Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN Nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.63 KB, 31 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
“NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN
LỊCH SỬ THPT”


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nội dung các khóa trình Lịch sử ở trường Trung học phổ thông là cung cấp cho
học sinh những vốn hiểu biết phổ thông, cơ bản vững chắc về sự phát triển của xã hội
loài người và dân tộc, làm cơ sở để rút ra những kết luận khoa học về các quy luật vận
động, phát triển của xã hội; rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử bổ ích. Giúp cho
học sinh nhận thức đúng con đường loài người đã, đang và sẽ tiếp tục trải qua. Trên cơ
sở đó giúp học sinh dần hình thành thế giới quan khoa học, góp phần tích cực vào việc
giáo dục đạo đức, niềm tin, truyền thống của dân tộc.
Để dạy và học tốt môn Lịch sử ở hệ trung học phổ thông, giúp học sinh u thích
mơn học thật sự là cơng việc rất khó khăn. Trong khi sách giáo khoa Lịch sử còn nhiều
chổ bất cập, kiến thức sai, diễn đạt dài dòng, nhiều sự sự kiện trong một tiết học. Học
sinh ngày càng không quan tâm đến môn học...
Theo quy định của Bộ giáo dục và đào tạo về việc dạy học khối THPT là tích
cực phát huy tính tự giác, khả năng sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp cận
kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Đồng thời đối với trường chuyên phải
nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi. Hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu khoa
học, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ phù hợp với điều kiện của trường
và tâm sinh lý học sinh. Đây là một quá trình có thể nói là sự tương tác mang tính tích
cực giữa thầy và trị trong q trình dạy và học.
Cho đến nay, trên khắp cả nước, việc dạy học ở trường THPT chuyên vẫn
mang nặng yếu tố truyền thống trong nền giáo dục Việt Nam. Học sinh vẫn bị động




trong quá trình tiếp cận kiến thức. Dạy học nhằm phát huy tính chủ động, tích cực lấy
“học sinh làm trung tâm” vẫn chưa được đẩy mạnh, hiệu quả thực hiện cịn thấp. Dẫn
đến trình độ của giáo viên, chất lượng học sinh không được nâng cao.
Kết quả kỳ thi tốt nghiệp môn Lịch sử, kỳ thi tuyển sinh đại học, các kỳ thi học
sinh giỏi cấp tỉnh, cấp Quốc gia nhiều năm cho thấy chất lượng môn Lịch sử có
nhiều biểu hiện giảm sút. Học sinh chưa nhận thức đúng đắn về môn học. Hầu hết học
sinh đều quan niệm học lịch sử chỉ cần học thuộc lòng; chuẩn bị cho kỳ thi chỉ là nhồi
nhét kiến thức, học tủ, học vẹt ...
Từ năm học 1996-1997, Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định hàng năm đều tổ
chức cho học sinh THPT thi học sinh giỏi môn lịch sử. Nó thể hiện sự quan tâm của
Nhà nước- Bộ Giáo dục về tác dụng của môn lịch sử trong việc bồi dưỡng, giáo dục thế
hệ trẻ. Vậy, bằng cách nào để học giỏi và trở thành học sinh giỏi môn lịch sử. Biện
pháp, phương pháp nào giúp các em đạt được điều mong ước đó?
Từ những căn cứ trên, thì việc dạy học- đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi, tài
năng mơn Lịch sử đóng một vai trị hết sức quan trọng. Do đó việc tiếp tục tìm ra
những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác dạy học đặc thù này là hết sức cần
thiết. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Một số
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử khối
trung học phổ thông chuyên” làm sáng kiến kinh nghiệm năm 2011.

2. Lịch sử vấn đề

Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu phương pháp dạy học Lịch sử
được chú trọng quan tâm. Tại Đại hội của các nhà sử học trên thế giới do Ủy ban
Quốc tế khoa học Lịch sử tổ chức đã thu hút sự tham gia của nhiều học giả, chuyên gia


nghiên cứu, giảng dạy có uy tín trên nhiều nước.

Tại Đại hội lần thứ XV năm 1980, tiểu ban Giáo dục lịch sử đã thảo luận sôi nổi
vấn đề: “Ý nghĩa của việc dạy học lịch sử đối với việc hình thành con người thế kỷ
XX”. Hầu hết họ đều cho rằng, trong thời đại cách mạng khoa học- kĩ thuật, bộ môn
lịch sử ở trường phổ thông không những vẫn giữ ngun, mà cịn cần phải tăng thêm
vị trí cho nó. Trên quan điểm đó, nhà sử học Xơ viết Pausutô khẳng định: “Muốn
đào tạo con người phù hợp với thời đại chúng ta, cần phải không ngừng cải tiến và
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Cuộc cách mạng khoa học- kĩ thuật, sự hứng thú,
hấp dẫn ngày càng tăng đối với hiện tại không hề làm giảm bớt sự chú ý của chúng ta
đối với việc dạy học lịch sử. Chính lịch sử là bằng chứng hiển nhiên về sự tồn thắng
của cơng cuộc xây dựng, sáng tạo đối với sự tàn phá, chiến thắng của hịa bình đối với
chiến tranh, sự gần gủi, hiểu biết của các dân tộc về văn học và các mặt khác, khắc
phục tình trạng biệt lập”. {7; 18}
Đồng thời, UNESCO cũng công bố nhiều tài liệu về Phương pháp dạy học lịch
sử như: Sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử, sử dụng các phương tiện kĩ thuật
hiện đại, đặc biệt là phương tiện nghe nhìn... đây là cơ hội để nhà nghiên cứu, nhà giáo
dục lịch sử có điều kiện học tập, trao đổi lẫn nhau.
Ở Việt Nam, phải từ sau năm 1975 thì việc nghiên cứu các phương pháp, biện
pháp dạy học lịch sử mới phát triển khá mạnh mẽ. Trên các tạp chí của ngành giáo dục:
Tạp chí nghiên cứu giáo dục, Tập san phổ thơng cấp II, cấp III, Thông báo khoa học
của các trường Đại học Sư phạm đã công bố nhiều luận văn, bài viết có giá trị cả về lý
luận lẫn thực tiễn. Nhà Xuất bản Giáo dục, các trường đại học sư phạm cũng phát hành
nhiều tài liệu đề cập một cách có hệ thống các vấn đề về biện pháp, phương pháp dạy
học, nâng cao chất lượng môn lịch sử: Vị trí của dạy học lịch sử ở trường phổ thông,


Gây hứng thú học tập lịch sử, Phương pháp học tập lịch sử, Sử dụng tài liệu của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử, Cơng tác ngoại khóa, thực hành mơn lịch sử ở
trường phổ thơng, Phát triển tư duy học sinh trong dạy học lịch sử...
Gần đây, tháng 2 năm 1997 Vụ Trung học phổ thông ban hành tài liệu Tập huấn
giảng dạy môn lịch sử dành cho cán bộ chỉ đạo và giáo viên chuẩn bị cho học sinh

tham gia kỳ thi quốc gia. Giáo sư Phan Ngọc Liên đã có bài viết dài tới 23 trang:
“Một số vấn đề phương pháp bồi dưỡng học sinh học giỏi môn lịch sử ở trường
THPT” đầy bổ ích. Trong bài viết này, Giáo sư đã đề cập đến hai điểm: Cần nhận
thức đúng về học tập lịch sử; xác định phương pháp học tập giỏi môn lịch sử, với các
biện pháp, con đường, phương tiện có hiệu quả cao.
Năm 1999, Hội giáo dục lịch sử (thuộc Hội khoa học lịch sử Việt Nam)Khoa Lịch sử trường Đại học sư phạm hà Nội) đã cho ra mắt bạn đọc tác phẩm của tập
thể tác giả: Nguyễn Thị Côi, Trần Bá Đệ, Nguyễn Tiến Hỷ, Đặng Thanh Toán, Trịnh
Tùng: “Hướng dẫn ôn tập và làm bài thi môn lịch sử” dày 428 trang. Cuốn sách giúp
học sinh học tập, ôn thi môn lịch sử đạt kết quả tốt nhất nhờ tính chủ động, sáng tạo
và những phương pháp học tập thích hợp.
Đến năm 2003, Hội giáo dục Lịch sử, Khoa Lịch sử trường Đại học sư phạm Hà
Nội tiếp tục cho tái bản lần thứ 3 quyển sách: “Hướng dẫn thi đại học- cao đẳng
môn lịch sử” dày 474 trang của tập thể tác giả do PGS. TS Trần Bá Đệ (chủ biên).
Trong lời nói đầu, các tác giả đã khẳng định: “xuất phát từ nhận thức đúng về bộ
môn, từ yêu cầu xác định những kiến thức cơ bản của các kháo trình lịch sử Việt Nam
và Lịch sử thế giới, lựa chọn phương pháp học tập, ôn và làm bài có hiệu quả, phù hợp
với yêu cầu học tập và ôn thi (tốt nghiệp, thi học sinh giỏi quốc gia, tuyển sinh các
trường Đại học Cao đẳng. Chúng tơi khơng đặt cho mình nhiệm vụ hướng dẫn học


sinh nắm chắc các đề thi cụ thể, mà trang bị cho các em những kiến thức và phương
pháp cơ bản có thể ứng phó với mọi “tình hướng có vấn đề” trong các kỳ thi”. {9 ;
tr3}.

3. Nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ

Trình bày một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử.
Nêu, phân tích khả năng ứng dụng của từng biện pháp cho từng kiểu bài, đề tài
lên lớp, cũng như một số biện pháp nhằm nâng chất lượng giáo viên trực tiếp giảng

dạy.
3.2. Mục tiêu

Góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử khối
THPT chuyên.
Giúp cấp quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh nhận thức đúng đắn vai trị của
mơn Lịch sử trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Trên cơ sở đó có cách thức quản lý,
dạy - học sao cho hiệu quả nhất.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Sáng kiến kinh nghiệm là việc tìm ra, vận dụng một
số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lịch sử trong khối THPT chuyên.
Những biện pháp này sẽ được ứng dụng cho từng bài học, kiểu bài lên lớp và


bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp Quốc gia.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu, đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử cho khối THPT chuyên trên đất nước
Việt Nam hệ ba năm. Cơ sở để đưa ra giải pháp là thực trạng dạy - học, thi cử mơn lịch
sử hiện nay, chương trình sách giáo khoa lịch sử cơ bản, sách giáo viên khối 10, 11,
12 và một số tài liệu tham khảo khác.

5. Đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến kinh nghiệm lần đầu tiên đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất

lượng bồi dưỡng học sinh giỏi, tài năng.

- Đây là một trong những sáng kiến đầu tiên trong việc đưa ra các biện pháp giúp các

trường Trung học phổ thơng chun trên khắp cả nước có kế hoạch xây dựng chương
trình bồi dưỡng, dạy học sinh giỏi sao cho có hiệu quả nhất.
- Sáng kiến kinh nghiệm nêu lên quan điểm cần mạnh dạn cho phép học sinh được

tham gia nghiên cứu các cơng trình khoa học với thầy cô giáo; cần dạy học sinh
phương pháp học tập tích cực trước khi cung cấp kiến thức, giáo viên cần đưa ra
những quan điểm mới, nội dung khó mà từ trước tới nay giới sử học trong và ngồi
nước cịn đang tranh luận để các em nhận định, đánh giá; q trình dạy học chính


là quá trình rèn luyện về năng lực tư duy, phẩm chất đạo đức, chính trị cho học
sinh. Tránh những quan điểm của một số trường Trung học phổ thông chuyên bồi
dưỡng học sinh giỏi cốt chỉ đi thi giành giải cao.
- Ngồi ra, đây cịn có thể là tài liệu cho các trường THPT chuyên và giáo viên mới ra

trường ít có kinh nghiệm giảng dạy, nhất là khi lại được giao đảm nhiệm việc bồi
dươngc học sinh giỏi, tài năng.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ

1.1. Chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên khối 10, 11, 12
1.1.1 Chương trình sách giáo khoa lớp 10
* Về hệ thống kiến thức khối 10
Trong phần giới thiệu "mục tiêu chương trình giảng dạy lịch sử lớp 10" các tác
giả viết: Lịch sử thế giới được đưa vào giảng dạy ở lớp 10 với yêu cầu chung là cung

cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản và tương đối hệ thống là ba thời kỳ lịch sử
thế giới: Thời kỳ xã hội nguyên thuỷ, thời kỳ cổ đại, thời kỳ trung đại và để thuận tiện
cho việc xắp xếp chương trình lịch sử tồn cấp, lịch sử lớp 10 cßn có thêm" giai
đoạn đầu của thời Cận đại" ( điều này không khớp với nội dung chương trình SGK
lịch sử lớp 10). ở đây các tác giả khơng chỉ trình bày "Thời kỳ cách mạng tư sản và
bước phát triển của chủ nghĩa tư bản" mà cßn giới thiệu quá trình các nước tư bản chủ
nghĩa chuyển sang giai đoạn đế quốc, cũng như "Phong trào công nhân thế giới cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XIX". Như vậy, các tác giả đã trình bày gần như hầu hết phần
lịch sử thế giới Cận đại. Thế mà ở mục "về kiến thức" tiếp đó lại viết: "Giúp cho học
sinh có hiểu biết ... về 3/4 thời kỳ lịch sử căn bản của loài người ...! Nếu tách xã hội
nguyên thuỷ thành một thời kỳ lịch sử, thì loài người trải qua 5 thời kỳ lịch sử căn
bản: Thời kỳ nguyên thuỷ, thời kỳ cổ đại, thời kỳ trung đại, thời kỳ cận đại và thời
kỳ hiện đại. Trong thực tế SGK đã giới thiệu bao gồm 4/5 thời kỳ lịch sử, vì vậy yêu
cầu về mặt sư phạm đã bị phá vỡ trong việc phân bổ chương trình.


Chính vì sai lầm đó, nên dù cố gắng biên soạn lại, SGK Lịch sử lớp 10 vẫn
không tránh khỏi sự ơm đồm khơng cần thiết. Thậm chí cßn gây mâu thuẫn trong việc
dạy và học của giáo viên và học sinh: Học sinh chỉ được học 1 tiết/ tuần (học kỳ I) và
2 tiết/ tuần (học kỳ II) nhưng phải gánh một khối lượng kiến thức lớn.
* Về nội dung kiến thức
Mặc dù đã cố gắng sửa chữa, nhưng nội dung kiến thức SGK vẫn cßn thiên về
kể lể các sự kiện, thậm chí quá rườm rà, hành văn không hấp dẫn. Một bài học sinh
phải nhớ đến 10 hoặc có bài phải nhớ tới 20 sự kiện khơng cần thiết. Gây tâm lý nhàm
chán, cho học sinh ( ví dụ Bài 19 tr. 96 SGK cơ bản lớp 10).
Một số bài về kiến thức cßn sai lầm nghiêm trọng: Thể hiện ở các bài 29 SGV
đáng lẽ phải viết "...sự phát triển của ngành dệt len..." thì lại viết là "... sự phát triển
ào ạt của ngành dệt lụa sinh ra nhu cầu lớn của thị trường đối với lông cừu..."( tr149)
dệt lụa chắc chắn không dùng lông cừu!
Bài 30 về "Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ" trong

sách giáo khoa lịch sử lớp 10 các tác giả viết: "... Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện
có ý nghĩa lịch sử trọng đại ... Nhưng Tun ngơn khơng xố bỏ chế độ nơ lệ cùng việc
bóc lột giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động..." (tr.149). ở đây các tác giả đã
nhầm lẫn giữa bản chất của cuộc cách mạng Tư sản với bản chất của cuộc cách
mạng Vô sản. C. Mác từng nói "Bản chất của cuộc cách mạng tư sản là chỉ thay một
hình thức bóc lột này bằng một hình thức bóc lột khác mà thơi!". Do đó làm gì có
chuyện giai cấp tư sản ở 13 bang thuộc địa Bắc Mĩ tuyên bố xoá bỏ việc bóc lột giai
cấp cơng nhân và nhân dân lao động. Mặt khác bóc lột lao động của các nơ lệ ở các
bang thuộc địa miền Nam lúc bấy giờ là một trong những "đặc điểm của q trình
tích luỹ ngun thuỷ TBCN". Quá trình khách quan này dĩ nhiên là tàn bạo, nhưng


là tiền đề không thể thiếu đối với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Tuyên ngôn độc lập
của 13 bang thuộc địa Bắc Mĩ khơng thể có chuyện hạn chế được! Lưu ý, đây là tuyên
ngôn của cuộc cách mạng Tư sản chứ không phải là tuyên ngôn của cuộc cách mạng
vơ sản. Do đó khi dạy học đến phần này giáo viên không nên buộc học sinh phải chỉ ra
những điểm hạn chế của Tuyên ngôn.
Về "Cách mạng tư sản Pháp": Về mốc kết thúc, vẫn có hai quan điểm, thể hiện
trong giáo trình đại học và cao đẳng. Quan điểm thứ nhất, lấy cuộc đảo chính tháng
Nóng (27/7/1794) làm mốc cuối và quan điểm thứ hai lấy cuộc chính biến ngày 18
tháng Sương mù (9/11/1799) làm mốc kết thúc. Sự tồn tại của hai quan điểm này ở
bậc đại học và cao đẳng cßn có thể chấp nhận được, nhưng ở bậc phổ thơng thì thật là
khó hiểu. Vậy mà SGK lịch sử lớp 8 các tác gải lấy mốc 27/7/1974 (tr.17) và trong
SGK lớp 10 lại lấy 9/11/ 1799 làm mốc kết thúc cuộc cách mạng tư sản Pháp (mặc
dù cùng một chủ biên). Chính vì vậy đã gây sự hồ nghi cho HS, cũng như ngun
tắc "Theo chương trình đổi mới, bộ mơn lịch sử ở THPT nhằm giúp HS cũng cố và
nâng cao kiến thức cơ bản nhất đã học ở bậc THCS" đã bị phá vỡ (SGV lịch sử lớp
10 tr.3).
SGV lịch sử lớp 10 viết "....Cách mạng Pháp thực sự chấm dứt khi chế độ
Đốc Chính kết thúc vai trß (1799)..." trong khi SGK trình bày làm cho người ta

tưởng là cách mạng mãi đến khi "... chế độ quân chủ phục hồi" mới kết thúc
(tr.158).
SGV Lịch sử lớp 10 "...Cách mạng Pháp thực sự chấm dứt khi chế độ Đốc
chính kết thúc vai trß (1799), mọi thành quả cách mạng bị bãi bỏ thế lực phản động
trở lại cầm quyền ở Pháp..." (tr.161). Nếu thực sự là như vậy thì làm sao có thể gọi
Cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng tương đối triệt để là Đại cách mạng được.


Bằng chứng, khi theo lưỡi gươm của quân Liên minh trở về cầm quyền ở Pháp, Lui
XVIII buộc phải công bố một bản Hiến chương lập hiến (một bản hiến Pháp do nhà vua
ban) thừa nhận những thành quả cơ bản của cách mạng như: Xoá bỏ chế độ đẳng cấp,
công nhận quyền sở hữu ruộng đất đã được xác lập trong quá trình cách mạng. Đây là
một sai lầm đáng tiếc, mà nếu giáo viên không nắm chắc kiến thức thì dễ thể nhầm lẫn.
1.1.2. Chương trình lịch sử lớp 11
Ở chương trình Lịch sử khối 11ban cơ bản: 1 tiết x 35 tuần = 35 tiết. Trong
đó:
- Lịch sử thế giới cận đại (phần tiếp theo chương trình lịch sử lớp 10): 8 tiết;
- Lịch sử thế giới hiện đại (phần 1917- 1945): 11 tiết;
- Lịch sử Việt Nam từ 1858- 1918: 11 tiết;
- Lịch sử địa phương: 1 tiết;
- Củng cố kiểm tra 4 tiết.

Qua việc xây dựng chương trình lớp 11 cơ bản, chúng ta nhận thấy những ưu
điểm như: về cấu tạo và phân kỳ lịch sử đều đảm bảo nguyên tắc phân kỳ theo học
thuyết hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin; đảm bảo tính tồn diện của
việc học tập lịch sử. Chương trình đề cập đến những vấn đề về đời sống xã hội, văn
hóa, khoa học và được xem xét như một sự kiện lịch sử chứ không phải nội dung của
khoa học chuyên ngành. Chương trình mặc dù gồm hai khóa trình: lịch sử thế giới và
lịch sử dân tộc, song vẫn đảm bảo tính hệ thống, mối quan hệ lơ gíc giữa lịch sử Việt
Nam với lịch sử thế giới… Chương trình đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, phù hợp với quan điểm, mục tiêu giáo
dục. Tuy nhiên lịch sử 11 còn nhiều hạn chế, ví dụ: Bài 18 Ơn tập lịch sử thế giới


hiện đại (phần từ năm 1917-1945). Phần I. Những kiến thức cơ bản về thế giới hiện
đại (1917-1945). Sau lời dẫn của tập thể tác giả SGK: “Trong gần 30 năm (19171945), nhiều sự kiện lịch sử đã diễn ra trên tồn thế giới... Chúng ta cùng nhau ơn
tập các sự kiện lịch sử cơ bản theo hệ thống kiến thức dưới đây”: Thời gian, sự kiện,
diễn biến chính, kết quả, ý nghĩa. Điều đáng ngạc nhiên là Giáo sư Phan Ngọc Liên
(Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên) đã đưa sự kiện cách mạng Dân chủ tư sản tháng 2
-1917 (diễn biến chính): Tổng bãi cơng chính trị ở Pê- tơ- rơ- grát, Khởi nghĩa vũ
trang, Nga Hồng bị lật đổ vào phần Lịch sử thế giới hiện đại. Không hiểu tác giả
lấy căn cứ nào? Nếu theo cách thức phân kỳ Lịch sử thế giới hiện đại được đông đảo
giới sử học trong và ngoài nước chấp nhận nhất thì mốc khởi đầu cho Lịch sử thế
giới hiện đại bắt đầu khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, nhà nước Xô viết
đầu tiên trên thế giới xuất hiện. hoặc ít ra là Đại chiến thế giới thứ nhất (1914-1918)
kết thúc. Đó là chư kể đến sự nhầm lẫn cả về nội dung lẫn phương pháp. Ví dụ: Khởi
nghĩa vũ trang, đây là hình thức, khơng phải là diễn biến; Nga Hoàng bị lật đổ là
kết quả của cách mạng chứ khơng phải là diễn biễn...
1.1.2. Chương trình lịch sử khối 12
Chương trình Lịch sử cơ bản lớp 12, mặc dù được đánh giá cao trong khi thay
sách. Song, sách chứa một khối lượng kiến thức quá tải đối với học sinh, nếu dạy theo
phân phối chương trình của Bộ Giáo dục & Đào tạo.
Theo đó Chương trình nội dung Lịch sử 12 nghiên cứu khoảng thời gian
ngắn nhất nhưng số tiết dạy nhiều nhất. Lịch sử 10 nghiên cứu hàng triệu năm với 1,5
tiết/1 tuần, Lịch sử 11 - 455 năm với 1 tiết/1 tuần, Lịch sử 12 chỉ nghiên cứu 55 năm
nhưng lại học tới 2 tiết/1 tuần (từ 1945 đến 2000) (Học kỳ I).
Chương trình nội dung Lịch sử 12 có sự gắn kết chặt chẽ giữa Lịch sử Thế giới


và Lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới có tác động đến lịch sử dân tộc, nên các sự kiện

của lịch sử dân tộc khơng chỉ có ý nghĩa trong nước mà cßn có ý nghĩa Quốc tế.
Bên cạnh đó Chương trình gắn liền với chính trị, nhiều sự kiện chịu ảnh hưởng
chi phối nhiều yếu tố chính trị. Điều đó tác động đến bài giảng, thi cử. Vì vậy, dạy
lịch sử 12 giáo viên phải chịu áp lực lớn hơn so với dạy sử khối 10 và 11, nhưng yêu
cầu về nhận thức đßi hỏi cao hơn khối 10, khối 11.
Theo Tiến sĩ Hà Thị Minh Thuỷ trường Đại học sư phạm Thái Nguyên thì:
“Phần Lịch sử Việt Nam trong SGK Lịch sử 12 (mới) là phần Lịch sử Việt Nam từ
1919 đến nay. Đây là giai đoạn lịch sử rất gần với chúng ta, có nhiều sự kiện đang tiếp
diễn. Thực tế học sinh đã học giai đoạn này ở lớp 9, đến lớp 12 học sinh tiếp tục
được bổ sung một số kiến thức cần thiết và nâng cao hơn sự nhận thức về sự kiện,
nhân vật lịch sử.
So với chương trình và SGK Lịch sử lớp 12 cũ (sách viết cách đây 16 năm do GS
Đinh Xuân Lâm chủ biên), phần Lịch sử Việt Nam có nội dung kéo dài thêm 10 năm
(SGK cũ chỉ viết đến năm 1991, SGK mới viết đến năm 2000), nhưng với số tiết học
giảm 1 tiết đối với chương trình nâng cao (39/40 tiết), giảm 8 tiết đối với chương
trình chuẩn (32/40 tiết). Sách giáo khoa mới viết cơ đọng hơn SGK cũ (trước đây 1 tiết
dạy được viết từ 5-8 trang, nay khoảng 3-5 trang) nhưng vẫn bảo đảm tính hệ thống,
tồn diện, hiện đại, cập nhật và đổi mới. Một số sự kiện, niên đại, nhận định đánh giá
có sự điều chỉnh bổ sung bảo đảm tính khách quan lịch sử”.
Một điều dễ nhận thấy chương trình sách giáo khoa lịch sử 10, 11, 12 đều
khơng có tiết bài tập, thực hành (SGK) để rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh
(chỉ có một vài tiết bài tập). Nhất là tiết ơn tập đó lại nhằm mô tả lại một trận đánh,
một chiến dịch trên sơ đồ - lược đồ mà giáo viên hướng dẫn các em chuẩn bị trước ở


nhà. Đó là chưa kể đến chất lượng in cịn thấp, màu sắc đơn điệu, tranh ảnh hầu hết
là màu đen trắng, do đó khơng thể diễn tả được giá trị nội dung, nghệ thuật, những
thành tựu về kinh tế, chính trị, văn hố: ( Bài 5, Bài 6, Bài 7, Bài 8 Bài 9, SGK lớp
10 cơ bản, hình 2, Bài 1 Nhật Bản, hình 24, Bài 9, trang 49, hình
54, Bài 20 , hình 73, Bài 23 SGK Lịch sử 11 ban cơ bản …).

Như vậy, ta thấy rõ ràng sách giáo khoa, sách giáo viên không thể làm chổ dựa
cho học sinh học tốt môn Lịch sử, càng khơng thể giúp giáo viên nâng cao trình độ
và phương pháp dạy học.
1.2. Thực trạng dạy và học hiện nay
Theo GS Đinh Xuân Lâm đăng trên dantri.com.vn: “Lịch sử là mơn khoa học
góp phần đạo tạo nhân cách con người. Đối với học sinh càng nhỏ càng tiếp cận lịch
sử càng có ấn tượng sâu sắc. Cùng với tuổi lớn lên của các em thì kiến thức đó ngày
càng sâu rộng nên tôi cho rằng học lịch sử rất quan trọng… Nhưng hiện nay, vấn đề
học lịch sử ở trường phổ thông chưa được coi trọng”.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, một phần là do cấp quản lý, giáo viên, phụ
huynh và học sinh chưa nhận thức được vai trị, vị trí của mơn học trong Chương
trình giáo dục phổ thơng. Hay nói cách khác là xu hướng hiện nay đang thiên về học
các môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, nhằm tìm kiếm những cơ hội cao hơn, tốt
hơn, dễ hơn sau khi tốt nghiệp THPT, vào thi đại học. Những hạn chế của sách giáo
khoa, những yếu kém về trình độ, phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng là một
trong những tác nhân dẫn đến sự sa sút này… thậm chí nhiều trường THPT vì thiếu
hoặc khơng có giáo viên dạy sử cấp quản lý đã điều động cả giáo viên chưa bao giờ
được đào tạo Lịch sử vào đảm nhiệm.
Thực tế, ở các trường THPT, thậm chí là các trường chun có lớp chuyên Sử


thì số lượng học sinh thi vào chuyên sử cũng rất ít, mặc dù đây cũng là một trong
những mơn được Bộ Giáo dục & Đào tạo đưa vào kỳ thi chọn học sinh giỏi lớp 12.
Theo kết quả kỳ thi đại học năm 2006-2007, tỷ lệ thí sinh có điểm thi dưới
trung bình chiếm hơn 80 %, trong đó, hơn 60 % có điểm thi dưới 1 (1/10). Qua đó cho
thấy, thực trạng dạy học mơn Lịch sử bậc trung học phổ thơng đáng báo động.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đã đưa ra một số biện pháp, giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng dạy học môn lịch sử, nhất là trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, tài
năng.


CHƯƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC

2.1. Xây dựng và thống nhất chương trình bồi dưỡng
2.1.1. Đối với Ban biên soạn sách giáo khoa

Về hệ thống kiến thức trong Chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 10, 11, 12
hệ cơ bản nên xắp xếp lại để tiện cho việc giảng dạy và học tập của học sinh, tránh
sự ôm đồm không cần thiết.
Về nội dung các bài viết cần nên lược bớt phần diễn biến. Tốt nhất các bài
nên tập trung vào những vấn đề mấu chốt, làm rõ trọng tâm.
Đối với việc dạy về thời kỳ lịch sử Trung đại, nhất là về các triều đại nên cho
các em thấy những ưu điểm và hạn chế của triều đại đó. Tức cho các em thấy
được những chính sách đúng đắn,và sai lầm của triều đại dẫn đến sự hưng khởi, diệt


vong. Đồng thời cần phải chỉ ra lực lượng nào trong xã hội làm nên lịch sử.
Tốt nhất để hệ thống lại kiến thức SGK khơng chỉ có nhiệm vụ tóm tắt lại
những gì đã học (Theo kiểu ơn tập chương) mà cần đưa ra những so sánh, nhận xét lịch
sử giữa các khu vực, các nước với nhau, đặc biệt giữa phương Đơng với phương Tây.
Từ đó giúp HS hiểu được tại sao phương Đông mặc dù ra đời sớm, nhưng không
thể phát triển mạnh như phương Tây. Nhất là trong giai đoạn cuối thời kỳ Trung đại.
Về công tác in ấn và bổ trợ kiến thức: Nên in một tập bản đồ, biểu đồ theo từng
bài ( giống quyển átlát của mơn địa lý) với hình thức đẹp ( in mầu), nội dung trùng
khớp với các bản đồ, biểu đồ lớn mà giáo viên treo trên bảng, tạo điều kiện cho học
sinh xem trước ở nhà, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo.
Chúng ta nên biết rằng, việc dạy và học lịch sử dù có nhiều mục đích, song
quan trọng nhất là giúp các em nhận thức được những bước đi của lịch sử loài



người. Giúp các em nhận thức được những bài học lịch sử, từ đó có
thể ứng dụng vào cuộc sống hiện tại, và nhận biết, đoán định sự tiến
triển của thế giới loài người trong tương lai.
2.1.2. Xây dựng, thống nhất chương trình bồi dưỡng

Chúng tơi cho rằng việc dạy học sinh giỏi phải luôn thực hiện
được mục tiêu giáo dục. Đó là mục tiêu về kiến thức, về kĩ năng, về
tư tưởng tình cảm. Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi chúng ta
đang chú trọng vào việc nâng cao kiến thức, và kĩ năng cho học sinh.
Để thực hiện được mục tiêu giáo dục, chúng ta gặp phải một khó
khăn rất lớn, đó là việc Bộ Giáo dục và Đạo tạo chưa thể xây dựng
một chương trình giáo dục đặc biệt dành cho học sinh giỏi, tài năng
ở tất cả các mơn học, trong đó có mơn Lịch sử. Vụ Trung học phổ
thông chỉ dừng lại ở việc ban hành Tài liệu Hội nghị tập huấn giảng
dạy môn Lịch sử dành cho cán bộ chỉ đạo và giáo viên chuẩn bị cho
học sinh tham gia kỳ thi Quốc gia. Thành thử, để bồi dưỡng học sinh
giỏi, học sinh tài năng, các trường THPT nói chung, trường chuyên
nói riêng phải xây dựng chương trình bồi dưỡng riêng, nên khó cho
công tác bồi dưỡng và khi tiến hành kiểm tra đánh giá để chọn học
sinh giỏi sẽ khó có một tiêu chí chung, thống nhất.
Vậy, Bộ Giáo dục và Đạo tạo cần tiến hành xây dựng chương
trình giáo dục đặc biệt dành cho học sinh giỏi, tài năng. Chương
trình này phải được xây dựng theo quan điểm phát triển, cần được
bổ sung, điều chỉnh theo sự phát triển của khoa học và phù hợp với
nhu cầu phát triển của đất nước.


Chương trình này được phép đưa vào những vấn đề lịch sử
đang tranh luận, vấn đề khó, quan điểm mới mà từ trước đến nay
chúng ta cho rằng nó khơng phù hợp với trình độ nhận thức của

học sinh phổ thơng. Tất nhiên những quan điểm mới đó khơng thể
trái với quan điểm của Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng mà
dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.
Xây dựng Chương trình phải có sự tham gia của các chun gia
đầu ngành và những giáo viên đã và đang đào tạo học sinh giỏi cấp
quốc gia, quốc tế ở trường THPT trên khắp cả nước..
2. 2. Tăng cường nghiên cứu khoa học
Một thực tế dễ nhận thấy trong hệ thống các trường THPT
chuyên hiện nay là việc rèn luyện, nâng cao năng lực nghiên cứu
khoa học của giáo viên, học sinh rất thấp. Nghiên cứu khoa học là
một trong những năng lực không thể thiếu của một giáo viên. Bởi,
dạy học là một khoa học, nhưng đồng thời cũng là một nghệ thuật.
Đối với việc dạy học Lịch sử, nhất là việc đáp ứng nhu cầu học tập
của học sinh giỏi, tài năng, thì giáo viên hơn ai hết cũng cần phải có,
và phải được trang bị năng lực nghiên cứu khoa học thực sự. Công
việc nghiên cứu này phải được tiến hành nghiêm túc, cẩn thận và
thường xuyên.. Năng lực nghiên cứu là cơ sở giúp giúp giáo viên,
học sinh giỏi nâng cao được năng lực nhận thức, năng lực dạy và
khả năng tự học một cách sáng tạo, có hiệu quả. Tránh quan niệm từ
trước đến nay cho rằng Lịch sử chỉ là môn học thuộc, chỉ cần nhớ và
hiểu các sự kiện là đủ.


Muốn được như vậy, trường chuyên phải tiến hành quan hệ
hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài
nước.Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, tài liệu, chương trình
giảng dạy học sinh giỏi và tổ chức hội thảo khoa học. Trên cơ sở
đó trường chuyên sẽ thành lập Hội đồng khoa học. Hội đồng này
được phép phối hợp với các cấp chính quyền tạo điều kiện thuận lợi
về kinh phí, thời gian và những chế độ ưu đãi khác dành cho giáo

viên và học sinh tham gia nghiên cứu. Đồng thời, Hội đồng khoa
học sẽ tiến hành kiểm tra, đánh giá và khen thưởng một cách nghiêm
túc kết quả đạt được của các tập thể, cá nhân đã có thành tích xuất
sắc trong nghiên cứu khoa học cũng như công bố kết quả nghiên
cứu khoa học trên các tạp chí, đặc san khoa học của trường, của
tỉnh, và các tạp chí Trung ương khác.
Học sinh giỏi cần phải được giáo viên hướng dẫn nghiên cứu
những chuyên đề nằm trong chương trình học và thi học sinh giỏi.
Đến lượt mình, giáo viên cần được hướng dẫn, được bồi dưỡng và tự
bồi dưỡng chuyên môn, năng lực, phương pháp nghiên cứu khoa học
một cách bài bản, thực chất bởi chuyên gia đầu ngành với những khóa
học ngắn ngày hoặc dài ngày.
Kiến thức, kĩ năng học sinh được trang bị đi thi, đó khơng chỉ
là kiến thức, kĩ năng, mà giáo viên nhận thức được từ sách giáo
khoa, những công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngồi
nước…, rồi đem dạy lại cho học sinh, mà đó cịn là kết quả của cả
một quá trình nghiên cứu khoa học thực sự nghiêm túc của giáo


viên và chính bản thân học sinh.
2.3. Thay đổi phương pháp dạy và học
2.3.1 Dạy học sinh phương pháp học tập tích cực

Theo Chương II, Mục 2 Luật Giáo dục năm 2005 thì:
“Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. [12; tr 22]. Đồng thời đối
trường chuyên phải nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi.

Hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu khoa học, ứng dụng các thành
tựu khoa học công nghệ phù hợp với điều kiện của trường và tâm
sinh lý học sinh. Đây là một q trình có thể nói là sự tương tác
mang tính tích cực giữa thầy và trị trong q trình dạy học.
Như thế, dạy và học là hai mặt thống nhất, biện chứng của q
trình dạy học. Trong đó hoạt động dạy chỉ đạo hoạt động học. Để
nâng chất lượng của cơng việc dạy học sinh giỏi nói chung, bộ mơn
Lịch sử nói riêng địi hỏi ở người giáo viên khơng chỉ có chun
mơn giỏi, phương pháp dạy học tốt, mà còn đòi hỏi cả người học
phải biết phương pháp học. Vì thế giáo viên cần phải dạy phương
pháp học cho học sinh. Khi đã có phương pháp học thì học sinh mới
biết vận dụng vào quá trình học và nghiên cứu theo trình tự tư duy
lơgíc và có khoa học. Giáo viên khơng chỉ truyền thụ những tri thức
có sẵn, mà phải biết định hướng, tổ chức, hướng dẫn để học sinh tự


khám phá kiến thức, biết sử dụng phương pháp để tìm ra, khám phá
ra kiến thức đó. Khi đã hình thành chức năng cơ bản của quá trình
dạy học là dạy cho học sinh cách thức học tập, thì dạy phương pháp
học tập sẽ trở thành mục tiêu dạy học, chứ không đơn giản chỉ là
phương tiện, biện pháp, thủ thuật nhằm nâng cao hiệu quả, chất
lượng dạy học.
Thực tế cho thấy khi tiến hành bồi dưỡng học sinh giỏi môn
Lịch sử ở các trường THPT chuyên, giáo viên vẫn gặp rất nhiều
khó khăn trong việc dạy học sinh phương pháp học tập tích cực.
Mặc dù ở một số trường chun có lớp chun sử, học sinh nhìn
chung u thích, có khả năng tự học, đủ tài liệu tham khảo và có thái
độ đúng đắn với mơn học này, nhưng nếu giáo viên không dạy các
em phương pháp học tập tích cực, khả năng hợp tác, tương trợ, giúp
đỡ nhau trong học tập thì kết quả bồi dưỡng sẽ khơng cao.

Dạy phương pháp học tập tích cực phải đồng thời diễn ra trong
suốt quá trình giáo dục. Để các em thay đổi phương pháp học, đòi
hỏi sự nổ lực, tâm huyết của giáo viên, nhà trường, đồng thời phải
xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh.
2.3.2 Phát huy tư duy, sáng tạo và tính chủ động của học sinh

Dạy học là một quá trình sáng tạo, dạy học mang tính chất
khám phá. Vậy, bằng cách nào để phát huy tư duy sáng tạo và chủ
động của học sinh? Đây là vấn đề hồn tồn khơng có gì mới mẻ đối
với việc dạy Lịch sử ở các nước có nền giáo dục phát triển. Song,
với Việt Nam trong q trình dạy học, nhiều giáo viên, thậm chí là


giáo viên giỏi vẫn là người “phát thanh” lại những kiến thức, nội
dung trong sách giáo khoa, và các tài liệu khác. Cao hơn một chút
là giáo viên vừa cung cấp kiến thức, vừa tiến hành luyện các dạng
đề, gây khơng ít khó khăn cho học sinh trong việc điều chỉnh cách
học, và khơng khuyến khích tư duy, sự năng động, sáng tạo, tính chủ
động ở các em. Cho nên, dạy Lịch sử, bồi dưỡng học sinh giỏi giáo
viên cần phải coi trọng việc hướng dẫn, gợi mở để các em tự đặt vấn
đề suy nghĩ, trao đổi và nghiên cứu. Giáo viên phải nắm được những
nguyên tắc và con đường phát triển tư duy học sinh. Để thực hiện
tốt vấn đề này giáo viên cần thực hiện đồng bộ các biện pháp sau
đây:
Thứ nhất, thông báo cho học sinh tồn bộ kế hoạch, nội dung
chương trình học tập trong năm học và cả khóa học. Đánh dấu những
phần kiến thức khó, trọng tâm để các em dành nhiều thời gian để
suy nghĩ. Nhất là kế hoạch ôn luyện trong giai đoạn thi học sinh giỏi
cấp tỉnh, khu vực và cấp quốc gia.
Thứ hai, giới thiệu, hướng dẫn tư liệu đọc thêm cho học sinh,

để làm sao các em có một bộ sách tham khảo hoàn chỉnh. Quan trọng
nhất là các tài liệu có liên quan đến Kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia,
những cơng trình vừa được cơng bố có những quan điểm mới tiến bộ.
Thứ ba, thường xuyên kiểm, tra đánh giá ý thức, kết quả học
học tập của các em. Bổ sung vào đội tuyển những sinh thực sự có
năng lực, trình độ và thải loại những học sinh không đủ năng lực.
Giáo viên cần phải nắm bắt được thế mạnh và điểm yếu của từng


học sinh, trên cơ sở đó đưa ra phương pháp dạy học, thời gian bồi
dưỡng thích hợp.
Thứ tư, chú ý phát hiện những học sinh có năng khiếu vượt
trội để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng riêng. Thực tế, đối với trường
chuyên học sinh chủ yếu là khá, giỏi nhưng trong số đó sẽ có những
học sinh cực kỳ suất sắc. Những học sinh này cần phải được tạo điều
kiện tốt nhất để các em phát huy hết năng lực học tập của mình.
Thứ năm, tất cả học sinh giỏi đều phải được giao nghiên cứu và
viết chuyên đề hẹp (đảm bảo tính vừa sức, thiết thực…). Đề tài
nghiên cứu, học sinh cỏ thể làm theo nhóm, cá nhân, một số học sinh
thật sự xuất sắc có thể tham gia vào các cơng trình nghiên cứu của
giáo viên. Đồng thời tổ chuyên môn, trường sẽ tổ chức hội thảo để
các em báo cáo kết quả nghiên cứu.
Thứ sáu, trước khi lên lớp giáo viên cần gửi chuyên đề sẽ dạy
cho học sinh ít nhất trước một tuần kèm theo tên tài liệu tham khảo
phục vục chuyên đề đó, để các em có thời gian chuẩn bị và tìm hiểu
trước. Lưu ý là cả một chuyên đề hoàn chỉnh chứ không phải là tên
chuyên đề, hay một số câu hỏi nằm trong chun đề đó.
Thứ bảy, trong q trình lên lớp giáo viên có thể sử dụng rất
nhiều phương pháp dạy học. Bởi các phương pháp này đều có
những mặt mạnh và hạn chế của nó. Vấn đề ở chổ là biết khai thác,

vận dụng một cách phù hợp, làm sao nó phải hướng tới mục đích
thúc đẩy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc
tiếp thu, khám phá tri thức. Một trong những phương pháp có hiệu


quả nhất trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia là phương
pháp dạy học nêu vấn đề. Giáo viên phải dẫn dắt học sinh vào một
tình huống có vấn đề, một tình huống mâu thuẫn. Tình huống này cần
rõ ràng, sau đó tổ chức hướng dẫn và tạo điều kiện gợi mở, cung cấp
một số sự kiện làm nảy sinh và giải quyết vấn đề [10; tr60].Ví dụ,
khi trình bày công lao của Nguyễn Ái Quốc đối với phong trào
cách mạng Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX, giáo viên có thể nêu
vấn đề: Theo các em “Dân tộc Việt Nam đã chọn con đường cách
mạng theo khuynh hướng vô sản, hay Nguyễn Ái Quốc đã chọn
cho?”. Học sinh phải tìm tài liệu để làm sáng tỏ vấn đề, và các em
phải thấy được đâu là những điều kiện khách quan và chủ quan tác
động đến sự lựa chọn ấy. Kết quả các em phải hiểu được chính dân
tộc Việt Nam đã lựa chọn Con đường cách mạng theo khuynh hướng
vơ sản. Giáo viên đặt tình huống có vấn đề tiếp “Vậy, vai trò của
Nguyễn Ái Quốc ở đây là gì?”. Học sinh một lần nữa phải tìm những
tài liệu, sự kiện lịch sử để trả lời: Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Nếu như Lênin
đã đưa cách mạng vơ sản từ những nước có nền cơng nghiệp phát
triển, giai cấp công nhân, phong trào công nhân thực sự lớn mạnh
vào một nước Nga “chỉ là một nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung
bình. Chủ nghĩa tư bản Nga phát triển muộn ngày càng lạc hậu và lệ
thuộc vào các nước phương Tây” [13; tr9] thành công, thì Nguyễn
Ái Quốc đã phát triển học thuyết của Mác bằng việc truyền bá một
cách có hiệu quả con đường cách mạng vơ sản về một nước thuộc
địa. Điều đó đã làm chuyển biến phong trào yêu nước và cách mạng



×