Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN Thiết kế và sử dụng hiệu quả hệ thống câu hỏi trong tiết dạy học lịch sử ở Trung tâm GDTX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.15 KB, 21 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ HỆ THỐNG CÂU HỎI
TRONG TIẾT DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRUNG TÂM GDTX"
1
A – PHẦN MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong dạy học hiện nay, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh, lấy người học làm trung tâm đang được đặc biệt chú ý. Dạy
như thế nào, học như thế nào để đạt được hiệu quả học tập tốt nhất? Muốn vậy, người
giáo viên phải tổ chức một cách linh hoạt các hoạt động của học sinh từ khâu đầu tiên đến
khâu kết thúc giờ học, từ cách ổn định lớp, kiểm tra bài cũ đến cách học bài mới, củng
cố, dặn dò. Những hoạt động đó giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tự giác, chủ
động, tích cực, sáng tạo và ngày càng yêu thích, say mê môn học.
Trong dạy học lịch sử, vấn đề phát huy tính tích cực, chủ động, yêu thích môn học của
học sinh càng được đặt ra cấp thiết. Bởi đối với một bộ phận không nhỏ học sinh hiện
nay thì đây là “môn phụ”, là môn học khô khan, khó nhớ. Vậy làm thế nào để phát huy
tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử? Có rất nhiều biện pháp, ví như: Phương
pháp sử dụng đồ dùng trực quan, phương pháp hướng dẫn học sinh ghi nhớ sự kiện lịch
sử, nắm vững và sử dụng sách giáo khoa, vở bài tập, tiến hành công tác ngoại
khoá Trong đó, việc sử dụng hệ thống câu hỏi là một trong những biện pháp đạt hiệu
quả, rất có ưu thế để phát triển tư duy học sinh. Quá trình hoạt động chung, thống nhất
giữa thầy và trò nhịp nhàng sẽ làm cho học sinh nắm vững hơn những tri thức, hình thành
kĩ năng, kĩ xảo và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, hình thành nhân cách cho các em. Muốn
đạt được điều đó, người giáo viên phải biết cách thiết kế và sử dụng một cách hiệu quả hệ
thống câu hỏi trong các tiết dạy học lịch sử.
Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói
riêng, bản thân tôi xin mạnh dạn trình bày một số vấn đề về việc: “Thiết kế và sử dụng
hiệu quả hệ thống câu hỏi trong tiết dạy học lịch sử ở trung tâm Giáo dục thường xuyên
để phát huy tính tích cực của học sinh” .
Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên tiến hành


các giờ dạy học lịch sử đạt hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực, chủ động trong việc tiếp
thu, lĩnh hội kiến thức của bài học. Đây cũng là lí do tôi chọn đề tài này.
2. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
Đề tài nêu lên và giải quyết các vấn đề sau:
- Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài.
- Cơ sở thực tiễn của việc thiết kế và sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học lịch
sử để phát huy tính tích cực của học sinh.
- Một số giải pháp thực tế trong việc thiết kế và sử dụng hệ thống câu hỏi.
2
- Thực nghiệm sư phạm việc thiết kế và sử dụng hệ thống câu hỏi trong một tiết
học cụ thể ở lớp 12 – Trung tâm GDTX Tĩnh Gia và thống kê kết quả.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc: “Thiết kế và sử
dụng hiệu quả hệ thống câu hỏi trong tiết dạy học lịch sử ở trung tâm Giáo dục thường
xuyên để phát huy tính tích cực của học sinh”. Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho
đề tài này là Chương trình lịch sử lớp 12 – GDTX và nghiên cứu thực nghiệm tại các lớp
12D, 12E, 12G – Trung tâm GDTX Tĩnh Gia.
4. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
4.1. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN.
Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về giáo dục, nhất là những vấn đề đổi mới giáo dục hiện nay làm cơ sở phương
pháp luận cho việc nghiên cứu đề tài.
4.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Nghiên cứu lí luận: Đọc các tài liệu về lí luận dạy học; Phương pháp dạy học lịch
sử; Tâm lí học
- Nghiên cứu trong thực tế:
+ Nghiên cứu Sách giáo khoa; Sách giáo viên Lịch sử lớp 12.
+ Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp, trau dồi rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy.
+ Kiểm tra, đánh giá kết quả học và làm bài của học sinh để từ đó có điều chỉnh và bổ
sung hợp lí.

- Thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm việc thiết kế và sử dụng hệ
thống câu hỏi trong một tiết học cụ thể, tại các lớp 12D, 12E, 12G.
B. PHẦN NỘI DUNG.
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN :
Đai-ri nhà giáo dục Liên Xô cũ đã từng nói : “Dạy lịch sử cũng như bất cứ dạy cái
gì đòi hỏi người thầy phải khêu gợi cái thông minh chứ không phải là bắt buộc các trí
nhớ làm việc, bắt nó ghi chép rồi trả lại”. Như vậy, mục đích của việc dạy học Lịch sử ở
trường là người giáo viên không chỉ giúp cho học sinh hình dung được những kết quả của
quá khứ, biết và ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng của Lịch sử mà quan trọng hơn là hiểu
được lịch sử, tức là phải nắm được bản chất của sự kiện. Trong phát triển tư duy của học
sinh, việc sử dụng các thao tác lô gic có ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường giáo viên
3
sử dụng các thao tác chủ yếu như: So sánh để tìm ra sự giống nhau và khác nhau về bản
chất các sự kiện, phân tích và tổng hợp (giúp học sinh khái quát các sự kiện), quy nạp,
diễn dịch Để thực hiện những thao thao tác như vậy có thể dùng nhiều cách, nhiều
phương tiện khác nhau (đồ dùng trực quan, tài liệu giải thích ), song việc hỏi và trả lời
phù hợp với trình độ yêu cầu của học sinh là đưa lại kết quả tốt nhất.
Hỏi và trả lời chính là đặt tình huống có vấn đề rồi tìm cách giải quyết vấn đề. Hỏi
và trả lời không phải là sự đánh đố mà là giúp hiểu sâu sắc lịch sử hơn. Việc hỏi và trả lời
câu hỏi có ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Vì vậy việc đặt câu hỏi có vai trò
rất quan trọng trong giờ dạy học lịch sử nói riêng và các môn học khác nói chung, thiết
kế và sử dụng hệ thống câu hỏi một cách thích hợp sẽ phát huy được tính tích cực của
học sinh.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
2.1. Về phía học sinh:
Ở Trung tâm GDTX Tĩnh Gia, đa số học sinh có đầu vào không cao và chưa có sự
say mê môn học Lịch sử, việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn
yếu :
- Đa số các em chưa độc lập suy nghĩ để trả lời một câu hỏi mà phải đọc nguyên xi
trong sách giáo khoa hay chỉ nêu được mốc thời gian mà không diễn tả được thời gian đó

nói lên sự kiện gì
- Một bộ phận học sinh không chuẩn bị bài mới ở nhà, không làm bài tập đầy đủ, trên
lớp các em thiếu tập trung suy nghĩ.
- Học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (như trình bày), còn một số câu
hỏi có nội dung tổng hợp, phân tích, giải thích, so sánh thì học sinh còn rất lúng túng khi
trả lời hoặc trả lời thì mang tính chất chung chung
2.2. Về phía giáo viên:
+ Đại đa số giáo viên đều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như:
phương pháp trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp nêu tình huống,
phương pháp vấn đáp thông qua sự trình bày sinh động giàu hình ảnh của giáo viên trong
tường thuật, miêu tả, kể chuyện, hoặc nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử
+ Tuy nhiên, vẫn còn một số giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp
dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hoá hoạt động của học sinh để tạo
điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như:
4
- Giáo viên chưa nêu câu hỏi nhận thức đầu giờ học, tức là sau khi kiểm tra bài cũ
giáo viên vào bài luôn mà không giới thiệu bài qua việc nêu câu hỏi nhận thức, điều này
làm giảm bớt sự tập trung, chú ý bài học của học sinh ngay từ hoạt động đầu tiên.
- Một số câu hỏi giáo viên đặt ra quá khó, học sinh không trả lời được nhưng lại
không có hệ thống câu hỏi gợi mở nên nhiều khi giáo viên phải trả lời thay cho học
sinh.Vấn đề này được thể hiện rất rõ trong hoạt động thảo luận nhóm, giáo viên chỉ biết
nêu ra câu hỏi nhưng lại không hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi đó như thế nào, vì
không có hệ thống câu hỏi gợi mở vấn đề .
- Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động một số học sinh khá,
giỏi trả lời, chưa có câu hỏi giành cho đối tượng học sinh yếu kém. Cho nên đối tượng
học sinh yếu kém ít được chú ý và không được tham gia hoạt động, điều này làm cho các
em thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán nản về môn học.
- Trong khi giảng dạy đa số giáo viên chỉ sử dụng câu hỏi trong sách giáo khoa mà
không kèm câu hỏi phụ, không có câu hỏi gợi mở, dẫn dắt học sinh trả lời câu hỏi khó.

Đối với các câu hỏi cuối sách giáo khoa thì yêu cầu học sinh về nhà làm và học thuộc;
Câu hỏi, bài tập ở nhà chỉ mang tính chất tái hiện lại kiến thức đã học, rất ít câu hỏi mang
tính chất suy luận mà học sinh phải suy nghĩ giải quyết
Tóm lại, nếu việc thiết kế câu hỏi của giáo viên trước khi lên lớp chưa tốt, chưa có hệ
thống thì sẽ không phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học
tập. Trong các tiết học sẽ xảy ra tình trạng, giáo viên sẽ trở thành người thuyết trình, còn
học sinh thụ động ngồi nghe và ghi chép. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần: “Thiết kế và sử
dụng hiệu quả hệ thống câu hỏi trong tiết dạy học lịch sử ở Trung tâm giáo dục thường
xuyên để phát huy tính tích cực của học sinh’’.
2.3. Điều tra cụ thể :
Bản thân tôi đảm nhận việc giảng dạy môn lịch sử lớp 12. Trong quá trình giảng
dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh, vừa tiến
hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Việc điều tra được thực hiện thông qua các tiết dự
giờ, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp ; Việc hỏi đáp với những câu hỏi phát triển tư
duy học sinh ở trên lớp, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 45 phút
Kết quả điều tra tôi nhận thấy đa số học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi mang
tính chất trình bày, còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì
các em còn rất lúng túng khi trả lời. Do vậy kết quả điều tra không cao. Cụ thể:
Lớp SLHS Giỏi Khá Tb Yếu Kém
5
SL % SL % SL % SL % SL %
12D 42 0 0 5 11,9 20 47,6 14 33,3 3 7,2
12E 43 0 0 5 11,6 22 51,2 12 27,9 4 9,3
12G 39 0 0 7 18,0 19 48,7 10 25,6 3 7,7
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG VIỆC THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG
CÂU HỎI TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 12 – TRUNG TÂM GDTX TĨNH
GIA.
3.1. Thiết kế hệ thống câu hỏi.
Bất kì một bài giảng nào của giáo viên muốn đạt kết quả cao thì đều phải xây dựng
được hoàn chỉnh một hệ thống câu hỏi trước khi lên lớp. Hệ thống câu hỏi rất đa dạng

như:
3.1.1. Câu hỏi nhận thức.
-Trước khi bước vào bài mới, giáo viên nên nêu ngay câu hỏi định hướng nhận thức
cho học sinh nhằm động viên sự chú ý, huy động các năng lực nhận thức của học sinh
vào việc theo dõi bài giảng để tìm câu trả lời. Những câu hỏi này là những vấn đề cơ bản
của bài học mà học sinh phải nắm. Đương nhiên, khi đặt câu hỏi không yêu cầu học sinh
trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên đã cung cấp đầy đủ sự kiện thì học sinh mới trả lời
được.
Ví dụ:
- Khi dạy bài 17: “Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2 – 9 - 1945 đến
trước ngày 19 - 12 - 1946” (Sách giáo khoa lịch sử 12, trang 121). Giáo viên nêu câu hỏi
đầu giờ : Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, tình hình nước ta có thuận lợi và
khó khăn gì? Đảng ta đã phát huy thuận lợi và từng bước giải quyết khó khăn như thế
nào?
Để trả lời được câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải theo dõi bài giảng, suy nghĩ và từ
đó sẽ nắm được những nội dung cơ bản nhất của bài học.
3.1.2. Câu hỏi phát sinh, phát triển các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
6
Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu của mỗi mục giảng, được dùng hỏi
về nguyên nhân, bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Bởi vì
bất kì một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đều xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử nhất
định, đều có nguyên nhân phát sinh của nó. Đây cũng là một đặc điểm tư duy của lịch sử
cần hình thành từng bước cho học sinh .
Ví dụ:
Khi dạy mục I.1. Thực dân Pháp bội ước và tiến công nước ta (Bài 18: Những năm
đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp – Lịch sử 12), giáo viên nêu
câu hỏi: Vì sao cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ?
3.1.3. Câu hỏi về quá trình diễn biến, phát triển của sự kiện, hiện tượng lịch sử
như diễn biến của các cuộc khởi nghĩa, diễn biến các cuộc cách mạng.
Ví dụ:

Hãy trình bày diễn biến chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950? (Bài18 Sách
Lịch sử 12) .
Tuy đây là câu hỏi ít suy luận song lại đòi hỏi trí nhớ, phải biết nhiều sự kiện, địa
danh, nhân vật để giúp học sinh phát triển trí nhớ nên cần phải chia câu hỏi thành nhiều
câu hỏi nhỏ, đồng thời lập các bảng niên biểu, mối liên hệ giữa các sự kiện.
3.1.4. Câu hỏi nêu lên đặc trưng bản chất của các hiện tượng lịch sử, bao gồm
sự đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử.
Ví dụ:
Tại sao nói, ngay sau khi ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở vào tình thế
“ Ngàn cân treo sợi tóc”? (Bài 17 SGK Lịch Sử 12).
Thường thì những câu hỏi này khó đối với học sinh, nó đòi hỏi các em phải biết phân
tích, đánh giá, biết bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, hiện tượng lịch sử. Học sinh
rất ngại trả lời những câu hỏi này, tuy nhiên giáo viên cần kiên trì đưa thêm những câu
hỏi gợi mở giúp các em trả lời câu hỏi của mình.
Ví dụ:
Khi dạy bài 16 – Tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám năm 1945,
GV nêu câu hỏi: Tại sao khi phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh, Đảng ta quyết
định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc?
7
Câu hỏi gợi mở: Chủ trương khởi nghĩa vũ trang đề ra trong hội nghị TW lần thứ
8 (tháng 5- 1941) là gì? Các yếu tố nào (về thời cơ cách mạng) đã xuất hiện đầy đủ ở
nước ta lúc bấy giờ?
3.1.5. Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý
nghĩa lịch sử của sự kiện.
Lịch sử chính là quá trình phát triển liên tục, đan xen nhau giữa các sự kiện hoặc
một hiện tượng hay một quá trình lịch sử nào đó. Cần cho học sinh thấy rõ được kết quả
của sự vận động đó, nguyên nhân thắng lợi hay thất bại và ảnh hưởng của nó đối với quá
trình phát triển lịch sử.
Ví dụ:
- Em hãy nêu ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam? (Bài 13 - Lịch

sử 12).
- Trình bày nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng Tám năm
1945? (Bài 16 - Lịch sử 12).
3.1.6. Câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa sự kiện, hiện tượng lịch sử này với sự
kiện, hiện tượng lịch sử khác.
Đây là loại câu hỏi khá khó đối với học sinh. Ưu điểm của loại câu hỏi này là vừa
giúp cho học sinh củng cố, ôn tập lại kiến thức cũ vừa tiếp nhận kiến thức mới và áp
dụng khi hoạt động thảo luận nhóm để các em bổ trợ kiến thức cho nhau và cùng nhau
giải quyết vấn đề.
Ví dụ:
- Khi học về chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ ở miền Nam (Bài 22 - lịch sử
12), Giáo viên hỏi: Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ
ở Miền Nam có điểm gì giống nhau và khác nhau?
- Khi dạy bài 15 – Lịch sử 12, Giáo viên yêu cầu học sinh: Lập bảng so sánh phong
trào dân chủ 1936 – 1939 với phong trào cách mạng 1930 – 1931 trên các mặt: Kẻ thù,
nhiệm vụ, mặt trận, hình thức đấu tranh, lực lượng cách mạng, địa bàn?
3.1.7. Câu hỏi yêu cầu học sinh làm việc với đồ dùng trực quan.
Đây là loại câu hỏi mang tính chất thực hành, không những giúp học sinh hiểu sâu
hơn vấn đề mà còn rèn cho các em một số kĩ năng như giải thích, mô tả, trình bày sự
kiện…
Ví dụ:
8
Khi dạy bài 20 – Lịch sử 12, giáo viên ra bài tập về nhà cho học sinh: Hãy vẽ lược
đồ và tường thuật lại diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ?
3.1.8. Xác định mối liên hệ, xâu chuổi giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng
trong bài học.
Ngoài việc đặt các câu hỏi thì một trong những biện pháp sư phạm là xác lập mối
liên hệ giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong bài.
Ví dụ:
Sau khi học xong bài 20 – Lịch sử 12. Giáo viên có thể tổ chức trò chơi ô chữ để

học sinh xâu chuổi các sự kiện, hiện tượng lịch sử lại với nhau để các em khắc sâu hơn
kiến thức và có hứng thú học tập thông qua các câu hỏi trò chơi .
Hệ thống câu hỏi cho trò chơi: (Có 7 ô hàng ngang và tìm từ khóa hàng dọc)
- Hàng ngang số1:(12 chữ cái). Người anh hùng lấy thân mình lấp lỗ châu mai để
đồng đội xông lên tiêu diệt địch?
- Hàng ngang số 2:(7 chữ cái). Nơi diễn ra cuộc họp của trung ương Đảng ta,
thông qua phương án mở chiến dịch Điện Biên Phủ?
- Hàng ngang số 3: (10 chữ cái). Tên của những cánh đồng tại Điện Biên Phủ mà
Pháp chọn để xây dựng sân bay?
- Hàng ngang số 4:(10 chữ cái). Sau 56 ngày đêm chiến đấu với Pháp tại Điện
Biên Phủ, bộ đội ta đã đạt kết quả này?
- Hàng ngang số 5: (5 chữ cái). Phương tiện chủ yếu mà ta sử dụng để vận chuyển
chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ?
- Hàng ngang số 6: (12 chữ cái). Vị tổng tư lệnh của ta trong chiến dịch Điện Biên
Phủ là ai ?
- Hàng ngang số 7: (9 chữ cái). Vị tướng chỉ huy quân đội Pháp bị ta bắt sống
trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ?
Ô chữ hàng dọc (7 chữ cái):Tên Hiệp định được kí giữa ta với Pháp năm 1954 về
kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương?
Đáp án của các ô chữ:
P H A N Đ Ì N H G I Ó T
9
V I Ệ T B Ắ C
M Ừ Ơ N G T H A N H
C H I Ế N T H Ắ N G
X E T H Ồ
V Õ N G U Y Ê N G I Á P
Đ Ơ C A X T Ơ R I
Từ hàng dọc: GIƠNEVƠ.
Những kiến thức này được sắp xếp trình diễn trên màn hình, (viết lên bảng phụ hoặc

trên khổ giấy to) để các em có thể quan sát được câu hỏi và hệ thống kiến thức, học sinh
tự tìm ra câu trả lời, tìm ra mối liên hệ giữa chúng. Học sinh sẽ có cuộc tranh luận đâu là
từ chìa khoá của ô chữ và học sinh sẽ phát hiện ra chìa khoá là “GIƠNEVƠ”. Cách lập
bảng như vậy hợp với cách sử dụng câu hỏi sẽ có hiệu quả không chỉ về kiến thức mà còn
có tác dụng giáo dục, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy cho học sinh và giúp các
em tránh nhàm chán trong các tiết học.
Việc xây dựng bảng các sự kiện qua các câu hỏi trò chơi và mối liên hệ giữa
chúng là một trong những biện pháp giúp học sinh nhớ ngay sự kiện cơ bản ở trên lớp,
đồng thời kích thích tính tích cực học tập của các em.
Tóm lại: Các loại câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh, giúp
cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên nhân, diễn biến, kết quả
và ý nghĩa của một sự kiện hay một quá trình lịch sử. Những câu hỏi đó giáo viên vận
dụng nhuần nhuyễn trong các tiết dạy không chỉ giúp học sinh biết và nhớ các sự kiện mà
còn đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ, nhận thức sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử .
3.2. Sử dụng hệ thống câu hỏi ở trên lớp.
3.2.1. Sử dụng câu hỏi đầu giờ học.
Trước khi vào giảng bài mới, giáo viên có thể kiểm tra hoặc không kiểm tra bài cũ
đối với học sinh, nhưng giáo viên nên nêu ra các câu hỏi nhận thức của bài học ngay từ
đầu giờ học nhằm: Xác định nhiệm vụ nhận thức của học sinh trong giờ học, định hướng
nhận thức, hướng học sinh vào những kiến thức trọng tâm của bài… Từ đó sẽ giúp các
em học sinh nắm vững nội dung bài học.
10
Ví dụ: Khi dạy bài 17: “Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2 - 9 -1945
đến trước ngày 19 - 12 - 1946” (Sách giáo khoa lịch sử 12, trang 121). Giáo viên nêu câu
hỏi đầu giờ: Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, tình hình nước ta có thuận lợi và
khó khăn gì? Đảng ta đã phát huy thuận lợi và từng bước giải quyết khó khăn như thế
nào?
Đây là câu hỏi nhận thức, không yêu cầu học sinh trả lời ngay, mà đòi hỏi học sinh
phải theo dõi bài giảng, suy nghĩ và trả lời trong quá trình tiếp thu bài mới. Từ đó học
sinh sẽ nắm được những nội dung cơ bản nhất của bài học.

3.2.2. Sử dụng câu hỏi trong giảng bài mới.
Để thực hiện tiết học có hiệu quả, hệ thống câu hỏi phải được giáo viên chuẩn bị,
thiết kế cẩn thận từ khi soạn bài. Trên cơ sở hệ thống câu hỏi đã được thiết kế, trong quá
trình giảng dạy người giáo viên cần phải linh hoạt, phải biết nêu ra câu hỏi lúc nào thì
phù hợp, phải thấy rõ vì sao học sinh trả lời được? Vì sao không trả lời được? Câu hỏi
quá khó hay chưa đủ sự kiện, tư liệu để các em trả lời. Nếu học sinh không trả lời được
thì cần phải có câu hỏi gợi mở.
Ví dụ: Khi dạy mục III.3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 (Bài 16 – Lịch sử
12). Giáo viên nêu câu hỏi: Trong hoàn cảnh nào Đảng ta quyết định tiến hành Tổng
khởi nghĩa?
Học sinh trả lời:
+ Đầu tháng 8- 1945, quân Đồng Minh tiến công mạnh mẽ quân Nhật.
+ 15-8-1945, Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện.
+ Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang. Điều kiện
Tổng khởi nghĩa đã đến.
HS trả lời xong, GV nhấn mạnh lại: Điều kiện thuận lợi lúc này chính là “thời cơ
ngàn năm có một cho cách mạng nước ta”.
GV hỏi: Vì sao nói thời cơ trong cách mạng tháng Tám là “thời cơ ngàn năm có
một”?
Câu hỏi này không có sẵn trong SGK mà đòi hỏi học sinh phải biết suy luận để trả
lời. Vì vậy, có thể học sinh sẽ trả lời được hoặc không trả lời được. Nếu học sinh không
trả lời được, giáo viên cần đưa ra câu hỏi gợi mở: “Nếu như cách mạng nước ta nổ ra
sớm hơn thời điểm quân Nhật đầu hàng quân Đồng Minh thì sẽ gặp khó khăn gì? Nếu
muộn hơn thì lực lượng nào sẽ vào nước ta để giải giáp quân đội Nhật?”.
11
Với câu hỏi này, học sinh sẽ dễ trả lời được: Nếu nổ ra sớm hơn thời điểm quân Nhật
đầu hàng quân Đồng Minh thì lực lượng quân Nhật còn mạnh, ta sẽ khó giành thắng lợi.
Còn nếu nổ ra muộn thì lực lượng quân đội các nước Đồng Minh sẽ vào nước ta, ta sẽ
khó có cơ hội giành độc lập. Ta phải giành độc lập lúc này để đón tiếp quân đội các nước
Đồng Minh với tư thế của một quốc qia độc lập. Đó chính là thời cơ ngàn năm có một

của cách mạng.
Với cách sử dụng các câu hỏi như vậy sẽ giúp giờ học trở nên nhẹ nhàng, học sinh
dễ nắm bắt và khắc sâu, hiểu được các sự kiện lịch sử.
3.2.3. Sử dụng câu hỏi để ra bài tập về nhà.
Hiện nay việc ra bài tập về nhà cũng là một khâu quan trọng trong tiết dạy học của
giáo viên. Kết thúc mỗi tiết học, giáo viên cần có một hệ thống câu hỏi để ra bài tập về
nhà cho học sinh. Câu hỏi bài tập về nhà không chỉ đơn thuần là hệ thống câu hỏi trong
sách giáo khoa mà đòi hỏi giáo viên cần phải đưa ra thêm nhiều dạng câu hỏi giúp học
sinh ngoài việc nắm, trình bày kiến thức … còn rèn luyện được các kĩ năng tư duy, tường
thuật, giải thích, vẽ bản đồ, sơ đồ, trình bày trên lược đồ, lập bảng thống kê…
Ví dụ: Khi dạy xong bài 20: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết
thúc” (Lịch sử 12), Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi bài tập về nhà như sau:
Câu 1: Chứng minh chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi quân sự lớn nhất của
quân ta trong kháng chiến chống Pháp và là thắng lợi quyết định buộc Pháp phải kí hiệp
định Giơnevơ năm 1954, chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Đông Dương?
Câu 2: Lập bảng niên biểu các sự kiện lịch sử lớn của ta trong cuộc kháng chiến
chống Pháp từ Đông – Xuân 1953- 1954 đến khi kết thúc cuộc kháng chiến?
Câu 3: Vẽ lược đồ chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và trình bày diễn biến chiến dịch?
Câu 4: Phân tích nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945 – 1954)?.
3.3. Vận dụng việc thiết kế và sử dụng hệ thống câu hỏi vào một tiết học cụ thể
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Tiết 39 (PPCT Giáo dục thường xuyên).
Bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân
dân Miền Bắc vừa chiến đấu, vừa sản xuất (1965 – 1973).
*Kiểm tra bài cũ:
- Câu hỏi 1: Trình bày về chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương
hóa chiến tranh” của Mĩ?
12
- Câu hỏi 2: Trình bày những thắng lợi của quân dân miền Nam trong chiến đấu chống

chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ?
*Bài mới:
Trước khi vào bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi nhận thức:
GV hỏi: Từ 1969 – 1973, Miền Bắc đạt được những thành tựu gì? Cuộc chiến đấu
của nhân dân ta ở cả 2 miền trong giai đoạn này đã thu được thắng lợi lớn đó là gì?
Đây là câu hỏi có tác dụng giúp học sinh định hướng được những nội dung cơ bản
cần nắm vững của tiết học, không yêu cầu HS trả lời ngay.
Mục IV: Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ và làm nghĩa vụ hậu phương (1969 – 1973).
Mục 1: Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội. (Không học).
Mục 2: Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm
nghĩa vụ hậu phương.
GV hỏi: Mĩ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc
lần thứ hai vào thời gian nào, trong hoàn cảnh như thế nào?
- HS trả lời.
- GV nhận xét.
Tuy nhiên đây là câu hỏi cần liên hệ kiến thức các tiết trước. Nên nếu học sinh
không trả lời được hoàn cảnh Mĩ tiến hành chiến tranh, GV cần có câu hỏi gợi mở: Thời
gian này ở miền Nam quân Mĩ như thế nào? Với câu hỏi này HS sẽ nhớ lại được: Năm
1972 là thời điểm quân ta đang mở cuộc tiến công chiến lược trên khắp chiến trường
miền Nam, quân Mĩ đang ở vào thế thua trận. Đó chính là hoàn cảnh Mĩ tiến hành chiến
tranh phá hoại miền Bắc.
GV hỏi: Mục đích của Mĩ khi tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai
là gì?
Từ hoàn cảnh Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai, HS sẽ dễ
dàng rút ra được mục đích của Mĩ là:
+ Đối phó với cuộc tiến công của quân ta ở miền Nam, hỗ trợ cho chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” đang có nguy cơ bị phá sản.
+ Tạo thế mạnh cho cuộc đàm phán ở hội nghị Pari.
GV hỏi: Khi Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai, quân dân

Miền Bắc đã đối phó như thế nào?
13
- HS trả lời.
- GV nhận xét, chốt ý.
GV trình bày về cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 của Mĩ
đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác trong 12 ngày đêm (Từ tối 18 đến hết
ngày 29 – 12 – 1972). Và cho HS xem Video tư liệu về cuộc tập kích.
GV hỏi: Quân dân Miền Bắc đã chiến đấu chống lại cuộc tập kích chiến lược 12
ngày đêm của Mĩ như thế nào?
- HS trả lời.
- GV nhận xét, cho HS xem Video tư liệu về cuộc chiến đấu của quân dân Miền
Bắc.
GV hỏi: Trong chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ, ta đã thu
được kết quả cụ thể như thế nào, ý nghĩa của thắng lợi đó?
- HS trả lời.
- GV nhận xét, chốt ý.
GV hỏi: Trong những năm 1969 – 1973, miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương như
thế nào?
- HS trả lời.
- GV nhận xét, kết luận và đưa ra bảng thống kê về sự chi viện của miền Bắc qua
từng giai đoạn để HS thấy được sự chi viện của miền Bắc không ngừng tăng, không
những đáp ứng theo yêu cầu của chiến trường Miền Nam mà còn cung cấp cho cả chiến
trường Lào, Campuchia.
Mục V. Hiệp định Pari năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam.
GV trình bày sự kiện ngày 27 – 1 – 1973, hiệp định Pari được kí kết. Và GV giới
thiệu về bức ảnh “Lễ kí chính thức hiệp định Pari về Việt Nam”, ảnh 4 Bộ trưởng đang kí
hiệp định đại diện cho 4 bên tham gia kí hiệp định.
GV hỏi: Nêu những nội dung cơ bản của hiệp định Pari? Theo em, nội dung nào là
quan trọng nhất?

- HS trả lời.
- GV nhận xét, chốt ý.
GV hỏi: Việc kí kết hiệp định Pari có ý nghĩa như thế nào?
14
- HS trả lời.
- GV nhận xét, chốt ý.
*Củng cố: GV củng cố nội dung tiết học bằng cách cho HS chơi trò chơi ô chữ, xác định
mối liên hệ, xâu chuỗi các sự kiện.
Hệ thống câu hỏi cho trò chơi: Có 4 ô hàng ngang, và tìm từ khóa hàng dọc.
- Hàng ngang số 1(20 chữ cái): Chiến thắng của quân dân Miền Bắc trong cuộc
chiến đấu chống cuộc tập kích 12 ngày đêm của Mĩ cuối năm 1972 được gọi là gì?
- Hàng ngang số 2 (5 chữ cái): Trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, Mĩ dùng máy
bay B52 ném bom xuống ……, Hải Phòng và các thành phố khác ở miền Bắc. (Từ còn
thiếu trong dấu ….là từ gì?).
- Hàng ngang số 3 (8 chữ cái): Từ năm 1968 ta bắt đầu đấu tranh chống Mĩ trên cả
3 mặt trận: Quân sự,…., ngoại giao. (Từ còn thiếu trong dấu ….là từ gì?).
- Hàng ngang số 4 (13 chữ cái): Người được phong danh hiệu “Nữ hoàng Việt
cộng” trong kháng chiến chống Mĩ là ai?
Ô chữ hàng dọc (4 chữ cái): Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là chiến
thắng quyết định buộc Mĩ phải kí hiệp định này?(Tên hiệp định là gì?)
ĐÁP ÁN Ô CHỮ.
- Hàng ngang số 1: ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG.
- Hàng ngang số 2: HÀ NỘI.
- Hàng ngang số 3: CHÍNH TRỊ.
- Hàng ngang số 4: NGUYỄN THỊ BÌNH.
Đ I Ê N B I Ê N P H U T R Ê N K H Ô N G
H A N Ô I
C H I N H T R I
N G U Y Ê N T H I B I N H
Ô chữ hàng dọc: PARI.

4. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI.
15
Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào
các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân đã nhận thấy rằng
những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới và với những
tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng
tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ
lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh
yêu thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt
được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học.
* Kết quả cụ thể :
Lớp SLHS
Giỏi Khá Tb Yếu Kém
SL % SL % SL % SL % SL %
12D 42 2 4,8 20 47,6 19 45,2 1 2,4 0 0
12E 43 2 4,7 24 55,8 13 30,2 4 9,3 0 0
12G 39 1 2,6 18 46,1 18 46,1 2 5,2 0 0
5. BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân tôi đã rút ra một số kinh
nghiệm sau:
- Trong mỗi tiết dạy giáo viên nêu mục tiêu yêu cầu của tiết, mục của bài học sau
đó cung cấp thông tin và phân bổ thời gian hợp lí để học sinh tiếp nhận thông tin.
- Giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, tài liệu tham khảo để thiết kế và sử
dụng linh hoạt các câu hỏi phù hợp với nội dung bài dạy, tuỳ theo khối lớp và đối tượng
học sinh mà vận dụng.
- Khi nêu câu hỏi phải ngắn gọn, đủ ý, đơn giản, dễ hiểu, gợi sự suy nghĩ và tư duy
của học sinh. Không nên sử dụng câu hỏi “Có” hay “Không”, “Đúng” hay “Sai” mà phải
sử dụng câu hỏi phát huy tính độc lập tư duy ở học sinh (tránh tình trạng học sinh trả lời
một cách công thức hoặc chung chung).
- Khi tổ chức học sinh tiếp nhận thông tin giáo viên chú ý sử dụng câu hỏi gợi mở

(chuẩn bị kĩ ở giáo án) để giải quyết câu hỏi đặt ra đầu giờ.
16
- Giáo viên cần kết hợp các phương tiện dạy học khác như đồ dùng trực quan, hình
ảnh, tranh vẽ trong sách giáo khoa, hệ thống thao tác sư phạm khi lên lớp để góp phần
phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong mỗi tiết học, nâng cao hiệu quả giờ
dạy.
- Khi đặt câu hỏi không nên đặt câu hỏi quá dễ làm cho học sinh thoả mãn, đi đến
chủ quan về vốn hiểu biết của mình, mà phải làm cho học sinh hiểu rằng sự trả lời đúng,
đầy đủ câu hỏi do giáo viên nêu ra là tốt, song vẫn phải tiếp tục suy nghĩ để trả lời hay
hơn, sâu sắc hơn và thông minh hơn.
- Cần tạo cơ hội cho học sinh trong cả lớp trả lời, thảo luận nhóm, tạo không khí
thoải mái, nhẹ nhàng, không làm nặng nề giờ học để đạt kết quả tối đa.
- Nên có những buổi học ngoại khoá, tham quan du lịch các di tích, bảo tàng lịch
sử.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
1. Kết luận.
“Thiết kế và sử dụng hiệu quả hệ thống câu hỏi trong tiết dạy học lịch sử ở trung
tâm Giáo dục thường xuyên để phát huy tính tích cực của học sinh” được vận dụng
trong các tiết dạy sẽ đạt được kết quả học tập cao nhất của học sinh về tất cả các mặt
giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Đây là hoạt động tương hỗ giữa thầy và trò nhằm
giúp cho học sinh độc lập lĩnh hội kiến thức một cách thông minh, vận dụng một cách
sáng tạo vào thực tế. Điều này quan trọng và đòi hỏi nhiều công sức, lao động sáng tạo,
ý thức tinh thần trách nhiệm cao của mỗi giáo viên. Và cần đòi hỏi giáo viên phát triển
năng lực tư duy và hành động của mình trước khi giáo dục cho học sinh, cho nên phải
nắm vững lý luận, rèn luyện nghiệp vụ thường xuyên.
Với thời gian có hạn, cùng với kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều nên tôi chỉ mạnh
dạn trình bày quan điểm của mình trong việc sử dụng câu hỏi để phát huy tính tích cực
của học sinh trong dạy học lịch sử 12 – GDTX, góp phần vào việc đổi mới phương
pháp dạy học hiện nay.Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi hy vọng sẽ góp một phần
nhỏ vào việc giúp giáo viên và học sinh Trung tâm Giáo dục thường xuyên thực hiện

phương pháp sử dụng những câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh đạt hiệu quả
cao hơn. Về phía bản thân, tôi xin hứa sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của
việc thực hiện sáng kiến kinh nghiệm trên, đồng thời không ngừng rút kinh nghiệm,
khắc phục khó khăn để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học.
17
2. Đề xuất.
Hiện nay trong các nhà trường đã được cấp rất nhiều các thiết bị dạy học.Tuy vậy
đối với môn lịch sử thì các đồ dùng thiết bị còn quá ít. Vì vậy muốn đạt được kết quả cao
trong bộ môn này tôi có một số ý đề xuất sau:
+ Các cơ quan thiết bị trường học cần có đầy đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và
di sản văn hoá hoặc chân dung của các nhân vật lịch sử có công với cách mạng. Nhà
trường cần mua thêm một số tư liệu, tài liệu có liên quan đến lịch sử và cách giảng dạy
bộ môn lịch sử.
+ Tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học ở tất cả các môn trong
đó có môn lịch sử.
+ Nhà trường cần tạo điều kiện, hỗ trợ để giáo viên giảng dạy lịch sử có thể tiến
hành các giờ học ngoại khóa, các buổi tham quan di tích lịch sử cách mạng ở địa phương.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy môn lịch sử,
hiểu biết và kinh nghiệm chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự
góp ý chân thành của các đồng chí, đồng nghiệp.
Tôi xin cảm ơn !
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Ngọc Liên (Chủ biên), (2002), Phương pháp dạy học lịch sử, tập 1,2, NXB
Giáo dục.
2. Đairi, (1979), Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào, NXB Giáo dục. Hà Nội.
3. Phan Ngọc Liên, Nguyễn Xuân Trường (Chủ biên), Hướng dẫn thực hiện chuẩn
kiến thức, kĩ năng môn lịch sử lớp 12, NXB Giáo dục Việt Nam.
4. Phan Ngọc Liên (Chủ biên), (2009), Lịch sử 12, NXB Giáo dục.
5. Phan Ngọc Liên (Chủ biên), (2009), Sách giáo viên Lịch sử 12, NXB Giáo dục.

6. Nguyễn Hồng Liên (Chủ biên), (2009), Hướng dẫn dạy học Lịch sử lớp 12 giáo dục
thường xuyên cấp trung học phổ thông, NXB Giáo dục Việt Nam.
7. Nguyễn Hải Châu, Nguyễn Xuân Trường, (2008), Giới thiệu giáo án Lịch sử 12,
NXB Hà Nội.
19
MỤC LỤC:
A. Phần mở đầu. 1
1. Đặt vấn đề. 1
2. Nhiệm vụ nghiên cứu. 1
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 1
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 2
B. Phần nội dung. 2
1. Cơ sở lí luận . 2
2. Cơ sở thực tiễn . 3
3. Một số giải pháp trong việc thiết kế và sử dụng hệ thống câu
hỏi.
4
4. Kết quả đạt được. 12
5. Bài học kinh nghiệm. 13
C. Kết luận và đề xuất. 13
1. Kết luận. 13
2. Đề xuất. 13
Tài liệu tham khảo 15

20
21

×