Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở CÁC NỀN KINH TẾ MỚI NỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.71 KB, 15 trang )


Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 1




BÀI NGHIÊN CỨU:
TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở CÁC
NỀN KINH TẾ MỚI NỔI





Thực hiện: Lê Thị Kim Anh
Nguyễn Thị Tường Vy
Lê Ngọc Phú Thuận


















Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 2









Mục lục
Tóm tắt 3
1. Giới thiệu: 4
2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây 4
3. Phương pháp nghiên cứu 7
4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu: 11
5. Kết luận 15






















Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 3




Tóm tắt
Bài nghiên cứu khảo sát mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái (ERPT) lên giá ở 12 nền
kinh tế mới nổi của châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Dựa trên ba mô hình
vector biến đổi tự hồi quy, kết quả nghiên cứu của tác giả làm thay đổi quan điểm cho
rằng mức độ truyền dẫn tỷ giá vào giá nhập khẩu và giá tiêu dùng ở các nước mới nổi
luôn luôn cao hơn các nước phát triển. Theo đó trong những thị trường mới nổi, lạm
phát chỉ có một con số (đặc biệt là các nước châu Á), sự truyền dẫn tỷ giá đến giá nhập
khẩu và giá tiêu dùng được tìm thấy là thấp và khá tương đồng với các nước phát triển.
Nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ rằng có một mối quan hệ cùng chiều
giữa mức độ của ERPT và lạm phát, phù hợp với giả thuyết của Taylor. Có hai nước
đã bị loại khỏi phân tích do đặc điểm số liệu có khác biệt bất thường so với những
quan sát ở các nước còn lại, đó là Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ. Cuối cùng, có một tương
quan dương giữa chính sách mở cửa nhập khẩu và ERPT, điều này đúng về mặt lý
thuyết nhưng kết quả thực nghiệm yếu.


Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 4
1. Giới thiệu:
Hiểu biết về tác động của truyền dẫn tỷ giá là rất quan trọng để đưa ra các chính sách
tiền tệ phù hợp. Bài nghiên cứu tìm hiểu vai trò ERPT và đánh giá hiệu ứng truyền dẫn
tỷ giá tại các thị trường mới nổi thông qua kiểm chứng thực nghiệm về mối quan hệ
mức độ truyền dẫn tỷ giá lên giá tiêu dùng và giá nhập khẩu, mối quan hệ ERPT với
lạm phát, mối quan hệ ERPT với mức độ mở cửa nền kinh tế.
Bài nghiên cứu gồm các phần chính:
Phần 1: Giới thiệu về mục tiêu và lý do nghiên cứu về truyền dẫn tỷ giá ở các thị
trường mới nổi.
Phần 2: Tổng quan các nghiên cứu trước đây
Phần 3: Phương pháp nghiên cứu và quá trình thu thập dữ liệu ở các quốc gia
đang được xem xét.
Phần 4: Nội dung và các kết quả thực nghiệm.
Phần 5: Kết luận

2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây
Trong hai thập kỷ qua, những nghiên cứu kinh tế về truyền dẫn tỷ giá hối đoái (ERPT)
đã phát triển. Bắt đầu từ những quan điểm khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm đã
kiểm tra vai trò của ERPT ở các nền kinh tế nhỏ và lớn. Những nghiên cứu ở các nước
phát triển được thực hiện bởi Anderton (2003), Campa và Goldberg (2004), Campa và
cộng sự (2005), Gagnon và Ihrig (2004), Hahn (2003), Ihrig và cộng sự (2006) và
McCarthy (2000). Ngoài ra còn có một số nghiên cứu về các nền kinh tế thị trường
mới nổi, trong đó có so sánh giữa các quốc gia như trong Choudhri và Hakura (2006),
Frankel và cộng sự (2005) và Mihaljek và cộng sự (2000).
Nền kinh tế truyền thống với giả định đơn giản là giá cả của hàng hóa là như nhau
giữa các quốc gia, tức là thỏa điều kiện ngang giá sức mua (PPP). Tuy nhiên về mặt
thực nghiệm, giả thiết này được rất ít được ủng hộ, đặc biệt là trong trường hợp mẫu
nhỏ, trong ngắn hạn và trung hạn. Các nghiên cứu lý thuyết phát triển trong hai thập

niên qua đã đưa ra nhiều giải thích khác nhau về lý do ERPT là không hoàn toàn.
Trong bài nghiên cứu của Dornbusch (1987), ông khẳng định truyền dẫn không hoàn
toàn là vì sự xuất hiện của những công ty hoạt động trong một thị trường đặc trưng với

Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 5
sự cạnh tranh không hoàn hảo và họ có thể tự điều chỉnh giá sản phẩm của mình(và
không chỉ có giá) khi có một cú sốc tỷ giá hối đoái. Burstein và cộng sự (2003) nhấn
mạnh vai trò yếu tố phân phối hàng hóa thương mại hơn so với vai trò của yếu tố đầu
vào. Burstein và cộng sự (2005) đã chỉ ra vấn đề đo lường trong chỉ số CPI, bỏ qua sự
thay đổi giá trị hàng hóa khi tỷ giá hối đoái dao động mạnh. Một lý luận khác nhấn
mạnh vai trò của các chính sách tiền tệ và tài khóa vì bù đắp được phần nào những tác
động của thay đổi tỷ giá hối đoái đến giá (Gagnon và Ihrig , 2004). Devereux và Engel
(2001), Bacchetta và Wincoop (2003) nghiên cứu vai trò của việc định giá đồng nội tệ
làm giảm mức độ ảnh hưởng của ERPT.
Chứng thực những lý thuyết khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm ở cả các nền kinh tế
phát triển và các nền kinh tế mới nổi đã tìm thấy bằng chứng ERPT không hoàn toàn.
Những nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng về sự khác biệt đáng kể giữa các quốc
gia, từ đó đặt ra câu hỏi về các yếu tố cơ bản quyết định truyền dẫn là gì. Taylor
(2000) đã đưa ra giả thuyết rằng sự phản ứng của giá từ biến động tỷ giá phụ thuộc vào
lạm phát. Lý do của điều này được cho là liên quan đến mối tương quan thuận giữa
mức độ và thời gian duy trì của lạm phát, cùng với mối liên hệ giữa duy trì lạm phát và
truyền dẫn. Mối liên hệ thứ hai có thể được thể hiện như sau: lạm phát càng kéo dài thì
những biến động tỷ giá nhỏ được coi là tạm thời và các công ty có thể phản ứng bằng
cách điều chỉnh giá.
Bằng chứng từ những nghiên cứu khác nhau đều ủng hộ cho giả thuyết Taylor. Tuy
nhiên, mối quan hệ giữa mức độ truyền dẫn và lạm phát càng thể hiện rõ hơn khi thị
trường mới nổi được tính vào mẫu xem xét (đặc biệt là bằng chứng dữ liệu bảng của
Choudhri và Hakura, 2006). Không có gì đáng ngạc nhiên khi giả định của Taylor trở
nên có ý nghĩa hơn nếu tỷ lệ lạm phát cao hơn.
Một yếu tố quan trọng của ERPT là mức độ mở cửa của một quốc gia. Có mối tương

quan dương giữa hai biến này: một đất nước càng mở cửa thì sự biến động tỷ giá hối
đoái tác động đến giá nhập khẩu càng lớn, từ đó làm chỉ số CPI thay đổi lớn hơn. Tuy
nhiên, bức tranh trở nên phức tạp hơn khi tác giả nhận thấy rằng lạm phát có thể tỷ lệ
nghịch với mức độ mở cửa nền kinh tế, như kết quả thực nghiệm được tìm thấy bởi
Romer (1993). Điều này đưa đến một kênh gián tiếp, theo đó sự mở cửa tỷ lệ nghịch
với lạm phát (theo giả thuyết của Taylor) và mức độ truyền dẫn. Các kênh trực tiếp và
gián tiếp đi theo hướng ngược nhau; đây là dấu hiệu cho thấy tương quan giữa truyền
dẫn và sự mở cửa có thể là cùng chiều hoặc nghịch chiều.
Bài nghiên cứu đánh giá kết quả, tìm hiểu tầm quan trọng của ERPT và sự khác biệt
giữa các quốc gia bằng cách ước tính mô hình vector tự hồi quy (VAR) cho thị trường
mới nổi và các nền kinh tế công nghiệp tiêu biểu như khu vực đồng Euro, Mỹ và Nhật
Bản. Một hệ phương trình được sử dụng để tính đến khả năng nội sinh giữa các biến

Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 6
xem xét. Hơn nữa việc lựa chọn mô hình là phù hợp vì chúng ta theo dõi các phản ứng
linh hoạt của các biến với những cú sốc ngoại sinh theo thời gian. Các bài nghiên cứu
cho đến nay đã được ước lượng bằng cách hoặc là phương trình đơn, hoặc là hệ
phương trình cho một quốc gia cụ thể, không thì thiết lập những phương trình đơn cho
một tập nhóm của các quốc gia (ví dụ như Choudhri và Hakura, 2006, và Mihaljek
cùng cộng sự, 2000). Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng phương pháp tiếp cận có
hệ thống với một số lượng lớn các quốc gia trong ba khu vực thị trường mới nổi chính
trên thế giới, là châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Đồng thời, tác giả cũng sử
dụng phương pháp tương tự với ba nền kinh tế công nghiệp lớn, để đảm bảo kết quả so
sánh. Bằng cách sử dụng mô hình ước lượng cho mỗi nước trong thời gian dài nhất có
thể, nhằm ước lượng mức độ truyền dẫn chính xác và cao nhất có thể. Về mặt này,
việc quan trọng là đã tạo ra cơ sở dữ liệu hàng quý phù hợp và có thể so sánh cho mỗi
quốc gia, nhưng có một thách thức lớn trong việc thu thập thông tin cũng như chất
lượng thông tin của những thị trường các nước mới nổi. Điều này cũng đã giúp đáp
ứng yêu cầu một cách hệ thống dựa trên một số lượng tương quan cao của các biến,
tránh bỏ qua biến xu hướng.

Sau đó tác giả sử dụng kết quả của đất nước tác giả để kiểm chứng về tính xác thực
của lý thuyết cho rằng ERPT tại các thị trường mới nổi cao hơn so với các nền kinh tế
công nghiệp và kiểm tra mẫu hình về các mối tương quan của truyền dẫn tỷ giá theo
nghiên cứu McCarthy (2000) và Choudhri và Hakura (2006). ERPT có cao hay không
trong thị trường mới nổi, thì mục tiêu chính là để xác định cán cân thương mại cũng
như sự lựa chọn một chính sách tỷ giá hối đoái của mỗi quốc gia. Mức độ truyền dẫn
tương đối cao ở các nước đang phát triển cũng đã được lý giải là do sự “nhạy cảm với
tỷ giá thả nổi”. Trong trường hợp truyền dẫn thấp ở các quốc gia đang phát triển có thể
được lý giải từ việc cho rằng sức mạnh thị trường của doanh nghiệp ở các nước này
ngày càng tăng và không giảm, như là một xu hướng toàn cầu hóa. Tuy nhiên, những
đặc tính đặc biệt ở thị trường này đã gây khó khăn trong việc ước tính ERPT một cách
đáng tin cậy. Một số quốc gia châu Á đã thường xuyên theo đuổi chính sách chủ động
kiểm soát tỷ giá hối đoái. Trung Âu và các nước Đông Âu đã có những cải cách triệt
để nền kinh tế của họ trong những năm 1990. Cuối cùng, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước
Mỹ Latinh đã trải qua một đợt bất ổn kinh tế vĩ mô mạnh mẽ đặc trưng bởi tỷ lệ lạm
phát rất cao và/hoặc biến động mạnh trong hối đoái và lãi suất.
Kết quả nghiên cứu của tác giả chỉ ủng hộ phần nào quan điểm cho rằng mức độ ERPT
tại các thị trường mới nổi cao hơn tại các nước phát triển (sử dụng theo chuẩn của
Mỹ, khu vực đồng Euro và Nhật Bản). Cụ thể hơn, chúng ta thấy rằng trong nền kinh
tế mới nổi (đặc biệt là các nền kinh tế châu Á) với mức lạm phát thấp, mức độ truyền
dẫn vào giá tiêu dùng là khá nhỏ. Liên quan đến điều này, bài nghiên cứu này đã ủng
hộ cho giả thuyết của Taylor trong việc tìm kiếm bằng chứng về mối tương quan thuận
giữa truyền dẫn và lạm phát tại các thị trường mới nổi. Kết nối này dường như có ý

Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 7
nghĩa thống kê trên tất cả các mô hình xác định khác nhau được xem xét khi hai nước
có giá trị khác biệt được loại trừ. Như trong các tài liệu liên quan, vai trò của sự mở
cửa được tìm thấy nói chung là yếu, ngay cả khi đã kiểm soát tỷ lệ lạm phát.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu

Phân tích được thực hiện bằng cách sử dụng một mô hình VAR tiêu chuẩn như trong
công thức (1):

trong đó là vector của các biến nội sinh, c là hằng số, biểu thị ma trận các hệ số
tự hồi quy và là sai số ngẫu nhiên. Xác định các cú sốc cấu trúc được thực hiện
bằng cách xếp thứ tự các biến thích hợp và áp dụng phương pháp phân rã Cholesky để
ma trận hiệp phương sai giảm sai số ngẫu nhiên .
Như một điểm khởi đầu của việc phân tích, mô hình VAR sáu biến tương tự như đã
được phát triển bởi McCarthy (2000) và Hahn (2003). Mô hình VAR rút gọn áp dụng
cho các quốc gia khác nhau bao gồm chỉ số giá dầu , biến sản lượng , tỷ giá hối
đoái , chỉ số giá nhập khẩu , chỉ số giá tiêu dùng , và lãi suất ngắn hạn .
Tỷ giá hối đoái và hai biến giá cả là các biến quan trọng trong phân tích của tác giả.
Các biến sản lượng và giá dầu được tính đến để nắm bắt những ảnh hưởng thực của
nền kinh tế. Việc đưa lãi suất vào mô hình hàm ý thị trường tiền tệ ảnh hưởng đến mối
quan hệ truyền dẫn, bao gồm cả tác động của chính sách tiền tệ.
Trong mô hình rút gọn với các biến được liệt kê ở trên. Việc sử dụng phương pháp đệ
quy hàm ý rằng những cú sốc xác định cùng lúc ảnh hưởng các biến được đặt phía sau,
nhưng không có ảnh hưởng đến những biến phía trước nó. Do đó, là hợp lý khi đặt các
biến ngoại sinh lên đầu, trong trường hợp của chúng ta là giá dầu. Những cú sốc giá
dầu có thể ảnh hưởng đến tất cả các biến khác trong hệ thống, cũng như giá dầu không
bị ảnh hưởng bởi bất kỳ các cú sốc nào khác. Các biến tiếp theo trong phương trình là
sản lượng và tỷ giá hối đoái. Với sự sắp xếp này, chúng ta ngầm giả định tác động
đồng thời của các cú sốc cầu lên tỷ giá hối đoái, trong khi có một độ trễ nhất định về
tác động của các cú sốc tỷ giá hối đoái đối với yếu tố đầu ra. Các biến giá được đặt vị
trí tiếp theo và do đó đồng thời bị ảnh hưởng bởi tất cả các cú sốc nói trên. Trong
chuỗi giá cả, giá nhập khẩu đi trước giá tiêu dùng cho phép một sự tác động những cú
sốc giá nhập khẩu lên giá tiêu dùng nhưng không có trường hợp ngược lại. Lãi suất
được đặt cuối cùng, đại diện cho thị trường tiền tệ và chính sách tiền tệ đặc biệt nhằm

Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 8

phản ứng lại đồng thời với cú sốc của tất cả các biến khác trong mô hình. Mô hình đại
diện rút gọn chỉ là một trong nhiều phương án hợp lý về xác định và biến số. Do đó,
chúng ta sẽ tiến hành phân tích độ nhạy sử dụng hai công thức mô hình hợp lý khác.
3.2. Thu thập dữ liệu
Trong bài nghiên cứu này tác giả tập trung những phân tích của mình vào 3 khu vực:
Châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Hồng Kông), Trung và
Đông Âu (Cộng Hòa Séc, Hungary, Ba Lan) cộng thêm Thổ Nhĩ Kỳ và Châu Mỹ La
Tinh (Argentina, Chilê và Mexico). Sở dĩ chọn ra những nước như trên là bởi vì đó là
những thị trường mới nổi lớn trong khu vực – trong đó Brazin không được đưa vào
mẫu bởi vì các kết quả thu được không hợp lý, mức độ cực cao trong biến động của
các dữ liệu và lạm phát hàng năm cao hơn 1000% trong suốt thời kỳ giữa 1992Q1 và
1994Q4. Đối với mỗi quốc gia, số liệu được thu thập theo quý, trong khoảng thời gian
càng dài càng tốt.
- Giá dầu được đại diện bởi chỉ số giá dầu thô tính bằng đô la Mỹ theo thống kê của
IMF.
- Biến sản lượng đầu ra được ưa thích là GDP. Đối với Hồng Kông, Hàn Quốc,
Singapore, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ, Chilê, Mỹ nguồn dữ liệu từ IFS, Nhật Bản và
Mexico nguồn dữ liệu từ OECD, khu vực đồng tiền chung châu Âu dữ liệu được
lấy từ AWM, Đài Loan và Argentina lấy từ nguồn dữ liệu quốc gia. Tuy nhiên
trong một vài trường hợp, tác giả có sử dụng sản lượng công nghiệp để có thể lấy
được số liệu trong thời gian dài hơn - Trung Quốc, Sec, Ba Lan.
- Tỷ giá hối đoái ở tất cả các nước tác giả đều sử dụng giá trị danh nghĩa. Nguồn dữ
liệu IFS cho tất cả các thị trường mới nổi. Còn dữ liệu Hồng Kông, Hàn Quốc,
Singapore và Đài Loan lấy từ BIS. Thổ Nhĩ Kỳ và Mexico lấy dữ liệu từ OECD.
Argentina từ JP Morgan; Mỹ và Nhật Bản lấy dữ liệu từ IFS; khu vực đồng tiền
chung châu Âu từ AWM.
- Chỉ số giá nhập khẩu (IPI) được lấy dữ liệu từ IFS, đối với Mỹ, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore, Hungary, Ba Lan, Hồng Kông và Thổ Nhĩ Kỳ. Khu vực đồng
tiền chung Châu Âu được lấy từ ECB. Dữ liệu IPI các nước Đài Loan, Argentina,
Mexico thì lấy từ nguồn quốc gia. Dữ liệu của Chilê được lấy từ IFS đến năm 1995

kết hợp với dữ liệu từ Ngân hàng Chilê. Cộng hòa Sec lấy dữ liệu từ OECD.
Không có dữ liệu chỉ số giá nhập khẩu của Trung Quốc.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) sử dụng dữ liệu từ IFS cho tất cả các nước ngoại trừ khu
vực đồng tiền cung Châu Âu được lấy từ AWM, Hồng Công từ BIS, Trung Quốc
và Đài Loan lấy từ nguồn dữ liệu quốc gia.

Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 9
- Chỉ số giá sản xuất (PPI) được lấy từ IPS cho tất cả các nước, ngoại trừ Hồng
Kông, Đài Loan, Argentina và Trung Quốc lấy dữ liễu từ nguồn quốc gia.
- Lãi suất ngắn hạn: sử dụng lãi suất thị trường đối với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Argentina từ IFS. Khu vực đồng tiền chung Châu
Âu sử dùng dữ liệu từ AWM. Hồng Kông lấy dữ liệu từ BIS, Đài Loan lấy dữ liệu
từ ngân hàng trung ương Trung Quốc. Sử dụng lãi suất tín phiếu từ IFS đối với
Hungary, Mexico. Sử dụng tỷ lệ lãi suất tiền gửi đối với Trung Quốc, Cộng Hòa
Sec, Chilê từ IFS.
- Tỷ lệ nhập khẩu/GDP: sử dụng dữ liệu nhập khẩu từ IFS cho tất cả các quốc gia
ngoại trừ khu vực khu vực đồng tiền châu Âu từ ECB, Trung Quốc, Singapore và
Đài Loan sử dụng dữ liệu quốc gia. Dữ liệu GDP ở tất cả các nước được sử dụng từ
IFS, ngoại trừ khu vực đồng tiền chung Châu Âu theo Eurostat, Trung Quốc,
Singapore và Đài Loan lấy dữ liệu từ nguồn quốc gia.
Tổng hợp những điều kiện vĩ mô bình quân các thị trường mới nổi trong giai đoạn mẫu
được trình bày ở bảng 1. Lạm phát bình quân tương đối thấp ở các nước châu Á đặc
biệt là Đài Loan và Singapore. Mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô của hai nước này là
kết hợp tăng trưởng mạnh trong GDP thực, lạm phát thấp và tỷ giá hối đoái hiệu lực
danh nghĩa ổn định, xét cả về giá trị và mức độ biến động. Các nước ở khu vực Trung
và Đông Âu đã kết hợp tăng trưởng sản lượng khoảng 2-3%, nhưng giảm tỷ lệ lạm
phát. Cộng hòa Séc đã giảm lạm phát dù ở giai đoạn suy thoái kéo dài trong một số
năm sau khủng hoảng ngân hàng 1997 . Trong giai đoạn nghiên cứu, Cộng Hòa Séc,
Hungary và Balan trở lại với hệ thống kinh tế thị trường; qua đó tháo gỡ việc định giá
dưới chuẩn trong giai đoạn đầu tái cơ cấu, áp dụng hiệu ứng Balassa-Samuelson.

Một số quốc gia trải qua áp lực lạm phát cao trong cả giai đoạn được xem xét, trong đó
có hai quốc gia đặc biệt nổi bật là Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ. Argentina đã trải qua siêu
lạm phát trong cơn bão tài chính ở những thời điểm lịch sử khác nhau. Áp lực lạm phát
cao và biến động mạnh trong tỷ giá hối đoái cũng diễn ra ở Thổ Nhĩ Kỳ với những khó
khăn tài chính nghiêm trọng xảy ra nhiều lần. Mexico cũng đã xảy ra những bất ổn thị
trường đáng kể thể hiện qua sự biến động mạnh tỷ giá hối đoái hiệu lực danh nghĩa.
Chile quản lý kinh tế bằng cách giữ tỷ lệ lạm phát bình quân thấp, khoảng 13% từ năm
1980. Cuối cùng nhiều thị trường mới nổi trong mẫu nghiên cứu của tác giả được mô
tả là mở cửa hơn so với cấu trúc kinh tế của chúng. Lấy tiêu chuẩn nhập khẩu như là %
của GDP, theo tác giả mức độ mở của các nền kinh tế trong mẫu được xếp theo thứ tự
giảm dần như sau: Hong Kong, Singapore sau đó là Cộng Hòa Séc và Hungary.
Những nền kinh tế lớn hơn, Trung Quốc và Argentina thì lại tương đối là đóng so với
các thị trường mới nổi khác trong bài nghiên cứu.

Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 10
Bảng 2 tóm tắt các điều kiện kinh tế vĩ mô bình quân trong ba nền kinh tế phát triển để
tạo thành tiêu chuẩn so sánh, đó là Mỹ, khu vực đồng tiền chung châu Âu và Nhật
Bản. Các nền kinh tế này có tỷ lệ lạm phát trung bình thấp và điều kiện kinh tế vĩ mô
ổn định hơn thị trường mới nổi. Trên cơ sở ghi nhận lạm phát ở các thị trường mới nổi,
kỳ vọng tìm thấy hệ số truyền dẫn thấp nhất ở châu Á, cao nhất ở châu Mỹ Latinh
ngoại trừ Chile. Mức độ mở cửa có thể là nhân tố làm giảm ảnh hưởng truyền dẫn lên
CPI trong nền kinh tế Mỹ Latinh tương đối đóng, trong khi lại có ảnh hưởng đặc biệt
quan trọng trong truyền dẫn ở HongKong và Singapore (các nước có mức độ mở cửa
cao nhất trong mẫu nghiên cứu).
Mức độ ERPT của mỗi quốc gia được ước lượng cho các vector được chọn của các
biến nội sinh ở mô hình (1), có tính đến thuộc tính chuỗi thời gian của dữ liệu. Kiểm
định nghiệm đơn vị ở các nước được xem xét là không có tính dừng (chỉ có lãi suất là
có tính dừng trong một vài trường hợp), trong khi kiểm định đồng liên kết Johansen
chỉ cung cấp bằng chứng yếu về mối quan hệ cân bằng dài hạn có thể có giữa các biến
ở một số nước. Với những đặc tính của dữ liệu, mô hình VAR lấy sai phân bậc một

của các biến đại diện không dừng là mô hình kỹ thuật phù hợp- khác với mô hình
Vector Error Correction (VECM) áp dụng khi xuất hiện đồng liên kết. Tuy nhiên tác
giả cũng lựa chọn xem xét những phân tích: (i) tập trung vào sự khác biệt giữa quan hệ
ngắn hạn với các mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến và (ii) ở một vài nền
kinh tế mới nổi, mẫu chỉ có thể thu thập trong một khoảng thời gian ngắn. Một lựa
chọn khả thi thay thế sẽ có được một mô hình VAR tại các cấp độ của biến. Với sự
xuất hiện của đồng liên kết, các phương pháp trước đây sẽ bị ảnh hưởng bởi các phi
tham số và không hiệu quả. VECM sẽ đưa đến ước lượng không phù hợp nếu các
vector đồng liên kết sai được trình bày trong mô hình.
Cụ thể hơn, sự khác biệt đầu tiên trong mô hình VAR là ở các biến không dừng bao
gồm: , , , , và cuối cùng phụ thuộc vào kết quả của kiểm
định nghiệm đơn vị hoặc . Tất cả các mô hình được ước lượng với biến giả
không đổi và biến giả tạm thời. Chiều dài độ trễ của VAR của mỗi quốc gia được xác
định bằng cách dựa vào các thông tin khác nhau như số lượng các kiểm định kỹ thuật.
Tiêu chuẩn thông tin được sử dụng để xác định độ trễ tối ưu nhưng quyết định cuối
cùng thì dựa vào kiểm định kỹ thuật áp dụng cho các mô hình thay thế.
Trong phần tiếp theo, đầu tiên tác giả thảo luận về các kết quả cho ERPT đối với giá
cả nội địa trong những nền kinh tế mới nổi và so sánh chúng đối với nền kinh tế tiên
tiến. Sau đó tác giả cố gắng thiết lập một mối quan hệ về mức độ ERPT giữa các quốc
gia và một số yếu tố quyết định có thể bằng cách tính toán hệ số tương quan. Cuối
cùng tác giả kiểm tra độ mạnh của những kết quả bằng cách áp dụng hai mô hình xác
định lựa chọn.

Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 11
4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu:
4.1. Kết quả thực nghiệm
Ước lượng ERPT trên giá tiêu dùng và giá nhập khẩu cho tất cả các thị trường mới nổi
của mẫu được tóm tắt trong bảng 3 và bảng 4 cho hai khung thời gian cụ thể là sau 4
quý và 8 quý. Đối với hầu hết các quốc gia, kết quả nói chung có vẻ hợp lí về cả CPI
và giá nhập khẩu. ERPT được tìm thấy giảm theo chuỗi giá, tức là truyền dẫn giá nhập

khẩu cao hơn so với giá tiêu dùng. Đặc biệt một năm sau cú sốc, truyền dẫn đối với giá
nhập khẩu được thấy là cao và thống kê chỉ ra không có khác biệt đối với các trường
hợp của Argentina, Chile, Hungary, Mexico, BaLan, Thổ Nhĩ Kỳ, thấp hơn một ít ở
Cộng Hòa Séc, Hàn Quốc và càng thấp hơn ở các nước châu Á khác. Truyền dẫn tỷ
giá lên chỉ số CPI được thấy là cao nhất ở Hungary và Mexico. Ở châu Á, truyền dẫn
lên CPI là thấp cả sau 4 quý và 8 quý. Với Sigapore, ước lượng điểm của các hệ số là
âm, chúng gần bằng 0.
Sau đó tác giả áp dụng một phương pháp tương tự cho khu vực đồng tiền chung châu
Âu, Mỹ và Nhật Bản để đánh giá xem mức độ truyền dẫn có cao hơn so với thị trường
mới nổi hay không?
Bảng 5 đã đưa ra bằng chứng cho thấy kết quả từ các nước ở khu vực đồng tiền chung
châu Âu rất phù hợp với ước lượng được tìm thấy bởi những nghiên cứu tương tự khác
(Hahn,2003) cũng như các phương pháp khác (Anderton, 2003 và Campa và cộng sự,
2005). Kết quả nghiên cứu cho thấy, ERPT ở Mỹ thì rất thấp, cả trong giá nhập khẩu
và giá tiêu dùng (Gagnon và Ihrig, 2004). Ở Nhật, ERPT đối với CPI rất nhỏ cả sau 4
và 8 quý. Ước lượng tác động truyền dẫn tỷ giá đối với giá nhập khẩu của Nhật Bản
cao hơn khu vực đồng tiền chung châu Âu và Mỹ- phù hợp về mặt thống kê về mức độ
truyền dẫn sau 1 năm. So sánh ước lượng truyền dẫn của các nền kinh tế tiên tiến và
mới nổi, kết quả mà tác giả đưa ra phần nào đánh bại các kết quả trước đây cho rằng
mức độ ERPT ở thị trường mới nổi là luôn luôn cao hơn so với các nước phát triển.
Cụ thể hơn chúng ta thấy rằng trong nền kinh tế mới nổi lạm phát thấp (đặc biệt là các
nền kinh tế châu Á), truyền dẫn đối với giá cả tiêu dùng là khá thấp.
Bước tiếp theo, phân tích các yếu tố kinh tế vĩ mô quyết định đến ERPT, tác giả bắt
đầu bằng cách khám phá liệu các bằng chứng về mối tương quan thuận giữa truyền
dẫn và lạm phát có phù hợp với lý thuyết của Taylor. Nhằm mục đích minh họa, tác
giả bắt đầu phân tích chúng bằng cách kiểm tra mối quan hệ giữa mức độ ERPT sau 1
năm và lạm phát của các thị trường mới nổi trong mẫu (xem hình 1).

Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 12


Trong hình 1, có hai tập hợp quốc gia được xác định. Tập hợp đầu tiên là các quốc gia
có lạm phát trung bình hàng năm thấp hơn 10% so với mẫu, có mức độ ERPT
thấp(thông thường thấp hơn 10%). Tập hợp thứ 2, lạm phát trung bình cao hơn, từ
10%-20%, ERPT tác động đối với giá tiêu dùng cao hơn đáng kể (khoảng 40%).
Những kết quả này đã ủng hộ cho lý thuyết của Taylor. Hai quốc gia khác trong mẫu
đó là Argentina và Thổ Nhĩ Kì trở thành nhân tố khác biệt rõ ràng vì chúng kết hợp tỷ
lệ lạm phát trung bình rất cao (trên 60%) và mức truyền dẫn giá tiêu dùng thấp. Nhìn
vào biểu đồ trên ta thấy rằng nếu hai đất nước này có trong phân tích thì lý thuyết của
Taylor sẽ bị phá vỡ. Phương pháp VAR có lẽ không phù hợp với các nước phải trải
qua bất ổn kinh tế vĩ mô nghiêm trọng như siêu lạm phát hay tỷ lệ lạm phát quá cao.
Lấy ví dụ về Argentina, mở rộng mẫu quá lớn tạo ra những biến cố tài chính bất
thường trong phân tích. Loại trừ các giai đoạn lạm phát cao bằng cách hạn chế kỳ chọn
mẫu làm cho không chỉ chiều dài của dữ liệu trở nên quá ngắn mà mẫu còn bị phân
tách từng phần, có thể gây nhầm lẫn. Phương pháp VAR và nói chung tất cả các ước
lượng kinh tế không thể có ý nghĩa đo lường mức độ truyền dẫn nếu giá, tỷ giá hối
đoái và lãi suất quá dễ biến động. Ngược lại, quan điểm kinh tế của Taylor được ủng
hộ nếu loại trừ hai nước Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi mẫu.

Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 13
Mô hình nhấn mạnh về mối tương quan thuận giữa truyền dẫn và lạm phát được xác
định bằng hai phương pháp đo lường chuẩn mối tuơng quan - hệ số tương quan
Pearson và hệ số tương quan xếp hạng Spearman - giữa hệ số truyền dẫn và một số
yếu tố quyết định. Kết quả đưa ra ở bảng 6. Những phương pháp đo lường này xác
định rằng có một mối tương quan dương giữa truyền dẫn và lạm phát của cả giai đoạn
4 và 8 quý. Hệ số tương quan có ý nghĩa trong cả hai trường hợp của Pearson và
Spearman ở cả hai giai đoạn 4 và 8 quý ở mức ý nghĩa 1%. Các biện pháp đo lường
khác cũng cho thấy bất ổn nền kinh tế vĩ mô cũng tương quan thuận với ERPT mặc dù
mức độ ý nghĩa nói chung là khá nhỏ. Tương tự như Choudhri và Hakura (2006) và
McCarthy (2000), tác giả tìm thấy ít bằng chứng về mối quan hệ giữa ERPT, giá tiêu
dùng và sự mở cửa. Phát hiện này có thể được xem là đáng ngạc nhiên so với kỳ vọng

về mối tương quan giữa các biến này, như là kết quả từ các kênh truyền dẫn từ nhập
khẩu đến giá tiêu dùng. Một cách hợp lý hóa các kết quả khó hiểu phía trước, theo
nghiên cứu của Romer(1993) thì có mối tương quan nghịch giữa lạm phát và sự mở
cửa. Sau khi kiểm soát lạm phát, hệ số tương quan giữa truyền dẫn và sự mở cửa là
dương, mặc dù không có ý nghĩa thống kê.
4.2 Thảo luận về các kết quả nguyên cứu
Trong phần này chúng ta đánh giá phạm vi kết quả mô hình rút gọn của chúng ta nhạy
cảm như thế nào với sự lựa chọn và thay đổi trong biến. Chúng ta ước lượng lại với 2
tập hợp lựa chọn, dựa trên thứ tự lựa chọn của biến trong phương pháp phân rã
Cholesky. Mô hình thay thế 1, các biến được sắp xếp theo thứ tự là: oilt, it, yt, et,
pimpt, cpit, điều đặc biệt là tỷ lệ lãi suất đặt trước tỷ giá hối đoái, đề suất bởi Choudhri
và công sự(2002). Thứ tự này cho phép một phản ứng đồng thời trong tỷ giá khi thay
đổi chính sách tiền tệ. Điều này có thể được giải thích dựa trên việc xem xét carry-
trade (kinh doanh chênh lệch lãi suất), thông qua việc khai thác các thất bại của cân
bằng arbitrage. Đánh giá truyền dẫn dưới tập hợp lựa chọn xác định này nhìn chung là
tương tự với những thảo luận phần trước (bảng 7,8). Ngoại trừ Hungary ước tính kênh
truyền dẫn tỷ giá đến giá nhập khẩu và CPI giảm đáng kể. Về giá nhập khẩu, từ trước
một năm sau khi cú sốc hệ số truyền dẫn được tìm thấy là cao và gần bằng 1 ở các
nước Argentina, Mexico và Ba Lan. Trong trường hợp Chile, hệ số truyền dẫn giá
nhập khẩu được tìm thấy thấp hơn một ít và gần với mức độ của Cộng Hòa Czech và
Hàn Quốc một năm sau cú sốc (ở mức khoảng 0,7; 0,8). Một năm sau cú sốc, mức độ
truyền dẫn giá nhập khẩu rất thấp ở những quốc gia Singapore, Đài Loan, dù trong
trường hợp trước đây nó tăng lên đáng kể hai năm sau cú sốc.
Hệ số truyền dẫn vẫn như trước, tác động đến CPI hầu như luôn nhỏ hơn IPI. Truyền
dẫn được tìm thấy cao nhất 1 năm sau cú sốc ở cộng hòa Czech, Mexico và Ba Lan. Ở
châu Á, truyền dẫn tỷ giá đến giá tiêu dùng một lần nữa được tìm thấy là rất thấp.
Thêm nữa, ở Singapore, ước lượng điểm của các hệ số được tìm thấy mang dấu âm và

Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 14
rất gần 0. Một kết quả tổng quát là tất cả các quốc gia đó có lạm phát trung bình nhỏ

hơn 10% thì mức độ truyền dẫn tỷ giá vẫn duy trì. Như trước, mức truyền dẫn đối với
giá tiêu dùng của Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ở mức rất thấp. Loại trừ 2 quốc gia
này, tương quan dương giữa kênh truyền dẫn và lạm phát vẫn được tìm thấy sau 4 quý
và 8 quý, mặc dù mức độ ý nghĩa thấp hơn so với kịch bản đầu tiên mà chúng ta xem
xét (bảng 9). Những đo lường khác về bất ổn kinh tế vĩ mô cũng có tương quan dương
với mức độ ERPT ở những mức ý nghĩa khác nhau của năm đầu tiên và năm thứ hai.
Cuối cùng, tác giả tìm thấy rằng không có bằng chứng có ý nghĩa thống kê nào về mối
quan hệ cùng chiều giữa ERPT và độ mở của nền kinh tế, thậm chí sau khi đã kiểm
soát lạm phát.
Tiếp theo, xem xét mô hình thay thế 2 với sự thay đổi các biến hiện tại và thứ tự lựa
chọn của chúng trong phương pháp phân rã Cholesky. Trong mô hình trước, tác giả
đặt biến giá dầu ở vị tri đầu tiên vì nó có ảnh hưởng phía cung trong nuớc cũng như
chi phí nước ngoài, và vì vậy nên xem tác động của tỷ giá lên chi phí nước ngoài là tác
động ngoại sinh. Một lập luận tương tự áp dụng cho sự gia tăng giá trong nước. Vì vậy
tác giả thay đổi mô hình thay thế này, thay giá dầu bằng giá cả sản xuất nội địa ppit,
một biến cần thiết cho mô hình. Một biến thay thế sử dụng cho mục đích này có lẽ là
tiền lương. Tuy nhiên, biến này không có sẵn một con số đủ lớn ở các quốc gia được
xem xét. Liên quan đến những thay đổi trong trật tự các biến, trong mô hình thay thế 2
chúng ta đã vận dụng một lý thuyết khá mạnh giả định rằng tỷ giá hối đoái không bị
ảnh hưởng đồng thời bởi cú sốc từ bất kỳ biến nào khác, nó ở vị trí đầu tiên và theo
sau là thứ tự các biến: et, pimpt , yt , ppit , cpit, it. Có một bài nghiên cứu lớn thảo
luận ERPT dựa trên mô hình cấu trúc biến đổi, đưa đến những kết luận lý thuyết khác
nhau liên quan đến việc xác định tỷ giá hối đoái dựa trên những giả định cơ bản của
mô hình (Marston, 1990, Devereux và cộng sự, 2006). Trong những mô hình này, một
yếu tố đặc biệt quan trọng là giả định liệu các công ty có được định giá bằng đồng tiền
địa phương nơi họ sản xuất hoặc kinh doanh. Trong khi mô hình này cung cấp liên kết
bên trong của khái niệm ERPT dựa trên những giả định cơ bản, chúng có xu hướng
đưa đến một kết luận mạnh theo đó sự liên kết giữa tỷ giá hối đoái và một tập hợp các
nguyên tắc cơ bản là hợp lý. Tất cả các bài nghiên cứu này có thể phê phán rằng các
biến vĩ mô có rất ít năng lực giải thích cho tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn và trung hạn.

Đặc biệt rất khó để tìm thấy sự phục hồi giá trị trung bình trong tỷ giá hối đoái thực-
sự không ổn định gần đây dường như là do sự gia tăng của tỷ giá hối đoái danh nghĩa
không dễ để thuyết phục bởi những giải thích cơ bản. Liên quan vấn đề này, mô hình
thay thế 2 cho phép tỷ giá hối đoái chịu ảnh hưởng bởi cú sốc từ những biến khác
nhưng với một độ trễ, giả định rằng có ít nhất các nhân tố khác có xu hướng lấn át
(như “giao dịch gây nhiễu” hoặc xem xét các thông tin không hoàn hảo - cả hai rất
quan trọng trong bối cảnh thị trường mới nổi)

Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ 15
Mặc dù mô hình tương đối khác nhau, nhưng kết quả là đáng chú ý tương tự như
những điều đã thảo luận ở phần trước (bảng 10, 11). Truyền dẫn đến giá nhập khẩu
được tìm thấy là gần với 1, cả sau 1 và 2 năm xem xét ở Argentina, Chile, Hungary,
Ba Lan, Mexico and Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi được ước lượng thấp hơn ở các nước châu
Á và cộng hòa Sec. Truyền dẫn giá tiêu dùng nhìn chung thấp hơn truyền dẫn nhập
khẩu ở tất cả các quốc gia và ở một vài quốc gia châu Á là gần bằng 0 sau 1 và 2 năm
xem xét. Lặp lại phân tích tương quan chúng ta kiên định với việc tìm kiếm bằng
chứng của một quan hệ cùng chiều có ý nghĩa giữa truyền dẫn CPI và lạm phát (ở mức
1%), sau khi loại trừ Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ khỏi mẫu (bảng 12). Hệ số tương quan
giữa truyền dẫn CPI và tính không ổn định của kinh tế vĩ mô cũng mang dấu dương và
hầu như luôn có ý nghĩa thống kê ở tất cả các thời gian xem xét. Sự kết hợp giữa
truyền dẫn CPI và độ mở của nền kinh tế có quan hệ cùng chiều sau khi kiểm soát lạm
phát, nhưng không có ý nghĩa thống kê.
5. Kết luận
Bài nghiên cứu này cung cấp bằng chứng thực nghiệm các mô hình trên thế giới về
kênh truyền dẫn tỷ giá lên giá trong nước dựa trên mô hình vector tự hồi quy xem xét
ở một số nuớc, bao gồm một số lượng lớn các nước mới nổi từ ba khu vực mới nổi
trên thế giới và nhóm các nước công nghiệp. Kết quả từ tất cả các quốc gia chỉ ra một
sự suy giảm truyền dẫn tỷ giá trong chuỗi giá cả. Phân tích phần nào bác bỏ một suy
nghĩ phổ biến cho rằng ERPT ở các nền kinh tế mới nổi luôn cao hơn đáng kể so với
các nền kinh tế phát triển. Các thị trường mới nổi với tỷ lệ lạm phát hàng năm chỉ 1

con số (đặc biệt các nước châu Á), ERPT là thấp và khá tương đồng với mức độ ERPT
ở các nước phát triển. Tổng quát hơn, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa truyền dẫn và
lạm phát có ý nghĩa thống kê khi loại bỏ hai nước Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ. Thêm
vào đó, bằng chứng về mối tương quan dương giữa truyền dẫn và độ mở của nền kinh
tế xuất hiện trở nên yếu hơn giữa truyền dẫn và lạm phát, thậm chí sau khi đã kiểm
soát mức độ lạm phát.




×