sử lớp 12, “Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước

ngày 19 -12- 1946”, giáo viên
có thể đặt học sinh vào một tình huống như sau:

“Nếu em là một thành viên trong
Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đứng trước


tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc” của
đất nước em sẽ làm gì? Cụ thể hơn có thể hỏi

“đứng trước nạn đói năm 1945 em sẽ
làm gì ?”, hoặc khi dạy học sinh tìm hiểu

Chiến dịch Việt Bắc Thu- Đông năm
1947, giáo viên cung cấp cho học sinh âm mưu, thủ đoạn, hành động của thực dân
Pháp khi tiến hành tấn công Việt Bắc và

hỏi “Em sẽ làm gì để phá tan cuộc hành tấn
công mùa đông của giặc Pháp, nếu như

được Đảng, Chính phủ giao nhiệm vụ Tổng
chỉ huy quân đội ?”. Các em trả lời

đúng nếu như đã tìm hiểu trước và trong chừng
mực nhất định câu trả lời có thể rất

“ngô nghê”, nhưng làm vậy nhiều lần các em như
được sống trong thời kì lịch sử

đó. Như thế, chúng ta sẽ tránh được lối học nhồi nhét,
áp đặt những cái đã có sẵn

trong lịch sử, mà tăng cường khả năng thực hành, hoạt
động thực tiễn, tính chủ

động sáng tạo của học sinh.
KẾT LUẬN

Như vậy, để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT

cần
phải có sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp, ngành và xã hội. Đối với giáo viên,

người
đang trực tiếp giảng dạy phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ.
Dạy học là một khoa học, nhưng đồng thời đó là một nghệ thuật. Người

giáo viên
giống như một người nghệ sỹ trên sân khấu, mỗi bài dạy như một nhân

vật được hóa
thân.
Học sinh yêu thích môn Lịch sử, chưa đủ để biết và hiểu lịch sử. Dạy học

tốt
môn Lịch sử đòi hỏi thầy- trò phải được trang bị một hệ thống phương pháp dạy
- học nhất định. Những biện pháp, phương pháp đó phải được bồi dưỡng thường
xuyên, không ngừng học tập, rèn luyện.
Sáng kiến kinh nghiệm, tác giả không có tham vọng đưa ra cả một hệ thống
phương pháp, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử, nhất là
trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, tài năng, mà chỉ chỉ ra một vài biện pháp

cụ
thể sao cho dạy- học đem lại hiệu quả cao nhất.
Việc ứng dụng các biện pháp, phương pháp này cần phải hết sức linh hoạt,


chủ
động, phải căn cứ vào trình độ của học sinh, đặc điểm trường, vùng, miền để

sao cho
việc áp dụng cho hiệu quả tốt nhất. Trên cơ sở đó, sáng kiến kinh nghiệm

có thể áp
dụng rộng rãi cho các cấp Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, bậc

Cao đẳng và
Đại học.
Muốn học sinh yêu thích môn lịch sử, và để các em trở thành những người

giỏi
về lịch sử, trước hết giáo viên phải được trang bị một vốn kiến thức nhất định,

khả
năng sư phạm tốt, và cần phải có nhiệt huyết với nghề. Giáo viên phải là người

dẫn dắt
học sinh, giúp học sinh khám phá ra những kiến thức, phải để học sinh tích

cực, chủ
động trong quá trình học tập bộ môn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Sách giáo viên Lịch sử 10, Nxb Giáo dục
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Lịch sử 11, Nxb Giáo dục
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Sách giáo viên Lịch sử 11, Nxb Giáo dục
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Lịch sử 12, NXB Giáo dục
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Sách giáo viên Lịch sử 12, Nxb Giáo dục

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quy chế trường chuyên.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng
môn Lịch sử lớp 10, 11, 12. Nxb Giáo dục Việt Nam.
8. Nguyễn Thị Côi- Trần Bá Đệ- Nguyễn Tiến Hỷ- Đặng Thanh Toán- Trịnh
Tùng (1999), Hướng dẫn ôn tập và làm bài thi môn Lịch sử. Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
9. Trần Bá Đệ (Chủ biên) (2003), Hướng dẫn thi Đại học- Cao đẳng môn Lịch

sử.
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
10.Phan Ngọc Liên- Trần Văn Trị (2003), Phương pháp dạy học lịch sử, Nxb Đại

học
Quốc gia Hà Nội, trang 60.
11.Phan Ngọc Liên (tổng chủ biên) (2008), Lịch sử 10, Nxb Giáo dục
12.Luật Giáo dục (2005), Nxb CTQG, Hà Nội, trang 22
13. Nguyễn Anh Thái (chủ biên) (2003), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo dục,
trang 9

×