Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và sự vận dụng trong quá trình thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Bình Định hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG




TRẦN THỊ TÂM


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







Đà Nẵng – Năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG





TRẦN THỊ TÂM

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH HIỆN NAY

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80


LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HỒ TẤN SÁNG




Đà Nẵng – Năm 2014
LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Đà Nẵng, tháng 02 năm 2014

Tác giả luận văn




Trần Thị Tâm
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Tổng quan tài liệu nghiên cứu 4
6. Bố cục của đề tài 6
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY 7
1.1. NGUỒN GỐC VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN
ĐỀ DÂN TỘC 7
1.1.1. Nguồn gốc – những yếu tố nền tảng quy định và ảnh hưởng đến
tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc 7
1.1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc 19
1.2. CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VÀ KẾT QUẢ CỦA VIỆC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐÓ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM 34
1.2.1. Chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới của Đảng và Nhà nước
34
1.2.2. Kết quả thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới ở Việt
Nam 40
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN
TỘC Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH TRONG THỜI GIAN QUA 47

2.1. KHÁI QUÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ TỰ NHIÊN, XÃ HỘI LIÊN
QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH 47
2.2. VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH-
THÀNH TỰU, HẠN CHẾ, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KINH
NGHIỆM……………………………………………………….……………54
2.2.1. Những thành tựu cơ bản của tỉnh Bình Định trong việc thực hiện
chính sách dân tộc 54
Định 71
2.2.3. Một số kinh nghiệm trong việc thực hiện chính sách dân tộc ở
tỉnh Bình Định 84
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 89
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG - NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN TRONG VIỆC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 89
89
91
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP 94
3.2.1. Nhóm giải pháp về các chính sách phát triển 94
3.2.2.
các cấp độ chủ thể 97
3.2.3. Nhóm giải pháp xây dựng hệ thống chính trị các cấp, nhất là cấp
cơ sở vững mạnh, có hiệu quả 101
3.2.4. Nhóm giải pháp về - 108
KẾT LUẬN 118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Chữ viết tắt
Nội dung đầy đủ
BHYT
Bảo hiểm y tế
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
CSHT
Cơ sở hạ tầng
DTTS
Dân tộc thiểu số
ĐBKK
Đặc biệt khó khăn
HTCT
Hệ thống chính trị
Nxb
Nhà xuất bản
NGO
Tổ chức phi chính phủ
PTTH
Phổ thông trung học
THCS
Trung học cơ sở
UBND
Ủy ban nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
XĐGN
Xóa đói giảm nghèo
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang
2.1
Cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Định
(GDP) phân theo khu vực kinh tế.
55
2.2
Tỷ trọng công nghiệp của 3 huyện miền núi giai
đoạn 2006-2010.
56
2.3
Tổng hợp các công trình CSHT được đầu tư theo
Chương trình 135 giai đoạn 2006-2010
58
2.4
Bảng chỉ tiêu kết quả giảm hộ nghèo qua các năm.
64
2.5
Công tác đào tạo, tập huấn cho cán bộ làm công tác
giảm nghèo.
65
2.6
Tổng hợp kết quả thực hiện dự án Đào tạo, nâng cao
năng lực cán bộ xã, thôn và cộng đồng toàn tỉnh giai
đoạn 2006 – 2010

66



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, chính sách dân tộc được hiểu là một hệ thống chính sách của
Đảng và Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống của các
dân tộc thiểu số, bảo đảm sự đoàn kết, bình đẳng và tương trợ giữa các dân
tộc anh em trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Nội dung cơ bản
của chính sách dân tộc là hướng tới thúc đẩy sự phát triển toàn diện về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng - tạo lập những điều
kiện cho việc phục vụ ngày càng tốt hơn các nhu cầu vừa cơ bản, vừa lâu dài
của các dân tộc hợp thành đại gia đình dân tộc Việt Nam.
Xuyên suốt trong mọi giai đoạn cách mạng, vấn đề dân tộc và thực hiện
chính sách dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Điều
này vừa xuất phát từ truyền thống yêu nước, thương nòi của người dân Việt
Nam, vừa thể hiện rõ mục tiêu dân chủ, công bằng trong sự nghiệp xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Đảng và Nhà nước ta. Đó cũng là sự
biểu hiện sinh động của tinh thần đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc anh em,
cùng chung tay xây dựng một xã hội ngày càng phồn thịnh, vì cuộc sống ấm
no, hạnh phúc của mọi người dân đất Việt. Trên bình diện cả nước, trong giai
đoạn xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau
giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó
mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải

phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu
số”[7, tr.81].
Bình Định là tỉnh duyên hải Nam Trung bộ, nằm trong vùng kinh tế

2
trọng điểm của miền Trung. Đây là một vùng đất có truyền thống anh hùng
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giữ nước với nhiều địa danh đã đi vào
lịch sử như: Điện Tây Sơn, Thành Hoàng Đế, Thành thị Nại, Khu di tích chi
bộ Vạn Đức, Từ đường Võ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân, căn cứ Núi Bà….
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ và nhân dân Bình Định
đoàn kết vượt qua khó khăn, thử thách để xây dựng, phát triển và bảo vệ quê
hương, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới.
Tuy những kết quả đạt được là rất khả quan, nhưng phải thẳng thắn
nhìn nhận rằng, sự phát triển kinh tế của Bình Định vẫn còn thiếu vững chắc,
chưa cân đối giữa các ngành, các vùng. Nhiều tiềm năng chưa được khai thác
tốt, đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn – đặc biệt là đối
với đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS). Hiện tại, ở 3 huyện miền núi là An
Lão, Vĩnh Thạnh và Vân Canh - nơi tập trung phần lớn đồng bào dân tộc
thiểu số của tỉnh, thì cả 3 huyện đều có số hộ nghèo, đói cao hơn so với các
địa phương khác.
Làm thế nào để thực hiện tốt việc đưa các DTTS trong tỉnh thoát khỏi
cảnh đói, nghèo và phát triển đời sống một cách bền vững? Đây vẫn là một
bài toán khó với nhiều vấn đề đặt ra cả về phương diện hoạch định chính
sách, cả về mặt tổ chức thực hiện chính sách; cũng là đơn đặt hàng đối với
khoa học chính trị, khoa học quản lý.
Từ những tri thức triết học Mác-Lênin nói chung, tư tưởng Hồ Chí
Minh nói riêng đã lĩnh hội trong quá trình học tập, kết hợp với những kinh
nghiệm đã tích lũy trong hoạt động thực tiễn ở địa phương tỉnh Bình Định, tác
giả chọn chủ đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và sự vận dụng
trong quá trình thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh

Bình Định hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học. Thông qua đề tài
này, tác giả hy vọng có thể góp phần nhỏ bé của mình vào tìm kiếm cách thức
để giải quyết một vấn đề vừa cần thiết, vừa cấp bách hiện nay.

3
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục tiêu
rõ vấn đề và việc vận
dụng tư tưởng đó trong thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Bình
Định thời gian qua, từ đó đề xuất giải pháp để tiếp tục vận dụng sáng tạo tư
tưởng của Người trong tổ chức thực hiện chính sách dân tộc hiện
nay.
2.2 Nhiệm vụ
- Tr
.
- Đánh giá thực trạng (thành tựu, hạn chế, nguyên nhân
chính sách dân tộc .
- Đề xuất các (nhóm) giải pháp tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh để giải quyết vấn đề đặt ra góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện
chính sách dân tộc ở tỉnh Bình Định trong thời gian đến.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
việc thực hiện chính sách
dân tộc ở tỉnh Bình Định.
Lưu ý rằng: Khi bàn đến chính sách dân tộc (của Đảng ta hiện nay) thì
khái niệm dân tộc được hiểu như là (tộc người hay các thành phần dân tộc -
chỉ các dân tộc cụ thể: dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc H’mông, dân tộc
Bana ) để phân biệt với quốc gia dân tộc (dân tộc Việt Nam).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc thực hiện chính sách dân tộc vùng dân tộc thiểu số ở miền núi tỉnh

Bình Định
ta trong thời , tập trung là giai đoạn từ 2001 đến nay.

4
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử để giải quyết các nội dung đặt ra; đồng thời, cũng sử dụng các phương
pháp chung và một số phương pháp chuyên ngành như: Phân tích và tổng
hợp, phỏng vấn chuyên gia, điều tra và khảo sát mẫu…
5. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến nay đã có rất nhiều công
trình trong nước cũng như trên thế giới công bố. Đó là cuốn sách: Tư tưởng
Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên
Giáp chủ biên, Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị Quốc gia 1998. Đây là tác phẩm
lớn đã khẳng định những điểm mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó đề
cập khá sâu sắc những vấn đề về dân tộc, quan hệ dân tộc và giai cấp với
những nội dung cơ bản như: Cách mạng giải phóng dân tộc phải bằng con
đường cách mạng vô sản; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…Đây
thực sự là những định hướng cơ bản cho việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong đó có tư tưởng về vấn đề dân tộc.
Một số công trình khác như: Tư tưởng Hồ Chí Minh một số nội dung cơ
bản của Nguyễn Bá Linh, Nxb Chính trị Quốc gia 1995; cuốn Những nhận
thức cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh của Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị
Quốc gia 1998; cuốn Về con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh của
Trịnh Nhu và Vũ Dương Ninh, Nxb Chính trị Quốc gia 1996; cuốn Dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đặng Xuân Kỳ, Nxb Chính trị Quốc gia
1990; cuốn Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại của tập thể tác giả do
Phạm Ngọc Liên chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia 1993. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - vận dụng ở Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập của tác giả Hồ Tấn Sáng, Tạp chí Lịch sử Đảng,

số 9.2010…Những công trình này đề cập đến vị trí của tư tưởng Hồ Chí

5
Minh nói chung và tư tưởng về dân tộc nói riêng đối với cách mạng Việt Nam
– Cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng XHCN. Bên cạnh đó còn thể
hiện ý nghĩa và ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và giai cấp
đối với thời đại, với lịch sử phát triển của nhân loại.
Dân tộc và chính sách dân tộc là một trong những chủ trương lớn, có
tính xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta; vì thế từ trước đến nay có khá
nhiều công trình của các nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể
đến công trình: Nguyễn Văn Tiêm:“Giàu nghèo ở nông thôn hiện nay”, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội 1993; Đặng Nghiêm Vạn:“Quan hệ tộc người trong
một quốc gia dân tộc”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1993; Bế Viết Đẳng:
“50 năm các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945-1995”, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội 1995; Phan Hữu Dật:“Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên
quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2001; Ủy ban Dân tộc và Miền núi: “Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở
nước ta”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001…
Các công trình vừa nêu, đề cập đến những lý luận chung về vấn đề dân
tộc, tộc người và vấn đề chênh lệch về trình độ phát triển và thực trạng mối
quan hệ giữa các tộc người, cùng những yêu cầu về nhiệm vụ đối với cán bộ
làm công tác dân tộc hiện nay.
Năm 2002, Viện Nghiên cứu Chính sách dân tộc và Miền núi cũng có
một công trình nghiên cứu là “Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính
sách trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội 2002. Công trình này phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn của chính sách
dân tộc của Đảng, Nhà nước ta và định hướng việc quy hoạch dân cư, nhịp độ
phát triển kinh tế phù hợp với đặc điểm từng vùng; đồng thời, kiến nghị
những giải pháp sớm cải thiện đời sống đồng bào dân tộc thiểu số của cả
nước.


6
Phan Xuân Sơn và Lưu Văn Quảng với công trình có tên:“Những vấn
đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay”, Nxb Lý luận Chính trị,
Hà Nội 2006. Cuốn sách phân tích Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác-
Lênin và Chính sách dân tộc của Đảng ta qua các giai đoạn cách mạng…, qua
đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách đối
với đồng bào DTTS nói chung.
Ngoài ra, trên các tạp chí lý luận trong nước, cũng đã có rất nhiều bài
viết đề cập đến các phương diện khác nhau liên quan đến chính sách dân tộc
và giải pháp để phát triển và phát triển bền vững vùng có đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống. Riêng ở tỉnh Bình Định, công tác dân tộc cũng đã được các
cấp, các ngành quan tâm trong việc cụ thể hóa bằng các chủ trương, chính
sách cụ thể cũng như tổng kết thực hiện. Những kết quả này đến nay chủ yếu
được phản ánh trong các báo cáo tổng kết, các Nghị quyết của các cấp độ lãnh
đạo, quản lý tỉnh, huyện và các cơ quan chuyên trách (từng thời kỳ hoặc hàng
năm) như: Báo cáo tổng kết thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II và các
chính sách lồng ghép khác (2006-2010); Báo cáo tổng kết 5 năm (2006-2010)
tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Bình
Định; Báo cáo việc thực hiện chính sách pháp luật về giảm nghèo
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy: Việc tìm hiểu quá trình
thực hiện chính sách dân tộc từ việc vận dụng tư tưởng về dân tộc của Hồ Chí
Minh trên địa bàn mỗi địa phương cụ thể (như tỉnh Bình Định) chưa thấy có
công trình nào có tính chuyên biệt. Vì thế có thể xem đề tài luận văn của tôi
như là một thể nghiệm, hy vọng có thể góp thêm một cách tiếp cận để nhận
thức và giải quyết chủ đề rộng lớn, phức tạp đã và đang đặt ra ở nước ta.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được trình bày với 03 chương.


7
CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA
HIỆN NAY

1.1. NGUỒN GỐC VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1.1. Nguồn gốc – những yếu tố nền tảng quy định và ảnh hưởng
đến tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
a. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư
sản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các
Hiệp ước ácmăng (Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu
hàng thực dân Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn
ra liên tục trên mọi miền đất nước.
Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang
do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến công trại lính
Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa
Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó
Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc
Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm
Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật
(1883-1892) và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895).
Phong trào vũ trang chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương đã tàn lụi
hoàn toàn với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Một số thổ hào địa
phương nỗi dậy ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta tuy lúc
này vẫn còn, nhưng đã phải duy trì cuộc chiến đấu trong điều kiện hết sức khó

8

khăn, phải thủ hiểm trong những vùng rừng núi hẻo lánh và suy yếu dần trên
con đường đi tới tan rã. Duy chỉ có cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do
Hoàng Hoa Thám lãnh đạo vẫn hiên ngang đương đầu với địch. Nhưng trước
âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, phong trào dần đi vào thất bại.
Như vậy, tất cả các phong trào chống Pháp nổ ra cuối thế kỷ XIX đều
lần lượt thất bại, thất bại không phải vì người lãnh đạo kém nhiệt huyết, nhân
dân kém anh dũng mà do nguyên nhân chủ quan, khách quan chi phối. Đặc
biệt, thất bại là do hệ tư tưởng phong kiến lúc bấy giờ đã lỗi thời so với xu thế
phát triển của thời đại… Điều đó chỉ ra yêu cầu bức thiết của phong trào yêu
nước thời điểm này cần nhanh chóng thoát khỏi những bế tắc của hệ tư tưởng
phong kiến.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, các phong trào đấu tranh theo khuynh
hướng dân chủ tư sản phát triển mạnh. Tiêu biểu là phong trào Đông Du
(1906-1908) do Phan Bội Châu khởi xướng. Phan Bội Châu chủ trương dựa
vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập
dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Chủ
trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp không thành, ông về
Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi
(1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý
định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước vũ trang bạo động đánh Pháp,
giải phóng dân tộc, nhưng rồi cũng không thành công.
Có thể khẳng định Đông Du là hoạt động đầu tiên chống chủ nghĩa
thực dân trên nền tảng duy tân, đổi mới. Đây là một cuộc đổi mới từ tư duy
yêu nước, cứu nước truyền thống là bạo động để khôi phục độc lập dân tộc đã
chuyển sang tư duy cải cách, đề cao việc học tập tiến bộ. Xuất dương cầu học
là một quyết định mang tính đột phá, thay đổi hướng đi và phương pháp đấu
tranh, mở cửa hướng ra bên ngoài để học hỏi, tiếp nhận những cái mới cho

9
phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Phan Bội Châu chính là con người

với hoài bão cách tân, đứng trước bế tắc của lịch sử dân tộc đã cố gắng đi tìm
tới giải pháp: tự cường để cứu nước. Xuất phát điểm của Phan Bội Châu
chính là lòng yêu nước, thương dân - nền tảng tinh thần đưa ông suốt cuộc đời
phấn đấu cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân.
Cũng vào thời gian này phong trào Duy Tân do một số sĩ phu tiến bộ
khởi xướng. Tiêu biểu cho xu hướng cải cách lúc bấy giờ là Phan Châu Trinh.
Phong trào Duy Tân nhằm cải cách đất nước về văn hóa, xã hội gắn liền với
việc động viên lòng yêu nước, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị
thực dân. Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở
mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa
trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp
phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Ở Bắc Kỳ, có việc mở trường học,
giảng dạy và học tập theo những nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là
trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. Ở Trung Kỳ, có cuộc vận động Duy
Tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong trào đấu tranh
chống thuế (1908).
Phong trào Duy Tân cuối cùng đã thất bại, đó cũng là một sự thất bại
chung của xu hướng cải cách đầu thế kỷ XX. Do những hạn chế về lịch sử, về
giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến
lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương
hướng khả dĩ giải quyết được yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng của dân
tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, mặc dù còn nhiều hạn chế về số
lượng, về thế lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ,
giai cấp tư sản Việt Nam đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân
Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể với những hình thức khác nhau:

10
Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và
địa chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ

ngoại hoá; chống độc quyền thương cảng Sài Gòn; chống độc quyền khai thác
lúa gạo ở Nam Kỳ; đòi thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư
sản Việt Nam tham gia.
Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn,
tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do
dân chủ để lôi quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân
nhượng cho một số quyền lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.
Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của
tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như:
Việt Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925); thành lập nhiều nhà xuất bản như
Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư
(Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông rạn, Người nhà quê, An Nam
trẻ Có nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như đấu
tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh,
đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Cùng với phong trào
đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận động
văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy
nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, các phong trào trên
ngày càng bị phân hoá mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng
chính trị tư sản (như Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo
cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt, Hưng Nam).
Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự
ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Đây là tổ
chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp
các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong
quân đội Pháp.

11
Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam
Dân của Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương

đánh đuổi đế quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa
bao giờ có một đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc
dân Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng
chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất.
Ngày 9-2-1929, các lãnh tụ của Quốc dân Đảng quyết định khởi nghĩa
ở Yên Bái. Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh
chóng bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Vai trò của Việt Nam Quốc dân
Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của
khởi nghĩa Yên Bái.
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt
Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với
những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần
chống đế quốc của giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì
giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ
sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc.
b. H
Trước yêu cầu cấp bách phải tìm một con đường cứu nước mới, bằng
thiên tài trí tuệ và nhãn quan chính trị sắc bén, tháng 6-1911 Nguyễn Ái Quốc
đã lên đường sang các nước phương Tây, nơi có khoa học - kỹ thuật phát triển
và những tư tưởng dân chủ tự do, xem họ làm như thế nào, để rồi trở về nước
giúp đồng bào cởi ách xiềng xích nô lệ. Với tên gọi Văn Ba, Người đã qua
nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước tư bản phát triển như Mỹ, Pháp,
Anh. Người nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn cách mạng đã có trên thế
giới như cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp, đồng thời tham gia lao động và đấu
tranh trong hàng ngũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc đủ các

12
màu da. Người nhận thấy các cuộc cách mạng tư sản Mỹ và Pháp “chưa đến
nơi” vì quần chúng nhân dân vẫn bị áp bức, bóc lột.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ làm chấn động toàn

cầu. Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt, Người hướng đến ánh sáng của Cách
mạng Tháng Mười và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của cuộc cách mạng vĩ
đại đó. Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp,
Người đưa đến Hội nghị Vécxây bản yêu sách đòi các quyền tự quyết cho dân
tộc Việt Nam. Kết luận quan trọng mà Nguyễn Ái Quốc rút ra là: Những lời
tuyên bố dân tộc tự quyết của bọn đế quốc chỉ là trò bịp bợm; các dân tộc bị
áp bức muốn được độc lập tự do thực sự, trước hết phải dựa vào lực lượng
của bản thân mình, phải tự mình giải phóng cho mình.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Bản Luận cương
đó đã đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết mà Nguyễn Ái Quốc đang ấp ủ:
độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào. Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc
bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba và tham gia thành lập Đảng Cộng
sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt
động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản; mở đường
giải quyết đúng đắn về đường lối giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Tháng 6 nǎm 1923, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản và Đảng
Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô. Được thực tiễn
cách mạng Nga lúc đó cổ vũ, Nguyễn Ái Quốc kiên trì đấu tranh bảo vệ và
phát triển sáng tạo tư tưởng của V.I Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa,
hướng sự chú ý của Quốc tế Cộng sản tới phong trào đấu tranh của nhân dân
các nước thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tới tình cảnh của người nông dân
trong các nước thuộc địa. Họ chiếm đại đa số trong xã hội và cách mạng

13
thuộc địa không thể thắng lợi nếu không có sự tham gia của đông đảo nông
dân. Tại Hội nghị lần thứ I Quốc tế Nông dân (tháng 10 nǎm 1923) Nguyễn
Ái Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân và được cử vào đoàn Chủ
tịch của Hội đồng. Người còn được mời làm chuyên gia của Ban thư ký giúp

Hội đồng chuẩn bị nội dung cho các cuộc họp và là chuyên gia về những công
việc liên quan đến các thuộc địa.
Người viết nhiều bài báo về tình cảnh nông dân Bắc Phi, nông dân
Trung Quốc, nông dân Việt Nam. Trong bài phát biểu tại Hội nghị Quốc tế
Nông dân, Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo những thủ đoạn thực dân để biến nông
dân thành nô lệ với hai bàn tay trắng. Vì vậy người nông dân không còn
đường sống mà phải đấu tranh, họ là lực lượng cách mạng vô cùng to lớn. Kết
thúc bài phát biểu Nguyễn Ái Quốc kêu gọi: “Thưa các đồng chí, tôi phải
nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc tế của các đồng chí chỉ trở thành một
Quốc tế thật sự khi mà không những nông dân phương Tây, mà cả nông dân ở
phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột và
bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc tế của các đồng chí”
[15, tr.212].
Trong các bài phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (nǎm 1924)
Nguyễn Ái Quốc đã đề cập vấn đề về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa
và cách mạng chính quốc, kêu gọi sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới
với cách mạng thuộc địa. Tại phiên họp XXV ngày 3 tháng 7 nǎm 1924
Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: “Trong tất cả các thuộc địa Pháp, nạn nghèo đói đều
tǎng, sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín
muồi. Trong nhiều nước thuộc địa họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng
bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực
thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế
cộng sản phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho
họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng”[16, tr.289].

14
Cuối nǎm 1924 Nguyễn Ái Quốc yêu cầu được trở về Châu Á để thực
hiện hoài bão giải phóng nhân dân các dân tộc thuộc địa, trong đó có nhân
dân Việt Nam. Bằng thiên tài trí tuệ và hoạt động cách mạng của mình,
Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua

sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng
tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản.
c. Chủ nghĩa Mác - Lênin nền tảng lý luận trực tiếp để hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những vấn đề về quan hệ giữa
các quốc gia dân tộc và các thành phần dân tộc (tộc người) trong một quốc gia
trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội: Kinh tế, chính trị, lãnh thổ, pháp
lý, tư tưởng và văn hóa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Dân tộc là cộng đồng người
ổn định hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, quốc ngữ
chung, nền kinh tế thống nhất, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu
tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước. Ở đây, dân tộc được hiểu
với tư cách là một quốc gia với một nhà nước độc lập.
C. Mác và Ph. Ănghen đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò độc lập dân
tộc trong cuộc đấu tranh giai cấp. C. Mác và Ph. Ănghen đã chứng minh rằng,
quá trình ra đời và thay đổi của các hình thức cộng đồng người trong lịch sử,
xét cho đến cùng đều có nhân tố kinh tế. Trong Hệ tư tưởng Đức C. Mác và
Ph. Ănghen đã chỉ rõ: “Không phải chỉ riêng những quan hệ dân tộc này với
dân tộc khác mà toàn bộ kết cấu bên trong của bản thân dân tộc đó đều phụ
thuộc vào trình độ phát triển của sản xuất và sự giao tiếp bên trong và bên
ngoài dân tộc ấy”[4, tr.30]. Khi nghiên cứu về sự hình thành dân tộc tư sản, C.
Mác và Ph. Ănghen đã đi đến kết luận: “Dân tộc là một sản vật và hình thức
tất nhiên của thời đại tư sản trong quá trình phát triển xã hội” [5, tr.88].

15
Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. Ănghen, khi nghiên cứu về vấn đề
dân tộc V.I Lênin làm rõ thêm nội dung khái niệm dân tộc và sự hình thành
dân tộc và xây dựng thành một hệ thống lý luận toàn diện, sâu sắc, gồm các
nội dung sau:

Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trước
dân tộc là những hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc.
V.I. Lênin đấu tranh kiên quyết chống lại các biến tướng của chủ nghĩa duy
tâm, xem dân tộc dường như phát sinh từ mảnh đất trống rỗng, không phải là
kết quả của quá trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất, của sự phát
triển các hình thức tộc người. V.I. Lênin cũng đã nêu ra cương lĩnh về quyền
bình đẳng, quyền tự quyết dân tộc và đấu tranh không mệt mỏi cho quyền
bình đẳng và quyền tự quyết đó trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các
nhà nước dân tộc Tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn
tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành
chính sách vũ trang xâm lược cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn
đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Sau cách mạng Tháng Mười Nga, sự hình thành hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh, dẫn đến sự tan
rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, nhiều nước thuộc địa cũ trở
thành các quốc gia dân tộc độc lập.
Khi bàn về sự phát triển của vấn đề dân tộc, V.I. Lênin đã đề cập hai
hướng phát triển của vấn đề dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản.
Xu hướng thứ nhất, ở những quốc gia, khu vực tư bản chủ nghĩa gồm
nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người làm ăn, sinh sống. Đến một
thời kỳ nào đó, sự trưởng thành của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh đầy đủ về
quyền sống của mình mà các cộng đồng dân cư đó muốn tách khỏi nhau để

16
thành lập các dân tộc độc lập. Bởi vì họ hiểu rằng, chỉ trong cộng đồng dân
tộc độc lập họ mới có quyền quyết định vận mệnh của mình mà cao nhất là
quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc
mình.
Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân

tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Chính sự phát triển của lực
lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa
trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa
các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
Cả hai xu hướng đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai cấp gay
gắt. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa dân tộc tư sản không thể giải
quyết được vấn đề dân tộc mà chỉ làm cho mối xung đột dân tộc ngày càng
tăng lên. Chỉ có cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở thủ tiêu ách
áp bức giai cấp và áp bức dân tộc, mới tạo điều kiện để thực hiện sự bình
đẳng dân tộc và xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc, làm cho các dân tộc
ngày càng xích lại gần nhau. Từ đó V.I.Lênin yêu cầu các Đảng Cộng sản
phải đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa
Sôvanh, vì thắng lợi của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Luận cương của Lênin về dân tộc và dân tộc thuộc địa đã ảnh hưởng
sâu sắc tới nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã tiếp thu và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Lênin vào Việt Nam, Người tuyên bố: Độc lập tự do là
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc và, nêu lên chân lý của
thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”[17, tr.108]. Người đề cao dân
tộc nhưng không hạ thấp vấn đề giai cấp; chủ trương kết hợp nhuần nhuyễn
các vấn đề dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng; vừa giành độc lập
cho dân tộc mình, vừa giành độc lập cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Người đặt cách mạng Việt Nam vào dòng chảy của cách mạng thế giới.

17
d. Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
Nhân cách, phẩm chất, tài năng của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn
đến sự hình thành và phát triển tư tưởng của Người và quan trọng hơn hình
thành ở Người một năng lực hoạt động thực tiễn to lớn, có hiệu quả.
Hồ Chí Minh là người có khả năng thâu thái và chuyển hóa những tri

thức của dân tộc, nhân loại thành tri thức của bản thân mình. Xuất thân trong
một gia đình khoa bảng, với tư chất thông minh tuyệt vời, Hồ Chí Minh đã
nhanh nhạy trong việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Trước hết là văn hóa phương Đông mà tiêu biểu là học thuyết Nho
giáo. Bác Hồ đã tiếp nhận cái lõi của Nho giáo là đạo đức, tư tưởng xây dựng
thế giới đại đồng; về việc đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học
với châm ngôn: Học không biết chán, dạy không biết mỏi. Hồ Chí Minh đã
lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp trong Nho giáo để phục vụ cho
nhiệm vụ cách mạng.
Hồ Chí Minh cũng tiếp thu những tư tưởng vị tha ở Phật giáo, đó là tư
tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn; đó là nếp sống có đạo đức, trong
sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; đó là tinh thần bình đẳng, tinh thần dân
chủ chất phác, chống lại mọi phân biệt đẳng cấp.
Hồ Chí Minh còn là người kế thừa lòng nhân ái, đức hy sinh, những giá
trị tốt đẹp của Thiên Chúa giáo. Cả cuộc đời của Người là hiện thân của lòng
nhân ái và đức hy sinh cao cả và Người cũng thường xuyên động viên cán bộ,
đảng viên về lòng thương dân, dám hy sinh thân mình vì nghĩa lớn.
Ngoài ra Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa
dân chủ và cách mạng của phương Tây. Đó là tư tưỏng về tự do, bình đẳng,
bác ái, về quyền sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc
của các dân tộc. Hồ Chí Minh cũng tiếp xúc với các tác phẩm của các nhà
khai sáng lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái như Vonte, Rútxô…Tư tưởng dân

18
chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng đến tư tưởng của Người. Hồ Chí
Minh còn hấp thụ tư tưởng dân chủ và hình thành được phong cách dân chủ
của mình trong cuộc sống thực tiễn như tham gia các cuộc họp, các đảng phái.
Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở sự khổ công
học tập để chiếm lĩnh vốn tri thức vốn có của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu
tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để có

thể tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lênin - lý luận khoa học và cách mạng của
giai cấp vô sản thế giới. Đó là tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ
cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương dân, thương
yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc
lập của Tổ quốc, vì tự do và hạnh phúc của đồng bào.
Với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh
tường, sáng suốt trong việc thâu thái các giá trị văn hóa Đông - Tây và vận
dụng những giá trị đó để giải quyết các vấn đề của dân tộc mình và cũng là
các vấn đề của thời đại đang đặt ra. Người thấy rõ giá trị vĩ đại của tư tưởng
Bình đẳng, Tự do, Bác ái mà các cuộc cách mạng tư sản hiện đại nêu ra,
nhưng Người cũng nhận ra tính “không đến nơi” của các cuộc cách mạng ấy.
Nhờ có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh mới vượt qua
nhiều học thuyết để đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, trở thành người Việt
Nam đầu tiên tìm đúng con đường đi cho dân tộc Việt Nam. Từ khi chấp nhận
đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận đó
vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát
triển biện chứng tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng
văn hóa của phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền
tảng, cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển
của Hồ Chí Minh - một con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện
chứng, có nhân cách, phẩm chất cách mạng cao đẹp tạo nên.

×