KHOA CÔNG NGHỆ HÓA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN HỌC : HÓA VÔ CƠ
ĐỀ TÀI:
Người Thực Hiện : Đỗ Hùng Hoàng
Mã Số Sinh Viên: 09113901
Người Hướng Dẫn : TS.Lê Trọng Thành Lớp : 210406002
Thành phố Hồ Chí Minh , 2010
Mục lục
+ Nha khoa 20
+ Y tế 20
5)Các hiệu ứng sức khỏe & môi trường 23
6)Cảnh báo & Quy định 24
2
A.Mở đầu
Hóa học là khoa học về các đặc tính, sự cấu tạo, và cách thay đổi của các chất.
Hóa học nói về các nguyên tố, hợp chất, nguyên tử, phân tử, và các phản ứng xảy ra
giữa những thành phần đó. Hóa vô cơ là một ngành hóa học nghiên cứu các thuộc
tính của các nguyên tố và hợp chất của chúng cũng như các phản ứng hóa học của
các chất nằm ngoài các chu trình chuyển hoá cửa các hợp chất sinh học.
Hóa học phát triển từ giả kim thuật, đã được thực hành từ hàng ngàn năm trước ở
Trung Hoa, Châu Âu và Ấn Độ.
Khoa giả kim thuật nghiên cứu về vật chất, nhưng thế giới của những nhà giả
kim thuật đều dựa trên kinh nghiệm thực tế và công thức bắt nguồn từ thực hành
chứ không dựa vào những nghiên cứu khoa học. Mục đích của họ là một chất gọi là
"Hòn đá thông minh" dùng để biến đổi những chất như thủy ngân thành vàng. Các
nhà giả kim thuật đã tiến hành rất nhiều thí nghiệm để tìm ra chất này qua đó họ đã
phát triển nhiều dụng cụ mà ngày nay vẫn còn được sử dụng trong kỹ thuật hóa học.
Nhưng không một nhà giả kim thuật nào tìm ra được hòn đá thông minh đó và
trong thế kỷ thứ 17, các phương pháp làm việc của khoa giả kim thuật được thay đổi
bằng những phương pháp khoa học. Một phần kiến thức của các nhà giả kim thuật
đang được sử dụng bởi các nhà hóa học, những người làm việc dựa vào kết luận
hợp lý của những gì mà họ quan sát được chứ không dựa vào ý nghĩ biến hóa thủy
ngân thành vàng.
Thủy ngân tuy độc nhưng rất ích lợi. Với tiến độ kĩ thuật tinh chế, thủy ngân
đang tìm thấy những ứng dụng vô cùng hiện đại của thế kĩ như chất siêu dẫn, bơm
chân không…
Việc nghiên cứu để hiểu rõ tính chất vật lý, tính chất hóa học, những ứng dụng
của thủy ngân và hợp chất của thủy ngân sẽ giúp chúng ta phát hiện những mặt lợi
và những mặt nguy hiểm của chúng. Do đó em xin trình bày về đề tài này ở phần
nội dung sau đây.
3
B.Nội dung
1.Thủy ngân
Thủy ngân, là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu Hg (từ
tiếng Hy Lạp hydrargyrum, tức là thủy ngân (hay nước bạc)) và số nguyên tử 80. Là
một kim loại chuyển tiếp nặng có ánh bạc, thủy ngân là một nguyên tố kim loại
được biết có dạng lỏng ở nhiệt độ thường. Thủy ngân được sử dụng trong các nhiệt
kế, áp kế và các thiết bị khoa học khác. Thủy ngân thu được chủ yếu bằng phương
pháp khử khoáng chất thần sa.
Thông tin chung
Tên, Ký hiệu, Số Thủy ngân, Hg, 80
Dãy hóa học Kim loại chuyển tiếp
Nhóm, Chu kỳ, Khối 12 (IIB), 6, d
Tỷ trọng, Độ cứng
lỏng 13.579 kg/m
3
rắn ở −39 °C
15.600 kg/m
3
1,5 Mohs
Màu Trắng bạc
4
Các thuộc tính
Khối lượng nguyên tử 200,59 u
Bán kính nguyên tử (calc.) 150 (171) pm
Bán kính cộng hóa trị 149 pm
Bán kính van der Waals 155 pm
Cấu hình electron [Xe]4f
14
5d
10
6s
2
e
-
trên mức năng lượng 2, 8, 18, 32, 18, 2
Trạng thái ôxi hóa (Ôxít) 2, 1 (bazơ nhẹ)
Cấu trúc tinh thể Lăng trụ xiên
Các thuộc tính vật lý
Trạng thái Lỏng (nghịch từ)
Nhiệt độ nóng chảy 234,32 K (−37,89 °F)
Nhiệt độ sôi 629,88 K (674,11 °F)
Thể tích phân tử 14,09 cm
3
/mol
Nhiệt bay hơi 59,229 kJ/mol
Nhiệt nóng chảy 2,295 kJ/mol
Điểm ba trạng thái 234,32 K, 0,2 mPa
Vận tốc âm thanh 1407 m/s ở 20 °C
5
Các đồng vị ổn định nhất
iso NA Bán rã DM DE M eV DP
Hg
194
{TH} 444 y ε 0,040 Au
194
Hg
195
{TH} 9,9 h ε 1,510 Au
195
Hg
196
0,15% Ổn định với 116 nơtron
Hg
197
{TH} 64,14 h ε 0.600 Au
197
Hg
198
9,97% Bền với 118 nơtron
Hg
199
16,87% Bền với 119 nơtron
Hg
200
23,1% Bền với 120 nơtron
Hg
201
13,18% Bền với 121 nơtron
Hg
202
29,86% Bền với 122 nơtron
Hg
203
{TH} 46,612 ngày β
-
0,492 Tl
203
Hg
204
6,87% Bền với 124 nơtron
6
1.1)Thuộc tính
Thủy ngân có tính dẫn nhiệt kém nhưng dẫn điện tốt.
Thủy ngân tạo ra hợp kim với phần lớn các kim loại, bao gồm vàng, nhôm và
bạc, đồng nhưng không tạo với sắt. Do đó, người ta có thể chứa thủy ngân trong
bình bằng sắt. Telua cũng tạo ra hợp kim, nhưng nó phản ứng rất chậm để tạo ra
telurua thủy ngân. Hợp kim của thủy ngân được gọi là hỗn hống.
Kim loại này có hệ số nở nhiệt là hằng số khi ở trạng thái lỏng, hoạt động hóa
học kém kẽm và cadmium. Trạng thái ôxi hóa phổ biến của nó là +1 và +2. Rất ít
hợp chất trong đó thủy ngân có hóa trị +3 tồn tại.
Thủy ngân rất độc, có thể gây chết người khi bị nhiễm độc qua đường hô hấp.
1.2) Lịch sử
Đây là kim loại thứ bảy được ghi nhận đã tìm thấy từ thời Cổ đại. Người Ấn Độ
và Trung Quốc thời cổ đã biết dùng thủy ngân để hòa tan vàng và bạc.Thủy ngân
được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ Ai Cập 3000 năm trước CN. Thủy ngân có ở
dạng tự sinh (đơn chất). và dạng hợp chất.
Thông số khác
Độ điện âm 2,00 (thang Pauling)
Nhiệt dung riêng 140 J/(kg·K)
Độ dẫn điện 1,041x10
6
/Ω.m
Độ dẫn nhiệt 8,34 W/(m•K)
Năng lượng ion hóa thứ
nhất
1007.1 kJ/mol
Năng lượng ion hóa thứ hai 1810 kJ/mol
Năng lượng ion hóa thứ ba 3300 kJ/mol
7
Hg là ký hiệu hóa học ngày nay cho thủy ngân. Nó là viết tắt của Hydrargyrum,
từ Latinh hóa của từ Hy Lạp Hydrargyros, là tổ hợp của 2 từ 'nước' và 'bạc' — vì nó
lỏng giống như nước, và có ánh kim giống như bạc. Trong ngôn ngữ châu Âu,
nguyên tố này được đặt tên là Mercury, lấy theo tên của thần Mercury của người La
Mã, được biết đến với tính linh động và tốc độ. Biểu tượng giả kim thuật của
nguyên tố này cũng là biểu tượng chiêm tinh học cho Thủy Tinh.
Nước nổi tiếng thế giới về khai thác thủy ngân từ quặng là Tây Ban Nha. Tại
nước này, trên vùng núi cao, dưới đáy các hố sâu cũng đã tìm thấy thủy ngân tự
sinh.
Thủy ngân kém hoạt động hóa học, cho nên hợp chất tự nhiên của thủy ngân
không bền. Chỉ cần những thao tác đơn giản đã có thể lấy thủy ngân ra khỏi quặng.
Bác sĩ Hi Lạp Điôxcôrit (Dioskorides), thế kỉ đầu CN đã điều chế được thủy ngân
bằng cách đun nóng thần sa (HgS) trong chảo sắt đặt trong nồi đất sét đậy kín. Hơi
thủy ngân ngưng tụ trên nắp nồi.
Có thể diễn tả bằng phương trình hóa học sau:
HgS + Fe
→
Hg + FeS
Thật ra, chỉ cần đun nóng quặng ở nhiệt độ 700 - 800°C trong không khí là đã
có thể thu được hơi thủy ngân:
HgS + O
2
→
Hg + SO
2
Có thể nói, thủy ngân là một kim loại đặc biệt hiếm có. Bởi tính chất đặc biệt
này đã có bao nhiêu chuyện lý thú về thủy ngân.
Có kim loại nào trên thế giới này, mùa hè cũng như mùa đông luôn luôn ở trạng
thái lỏng? Có chất lỏng nào nặng hơn thủy ngân? Có kim loại nào hòa tan được các
kim loại khác ở nhiệt độ thường? Danh từ “hỗn hống” là để chỉ hợp kim của thủy
ngân với kim loại.
Nhờ hiện tượng hỗn hống ( sự hòa tan của kim loại khác vào thủy ngân) một số
nguyên tố hóa học Ba, Sr, Mg đã được tìm ra. Cũng nhò hiện tượng hỗn hống mà
nhiều mái vòm nhà thờ thế kỉ trước được phủ bằng vàng thật. Người ta hòa tan vàng
trong thủy ngân, quét lớp “dung dịch” này lên những tấm đồng mỏng dùng làm mái
vòm. Đun nóng cho thủy ngân bay hơi, còn lại vàng.
8
Chưa có kim loại nào được nhắc đến nhiều trong suốt quá trình lịch sử như thủy
ngân. Trong tác phẩm của nhà triết học cổ Hi Lạp Arixtot ( thế kỉ 4 trước CN) đã
nói đến thủy ngân. Bác sĩ Điôxcôrit gọi thủy ngân là “bạc nước”. Thời kì Giả kim
thuật, người ta kiên trì thực hiện ước mơ viển vông – biến thủy ngân thành vàng.
Lịch sử còn ghi nhận câu chuyện uống thủy ngân để chữa bệnh xoắn ruột sau đây:
cho bệnh nhân uống một lúc khoảng 200 – 250 g thủy ngân, thầy thuốc lí luận do
sức nặng và nhờ tính linh động, thủy ngân sẽ nhanh chóng “chu du” khắp đoạn
trường và nhờ đó được thong chỗ ruột bị tắc!
Dĩ nhiên, không nên áp dụng phương pháp này bởi vì ngày nay thủy ngân đã bị
liệt vào bảng các chất độc, nhất là hơi của nó.
Vào thế kỉ 16, vua Thụy Điển là Erich XIV bị người em cướp ngôi. Lịch sử ghi
lại rằng có thể nhà vua bị đầu độc, Nhưng làm thế vào chứng minh được.
Mãi đến 4 thế kỉ sau, bằng phương pháp phân tích tinh vi, các bác sĩ đã xác địch
được rằng nhà vua đã bị đầu độc bằng thủy ngân, bởi vì hàm lượng của thủy ngân
trong tóc lấy ở hài cốt ra tăng gấp nhiều lần so với mức bình thường.
Còn câu chuyện của vua nước Anh Caclô II, thế kỉ 17 thì sao? Hồi ấy nhà vua
cũng có phòng thí nghiệm riêng ở cung đình, ngoài giờ cai trị nước và đi săn bắn,
nhà vua còn có thú vui nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, nung nóng và chưng cất
thủy ngân, một kim loại rất phổ biến của thời Giả kim thuật. Kết quả, sau một thời
gian, nhà vua trở nên cáu kỉnh, bị co giật và viêm thận mãn tính. Đó là những triệu
chứng của nhiễm độc hơi thủy ngân.
Năm 1801, khi chiếc tàu thủy nước Anh :Trimph” chở thủy ngân, trong dó có
thùng bị vỡ, thủy ngân chảy lai láng ra ngoài, hơn 200 người bị ngộ độc.
2)Hợp chất của thủy ngân
2.1)Hợp chất của Hg(II)
Khác với Zn và Cd, thủy ngân tạo nên hai loại hợp chất, trong đó nó có số oxi
hóa +1 và +2. Xác xuất tạo thành hai trạng thái oxi hóa đó gần như tương đương với
nhau về mặt nhiệt động học, trong đó trạng thái oxi hóa +2 thường gặp hơn và bền
hơn.
+ Thủy ngân(II) oxit
9
Thủy ngân(II) oxit (HgO) là chất ở dạng tinh thể tà phương, hạt rất nhỏ có màu
vàng, hạt to hơn có màu đỏ. Nó được cấu tạo từ những mạch dài, gãy và phẳng liên
kết yếu với nhau.
Trong khi ZnO và CdO có thể thăng hoa không phân hủy ở nhiệt độ cao, HgO
phân hủy ở trên 400°C. Điều này phù hợp với sự biến đổi nhiệt tạo thành của các
oxit đó:
ZnO CdO HgO
∆H°
tt
, kJ/mol… -318 -226 -58,5
Bởi vậy ở ~ 100°C, HgO bị H
2
khử dễ dàng thành Hg và ở nhiệt độ thường
HgO dễ tác dụng với khí clo hay nước clo tạo nên kết tủa oxoclorua màu nâu đỏ:
2HgO + 2Cl
2
→
Hg
2
OCl
2
+ Cl
2
O
2HgO + 2Cl
2
+ H
2
O
→
Hg
2
OCl
2
+ 2HOCl
(Thủy ngân oxoclorua Hg
2
OCl
2
thường được biểu diễn dưới dạng hợp chất kép
HgO.HgCl
2
).
Thủy ngân(II) oxit tan rất ít trong nước, tan dễ trong dung dịch Nh
3
, HgO không
tạo nên amoniacat như ZnO mà tạo nên hợp chất ít tan màu vàng gọi là bazơ Milon:
2HgO + NH
3
+ H
2
O
→
Hg
2
NOH.2H
2
O
Bazơ Milon Hg
2
NOH.2H
2
O là một trong những hợp chất mới của Hg với N,
trong đó ion Hg
2
N
+
có mạng lưới tinh thể kiểu cristobalit còn ion OH¯ và phân tử
H
2
O được giữ ở trong lỗ trống của mạng lưới đó bằng lien kết ion, lien kết hidro và
lực phân tán.
10
Mạng lưới Hg
2
N
+
trpng bazơ Milon
Bazơ Milon phản ứng với axit tạo nên muối có công thức chung là Hg
2
NX.H
2
O,
trong đó X = NO
3
¯ , ClO
4
¯ , Cl¯ , Br¯ , I¯ v.v… Sự tạo thành kết tủa nâu Hg
2-
NI.H
2
O là phản ứng rất nhạy để phát hiện NH
3
hoặc NH
4
+
bằng thuốc thử Nesle là
dung dịch K
2
[HgI
4
] trong kềm:
2K
2
[HgI
4
] + 3KOH + NH
3
→
Hg
2
NI.H
2
O + 7KI + 2H
2
O
Trong thiên nhiên, HgO tồn tại ở dạng khoáng vật hiếm montroiđit. HgO dùng
để điều chế hợp chất khác của thủy ngân, chế sơn vỏ tàu biển, thuốc mỡ và pin thủy
ngân. Pin thủy ngân gồm có cực âm làm bằng hỗn hống kẽm, cưc dương là bột nhão
của HgO trộn với than và chất điện li là bột nhão của ZnO trộn với KOH. Trong pin
xãy ra phản ứng:
Zn + HgO
→
ZnO + Hg
Pin thủy ngân được làm ở dạng cúc dùng cho máy nghe, đồng hồ đeo tay. Pin có
thế hiệu 1,34V.
Dạng vàng của HgO được điều chế khi cho thêm kiềm vào dung dịch muối
Hg(II), dạng đỏ được điều chế bằng cách đun nóng Hg trong không khí ở 350°C
hoặc nhiệt phân cẩn thận muối nitrat.
Ví dụ:
Hg(NO
3
) + 2KOH
→
HgO + 2KNO
3
+ H
2
O
2Hg(NO
3
)
2
→
2HgO + 4NO
2
+ O
2
+ Thủy ngân(II) hiđroxit
Khi thêm kiềm vào dung dịch muối Hg(II), chỉ thu được HgO chứ không tách ra
được Hg(OH)
2
. Tuy nhiên dựa vào độ tan rất bé của HgO ( 10
-3
– 10
-4
mol/l) trong
nước và tính thủy phân mạnh của muối Hg(II) người ta thường coi Hg(OH)
2
là một
bazơ yếu.
11
+ Muối của Hg(II)
Các muối nitrat, peclorat, sunfat và axetat của Hg(II) dễ tan trong nước còn các
muối sunfua, orthophotphat và muối bazơ ít tan. Khi tan trong nước, một số muối
Hg(II) phân li rất kém, nhất là Hg(CN)
2
được coi là chất không điện li, các muối
còn lại phân li bình thường và bị phân hủy mạnh.
Đa số muối đơn của Hg(II) không có màu trừ HgS có màu đen hoặc đỏ, HgI
2
có
màu vàng hoặc đỏ.
Thủy ngân là một kim loại tạo nên nhiều hợp chất rất kém bền và dễ phân hủy
nổ như HgC
2
, Hg
3
N
2
, Hg(N
3
)
2
vàHg(OCN)
2
. Ví dụ như HgC
2
được tạo nên khi C
2
H
2
tác dụng với dung dịch HgCl
2
. Nó có kiến trúc tinh thể giống như CaC
2
nhưng khi
tác dụng với axit không tạo nên C
2
H
2
mà CH
3
CHO:
HgC
2
+ 2HCl + H
2
O
→
HgCl
2
+ CH
3
CHO
Sơ đồ thế oxi hóa – khử:
Hg
2+
0,920
Hg
2
2+
0,789
Hg°
0,854
Cho thấy muối Hg(II) có khả năng oxi hóa, khi tác dụng với những chất khử
muối Hg(II) mới đầu biến thành muối Hg(I) rồi sau đó biến thành Hg(0). Ngay khi
tác dụng với thủy ngân kim loại, muối Hg(II) tạo thành muối Hg(I).
Ví dụ:
Hg(NO
3
)
2
+ Hg
→
Hg
2
(NO
3
)
2
Bởi vậy khi tác dụng với axit nitric hay axit sunfuric đặc, nếu có dư thủy ngân
thì sản phẩm thu được không phải là muối Hg(II) mà là muối của Hg
2
2+
.
Ion Hg
2+
có khả năng tạo nên nhiều phức chất, trong đó thủy ngân có những số phối
trí đặc trưng là 2 và 4. Những phức chất này bền hơn những phức chất tương ứng
của Zn
2+
va Cd
2+
.
+ Thủy ngân(II) halogenua
Thủy ngân(II) halogenua (HgX
2
) là chất dạng tinh thể không màu, trừ HgI
2
có
màu đỏ. Dưới đây là một số tính chất vật lý quan trọng của chúng.
HgF
2
HgCl
2
HgBr
2
HgI
2
12
Nhiệt độ nóng
chảy, °C
645 280 238 257
Nhiệt độ sôi,
°C
650 303 318 351
Độ tan ở
20°C,g/100g
nước
Thủy phân 6,59 0,55 0,004
Thủy ngân(II) florua là hợp chất ion, có kiến trúc mạng lưới kiểu florit (CaF
2
).
Nó có nhiệt độ nóng chảy và nhiệt độ sôi cao nhất trong có halogenua. Nó bị thủy
phân gần như hoàn toàn ngay trong nước lạnh. Điều này cho thấy nó là một muối
ion được tạo nên bởi một axit yếu và bazơ rất yếu.
Ba halogenua còn thể hiện rõ đặc tính cộng hóa trị, ting thể HgCl
2
có mạng lưới
phân tử, các tinh thể HgBr
2
và HgI
2
có mạng lưới lớp. Chúng có nhiệt độ nóng chảy
và nhiệt độ sôi thấp so với HgF
2
, tan trong một số dung môi hữu cơ nhiều hơn trong
nước. Ở trong nước, ba halogenua này phân ly rất kém (~1%) nên bị thủy phân
không đáng kể. Ở trạng thái hơi và trong dung dịch, chúng đều tồn tại ở dạng phân
tử.
Tất cả các halogenua HgX
2
có thể điều chế bằng tác dụng trực tiếp của các đơn
chất, trong đó HgCl
2
là hóa chất được sử dụng rộng rãi nhất.
Thủy ngân(II) clorua (HgCl
2
) là hợp chất thuần túy cộng hóa trị, kết tinh ở dạng
tinh thể nhỏ hệ tà phương, dễ nóng chảy, dễ bay hơi và có thể thăng hoa. Nó rất bền
trong không khí, rất độc, tan trong nước, rượu, ete, axeton, benzene và clorofom.
Độ tan của nó ở trong nước biến đổi nhiều theo nhiệt độ, 100g nước hòa tan 6,6g ở
20°C và 54g ở 100
o
C.
Dung dịch nước của HgCl
2
có phản ứng axit rất yếu vì bị thủy phân:
HgCl
2
+ H
2
O HgOHCl + HCl
Là chất rất kém điện ly, HgCl
2
được tạo nên khi đun nóng HgO trong dung dịch
NaCl:
HgO + 2NaCl + H
2
O HgCl
2
+ 2NaOH
Nhưng lại có thể tác dụng với dung dịch axit xianhiđric giải phóng axit
clohiđric nhờ tạo thành chất không điện ly Hg(CN)
2
:
2HCN + HgCl
2
→
Hg(CN)
2
+ 2HCl
Phản ứng này được dùng để định lượng axit xianhiđric.
13
Khi tác dụng với những chất khử, HgCl
2
có thể tạo nên Hg
2
Cl
2
hay thủy ngân
kim loại.
Ví dụ:
HgCl
2
+ SO
2
+ 2H
2
O
→
Hg + H
2
SO
4
+ 2HCl
2HgCl
2
+ SnCl
2
→
Hg
2
Cl
2
+ SnCl
4
2HgCl
2
+ H
2
C
2
O
4
→
Hg
2
Cl
2
+ 2HCL + 2CO
2
Khác vớ ZnCl
2
và CdCl
2
, khi tác dụng với dung dịch NH
3
, thủy ngân(II) clorua
không tao nên aminoacat mà tạo nên amiđoclorua là hợp chất ít tan, có màu trắng và
phân hủy trước khi nóng chảy:
HgCl
2
+ 2NH
3
→
HgNH
2
Cl + NH
4
Cl
Amoniacat chỉ được tạo nên trong dung dịch NH
3
đặc và có dư NH
4
Cl:
HgCl
2
+ 2NH
3
→
[Hg(NH
3
)
2
]Cl
2
Amoniacat này là hợp chất ít tan, có màu trắng và có thể nóng chảy không phân
hủy.
Khi đun sôi dung dịch HgCl
2
với HgO, tùy thuộc vào tỉ lệ của các chất phản
ứng, người ta có thể kết tinh được những oxoclorua có các thành phần: HgO.HgCl
2
,
2HgO.HgCl
2
, 3HgO.HgCl
2
…
Thủy ngân(II) clorua có thể được điều chế bằng cách đun nóng hỗn hợp HgSO
4
và NaCl ở 300°C hoặc hòa tan HgO hay HgSO
4
trong axit clohiđric hoặc hòa tan
Hg trong cường thủy:
HgSO
4
+ 2NaCl
→
HgCl
2
+ Na
2
SO
4
HgO + 2HCl
→
HgCl
2
+ H
2
O
HgSO
4
+ 2HCl
→
HgCl
2
+ H
2
SO
4
3Hg + 6HCl + 2HNO
3
→
3HgCl
2
+ 2NO + 4H
2
O
+ Thủy ngân(II) sunfua
Thủy ngân(II) sunfua (HgS) là dạng tinh thể có màu đỏ hoặc màu đen. Tinh thể
dạng đỏ có kiến trúc kiểu vuazit, dạng đen có kiến trúc kiểu sphalerit và nóng chảy
ở 820°C. Trong hai dạng tinh thể đó, dạng đỏ bền hơn. Khi đun nóng ở 344°C dạng
đen chuyển sang dạng đỏ. Dạng đỏ có thể thăng hoa ở 559°C.
Thủy ngân(II) sunfua tan rất ít trong nước và tan ít hơn nhiều so với ZnS và
CdS cùng là những chất ít tan. Tích số tan của ZnS, CdS và HgS là 10
-24
, 10
-28
và 10
-
53
tương ứng. Bởi vậy, các sunfua này tan khác nhau trong axit: ZnS tan trong dung
14
dịch axit loãng, CdS tan trong dung dịch axit khá đặc, còn HgS tan rất chậm trong
dung dịch axit đặc kể cả HNO
3
và chỉ tan dễ khi đun nóng với cường thủy.
3HgS + 8HNO
3
+ 6HCl
→
3HgCl
2
+ 3H
2
SO
4
+ 8NO + 4H
2
O
Sự tăng màu và giảm độ tan trong nhóm ZnS-CdS-HgS có nguyên nhân là
cation M
2+
với vỏ 18 electron có bán kính tăng lên nên càng dễ bị cực hóa bởi anion
S
2-
và nhờ đó hiệu ứng cực hóa thêm của M
2+
đối với S
2-
tăng lên.
Khác với ZnS và CdS, thủy ngân(II) sunfua tan trong dung dịch đặc của sunfua
kim loại kiềm tạo nên phức chất tan M
2
[HgS
2
] có màu vàng (M = Na, K):
HgS + K
2
S
→
K
2
[HgS
2
]
(kali thiomecurat)
Thủy ngân(II) sunfua dạng đỏ tồn tại trong tự nhiên dưới dạng khoáng vật
xinaba có màu đỏ. Dạng đen của HgS có thể điều chế khi nghiền lưu huỳnh với
thủy ngân kim loại hoặc khi sục khí H
2
S qua dung dịch muối Hg(II).
Ví du:
HgCl
2
+ H
2
S
→
HgS + 2HCl
Dạng đỏ của HgS được điều chế bằng cách đun nóng dạng đen hoặc cho thăng
hoa hỗn hợp gồm lưu huỳnh và Hg (hay HgO) ở 600°C trong luồng khí nitơ.
+ Phức chất của Hg(II)
Ion Hg
2+
tạo nên nhiều phức chất bền. Liên kết Hg-phối tử ở trong tất cả các
phức chất, nhất là phức chất với số phối trí 2, là liên kết cộng hóa trị. Bền nhất là
những phức chất được tạo nên với phối tử chúa halogen, cacbon, nitơ, photpho, lưu
huỳnh. Những phức chất này của Hg(II) luôn luôn bền hơn những phức chất tương
ứng của Zn(II) và Cd(II).
Hằng số bền của phức chất [EX
4
]
n
( trong đó E =Zn, Cd và Hg; X=Cl¯, Br¯, I¯,
CN¯, SCN¯ và NH
3
; n=2- và 2+.
Phức chất
Hằng số bền, K
b
Cl¯ Br¯ I¯ CN¯ SCN¯ NH
3
[ZnX
4
]
n
1 0,10 4,5.10
-3
7,69.10
16
20 5,0.10
8
[CdX
4
]
n
1,1.10
2
5.10
3
1,25.10
6
1,29.10
17
2,5.10
2
3,36.10
6
[HgX
4
]
n
1,66.10
15
1,0.10
21
6,67.10
29
9,33.10
38
1,69.10
2
-
Những phức chất của Hg(II) được dùng trong hóa học phân tích là K
2
[HgI
4
] và
(NH
4
)
2
[Hg(SCN)
4
].
Muối phức kali tetraiođomecurat K
2
[HgI
4
] tan trong nước, có màu vàng nhạt,
được tạo nên khi hòa tan hết kết tủa đỏ HgI
2
trong dung dịch KI:
15
Hg(NO
3
)
2
+ 2KI
→
HgI
2
+ 2KNO
3
HgI
2
+ 2KI
→
K
2
[HgI
4
]
Thuốc thử Nesle (tên nhà hóa học người Đức J.Nessler, 1827-1905, năm 1868
ông đã dùng thuốc thử này để định tính và định lượng tạp chất NH
3
và muối amoni
ở trong các chất) là dung dịch của K
2
[HgI
4
] trong KOH
Nhờ sự tạo thành phức chất [HgI
4
]
2-
khá bền, HgO có thể tan trong dung dịch KI
khi đun nóng:
HgO + 4KI + H
2
O
→
K
2
[HgI
4
] + 2KOH
Muối phức amoni tetratioxianatomecurat (NH
4
)
2
[Hg(SCN)
4
] tạo nên khi hòa tan
kết tủa trắng Hg(SCN)
2
trong dung dịch NH
4
SCN:
HgCl
2
+ 2NH
4
SCN
→
Hg(SCN)
2
+ 2NH
4
Cl
Hg(SCN)
2
+ 2NH
4
SCN
→
(NH
4
)
2
[Hg(SCN)
4
]
Dung dịch (NH
4
)
2
[Hg(SCN)
4
] được dùng để phát hiện ion Cu
2+
và ion Co
2+
khi
có mặt ion Zn
2+
, ion Cu
2+
tạo nên kết tủa màu tím thẫm:
Cu
2+
+ Zn
2+
+ 2[Hg(SCN)
4
]
2-
→
Cu[Hg(SCN)
4
].Zn[Hg(SCN)
4
]
Trong khi ion Co
2+
tạo nên kết tủa màu chàm thẫm:
Co
2+
+ Zn
2+
+ 2[Hg(SCN)
4
]
2-
→
Co[Hg(SCN)
4
].Zn[Hg(SCN)
4
]
+ Hợp chất cơ thủy ngân
Thủy ngân(II) tạo nên một số chất cơ kim, trong đó nhiều chất có hoạt tính sinh
học. Những cơ thủy ngân có công thức tổng quát là RHgX và R
2
Hg ( trong đó R là
gốc hiđrocacbon và X là amoni axit)
Những chất cơ thủy ngân thường là hợp chất cộng hóa trị, tan trong dung môi
hữu cơ nhiều hơn trong nước. Chỉ những RHgX, trong đó X là NO
3
¯ hay SO
4
2-
, là
hợp chất ion, ví dụ như [RHg]
+
NO
3
¯.
Đa số cơ thủy ngân là chất lỏng dễ bay hơi, độc và rất có khả năng phản ứng.
Người ta thường dùng chúng để điều chế những chất cơ kim khác.
Ví dụ:
R
2
Hg + Zn
→
R
2
Zn + Hg
Những cơ thủy ngân thường được điều chế bằng tác dụng của HgCl
2
với thuốc
thử Grinha lấy theo những tỉ lệ nhất định.
Ví dụ:
2RMgI + HgCl
2
→
R
2
Hg + MgI
2
+ MgCl
2
16
R
2
Hg + HgCl
2
→
2RHgCl
2.2)Hợp Chất Của Hg(I)
Như đã nhận xét ở trên, khác Zn và Cd, thủy ngân còn tạo nên những hợp chất
trong đó có ion Hg
2
2+
với liên kết Hg-Hg. Sự tồn tại của ion đó được xác minh bằng
thực nghiệm:
-Phương pháp từ-hóa học cho biết các hợp chất của Hg (I) đều nghịch từ , trong khi
Hg
+
có electron độc thân.
-Phương pháp nghiên cứu kiến trúc bằng tia Rơnghen cho biết trong các hơp chất
của Hg(I), liên kết Hg-Hg có độ dài biến đổi 2,43 đến 2,69 Å tùy thuộc vào anion
của hợp chất.
-Phương pháp đo độ dẫn điện của dung dịch thủy ngân (I) nitrat xác nhận trong
dung dịch có mặt Hg
2
(NO
3
)
2
chứ không có monome HgNO
3.
Có một số ít hợp chất của Hg(I), Đa số muối ít tan trừ Nitrat,Peclorat và Clorua dễ
tan.
Do có số oxi hóa trung gian , ion Hg
2
2+
dễ bị khử thàng Hg và cũng dễ bị oxi
hóa thành ion Hg
2+
.
Ví Dụ:
Hg
2
Cl
2
+ SnCl
2
→
2Hg + SnCl
4
Hg
2
Cl
2
+ SO
2
+ 2H
2
O
→
2Hg + H
2
SO
4
+ 2HCl
Hg
2
Cl
2
+ Cl
2
→
2HgCl
2
3Hg
2
Cl
2
+ 8HNO
3
→
3HgCl
2
+ 3Hg(NO
3
)
2
+ 2NO + 4H
2
O
Theo sơ đồ oxi hóa-khử, cân bằng tự phân hủy trong dung dịch của ion Hg
2
2+
:
Hg
2
2+
Hg + Hg
2+
Có thế oxi hóa-khử chuẩn E
o
= - 0,13V
và có hằng số cân bằng K= =6,0.10
-3
Hằng số cân bằng đó cho thấy ion Hg
2
2+
chỉ bền và không tự phân hủy trong 1
giới hạn hẹp.Cân bằng đó chuyển dịch nhiều sang bên phải bởi tác dụng của những
chất có khả năng làm giảm mạnh nồng độ của ion Hg
2+
bằng cách tạo kết tủa ít tan ,
hợp chất kém điện li hoặc phức chất bền.
Ví Dụ:
Hg
2
2+
+ 2OH
-
→
Hg + HgO + H
2
O
Hg
2
2+
+ S
2-
→
Hg + HgS
Hg
2
2+
+ 2CN
-
→
Hg + Hg(CN)
2
17
Hg
2
2+
+ 4CN
-
→
Hg + [Hg(CN)
4
]
2-
Đây là nguyên nhân có ít hợp chất của Hg(I)
Ion Hg
2
2+
không có khả năng tạo phức như Hg
2+
có lẽ vì liên kết giữa ion Hg
2
2+
và những phối tử khá mạnh làm yếu liên kết Hg-Hg trong ion đó gây nên sự phân
bố lại mật độ electron giữa 2 nguyên tử thủy ngân nên một biến thành Hg một biến
thành Hg
2+
.
+ Thủy ngân(I) nitrat
Đihiđrat thủy ngân (I) nitrat Hg
2
(NO
3
)
2
.2H
2
O là chất dạng tinh thể tà phương
không màu , dễ tan trong nước và bị thủy phân tạo thành muối bazơ:
Hg
2
(NO
3
)
2 +
H
2
O Hg
2
OHNO
3
+ HNO
3
Bởi vậy , khi pha dung dịch muối đó, cần phải them HNO
3
vào dung dịch để
đẫy lùi phản ứng thủy phân
Thủy ngân (I) nitrat thường dung làm chất đầu để điều chế những hợp chất khác
của Hg(I).Nó được điều chế bằng tác dụng của một lượng dư Hg với dung dịch
HNO
3
có nồng độ trung bình.
+ Thủy ngân(I) halogenua
Thủy ngân (I) halogenua (Hg
2
X
2
) là chất dạng tinh thể tứ phương ,tinh thể Hg
2-
F
2
và Hg
2
I
2
có màu vàng còn tinh thể Hg
2
Cl
2
và Hg
2
Br
2
có màu trắng .Trừ Hg
2
I
2
kém bền với nhiệt, các halogen còn lại có thể thăng hoa mà không phân hủy.
Thủy ngân (I) Florua rất dễ tan trong nước và bị thủy phân mạnh theo phản ứng :
Hg
2
F
2
+ H
2
O
→
Hg + HgO + 2HF
Ba halogen còn lại rất ít tan nên không bị thủy phân
và không tự phân hủy . Độ tan của chúng giảm xuống từ
clorua đến iođua:
Hg
2
Cl
2
Hg
2
Br
Hg
2
I
2
Tích số tan ,TT 1,3.10
-18
5,2.10
-23
4,5.10
-29
Cả bốn halogenua đều tự phân hủy khi tác dụng với
dung dịch NH
3
:
Hg
2
X
2
+ 2 NH
3
→
Hg + HgNH
2
X + NH
4
X
Trước kia phản ứng này được dung để phát hiện
Hg
2
Cl
2
.
18
Khi tác dụng với dung dịch ammoniac, Hg
2
Cl
2
tạo nên 1 sản phẩm ít tan màu
đen bao gồm kết tủa HgNH
2
Cl màu trắng trộn lẫn với những hạt Hg rất bé màu
đen .Tên gọi calomen của Hg
2
Cl
2
tiếng Hy Lạp có nghĩa là màu đen đẹp
Trong các Halogenua này Hg
2
Cl
2
là hóa chất thông dụng nhất. trong điện hóa
học , Hg
2
Cl
2
được dung làm điện cực calomen .Điện cực đó làm bằng thủy ngân bên
trên phủ lớp bột nhão gồm có calomen và thủy ngân , tiếp xúc với dung dịch KCl
bảo hòa . Điện cực này có thể là 0,246 V ở 25
o
C đối với điện cực Hidro chuẩn vì
điện cực hidro gặp 1 số khó khăn về kĩ thuật , nên người ta dung 1 số điện cực khác
để thay thế . Điện cực calomen là 1 điện cực so sanh được sử dụng phổ biến nhất .
Các muối thủy ngân (I) halogenua có thể điều chế được hoặc trực tiếp từ các
nguyên tố hoặc bằng phản ứng trao đổi giữa Hg
2
(NO
3
)
2
và halogenua kim loại
kiềm .
3)Ứng dụng
Thủy ngân được sử dụng chủ yếu trong sản xuất các hóa chất,trong kỹ thuật
điện và điện tử. Nó cũng được sử dụng trong một số nhiệt kế. Các ứng dụng khác
là:
• Máy đo huyết áp chứa thủy ngân (đã bị cấm ở một số nơi).
• Thimerosal, một hợp chất hữu cơ được sử dụng như là chất khử trùng trong
vaccin và mực xăm (Thimerosal in vaccines).
• Phong vũ kế thủy ngân, bơm khuyếch tán, tích điện kế thủy ngân và nhiều
thiết bị phòng thí nghiệm khác. Là một chất lỏng với tỷ trọng rất cao, Hg
được sử dụng để làm kín các chi tiết chuyển động của máy khuấy dùng trong
kỹ thuật hóa học.
• Điểm ba trạng thái của thủy ngân, -38,8344 °C, là điểm cố định được sử
dụng như nhiệt độ tiêu chuẩn cho thang đo nhiệt độ quốc tế (ITS-90).
• Trong một số đèn điện tử.
• Hơi thủy ngân được sử dụng trong đèn hơi thủy ngân và một số đèn kiểu
"đèn huỳnh quang" cho các mục đích quảng cáo. Màu sắc của các loại đèn
này phụ thuộc vào khí nạp vào bóng.
19
• Thủy ngân được sử dụng tách vàng và bạc trong các quặng sa khoáng.
• Thủy ngân vẫn còn được sử dụng trong một số nền văn hóa cho các mục đích
y học dân tộc và nghi lễ. Ngày xưa, để chữa bệnh tắc ruột, người ta cho bệnh
nhân uống thủy ngân lỏng (100-200 g). Ở trạng thái kim loại không phân tán,
thủy ngân không độc và có tỷ trọng lớn nên sẽ chảy trong hệ thống tiêu hóa
và giúp thông ruột cho bệnh nhân.
Các sử dụng khác: chuyển mach điện bằng thủy ngân, điện phân với cathode
thủy ngân để sản xuất NaOH và clo, các điện cực trong một số dạng thiết bị điện tử,
pin và chất xúc tác, thuốc diệt cỏ (ngừng sử dụng năm 1995), thuốc trừ sâu, hỗn
hống nha khoa, pha chế thuốc và kính thiên văn gương lỏng.
+ Nha khoa
Thủy ngân nguyên tố là thành phần chính trong hỗn hống nha khoa. Tranh luận
xung quanh các ảnh hưởng sức khỏe từ việc sử dụng hỗn hống thủy ngân bắt đầu kể
từ khi nó được đưa vào sử dụng ở phương Tây, khoảng 200 năm trước. Năm 1843,
Hiệp hội các nha sĩ Mỹ, lo ngại về ngộ độc thủy ngân, đã yêu cầu các thành viên ký
cam kết bảo đảm không sử dụng hỗn hống. Năm 1859, Hiệp hội nha khoa Mỹ
(ADA) đã được các nha sĩ (tin rằng hỗn hống là an toàn và hiệu quả) thành lập.
ADA, "tiếp tục tin rằng hỗn hống là lựa chọn có giá trị, an toàn đối với các bệnh
nhân nha khoa" như đã viết ra trong tuyên bố về hỗn hống nha khoa của họ. Năm
1993, Dịch vụ sức khỏe cộng đồng Mỹ báo cáo rằng "việc bơm hỗn hống giải
phóng một lượng nhỏ hơi thủy ngân", nhưng nhỏ tới mức nó "không chỉ ra to các
hiệu ứng bất lợi cho sức khỏe nào". Năm 2002, California trở thành bang đầu tiên
cấm sử dụng việc bơm hỗn hống trong tương lai(có hiệu lực từ năm 2006). Cho đến
thời điểm năm 2005, tranh cãi xung quanh hỗn hống nha khoa vẫn còn tiếp diễn.
+ Y tế
Thủy ngân đã được sử dụng để chữa bệnh trong hàng thế kỷ. Clorua thủy ngân
(I) và clorua thủy ngân (II) là những hợp chất phổ biến nhất. Thủy ngân được đưa
vào điều trị giang mai sớm nhất vào thế kỷ 16, trước khi có các chất kháng sinh.
"Blue mass", viên thuốc nhỏ chứa thủy ngân, đã được kê đơn trong suốt thế kỷ 19
đối với hàng loạt các triệu chứng bệnh như táo bón, trầm cảm, sinh đẻ và đau răng
20
(National Geographic). Trong đầu thế kỷ 20, thủy ngân được cấp phát cho trẻ em
hàng năm như là thuốc nhuận tràng và tẩy giun. Nó là bột ngậm cho trẻ em và một
số vacxin có chứa chất bảo quản Thimerosal (một phần là etyl thủy ngân) kể từ
những năm 1930 (Báo cáo của FDA). Clorua thủy ngân (II) là chất tẩy trùng đối với
các bác sĩ, bệnh nhân và thiết bị.
Thuốc và các thiết bị chứa thủy ngân tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, mặc dù chúng
đã được sử dụng rộng rãi trong quá khứ. Nhiệt kế và huyết áp kế chứa thủy ngân đã
được phát minh trong thế kỷ 18 và 19, trong đầu thế kỷ 21, việc sử dụng chúng đã
giảm và bị cấm ở một số quốc gia, khu vực và trường đại học. Năm 2002, Thượng
viện Mỹ đã thông qua sắc luật cấm bán nhiệt kế thủy ngân không theo đơn thuốc.
Năm 2003, Washington và Maine trở thành các bang đầu tiên cấm các thiết bị đo
huyết áp có chứa thủy ngân (HCWH News release). Năm 2005, các hợp chất thủy
ngân được tìm thấy ở một số dược phẩm quá mức cho phép, ví dụ các chất tẩy trùng
cục bộ, thuốc nhuận tràng, thuốc mỡ trên tã chống hăm, các thuốc nhỏ mắt hay xịt
mũi. Cục quản lý thuốc và thực phẩm (FDA) có "dữ liệu không đủ để thiết lập sự
thừa nhận chung về tính an toàn và hiệu quả" của thành phần thủy ngân trong các
sản phẩm này
4)Vấn đề môi trường
Lượng thủy ngân trong khí quyển ở sông băng Fremont trong 270 năm qua.
Tỷ lệ lắng đọng của thủy ngân trước thời kỳ công nghiệp từ khí quyển có thể
nằm trong khoảng 4 ng/L ở miền tây nước Mỹ. Mặc dù có thể coi nó như là mức
phơi nhiễm tự nhiên, nhưng nó có ảnh hưởng đáng kể. Sự phun trào núi lửa có thể
tăng nồng độ trong khí quyển từ 4–6 lần. [1]
Thủy ngân đi vào môi trường như một chất gây ô nhiễm từ các ngành công
nghiệp khác nhau:
• Các xí nghiệp sử dụng than làm nhiên liệu là nguồn lớn nhất (40% trong khí
thải của Mỹ năm 1999, tuy nhiên đã giảm khoảng 85%). [2]
21
• Các công nghệ trong công nghiệp:
o Sản xuất clo, thép, phốtphat
& vàng
o Luyện kim
o Sản xuất & sửa chữa các thiết
bị điện tử
o Việc đốt hay vùi lấp các chất
thải đô thị
• Các ứng dụng y học, kể cả trong quá
trình sản xuất và bảo quản vacxin.
o Nha khoa
o Công nghiệp mỹ phẩm
• Các thí nghiệm trong phòng thí
nghiệm liên quan đến các hợp chất
của thủy ngân và lưu huỳnh.
Thủy ngân cũng đi vào môi trường theo đường xử lý một số sản phẩm nào đó.
Các sản phẩm có chứa thủy ngân bao gồm: các bộ phận của ô tô, pin, đèn huỳnh
quang, các sản phẩm y tế, nhiệt kế và máy điều nhiệt.[3]. Vì các vấn đề liên quan
tới sức khỏe (xem dưới đây), các cố gắng giảm sử dụng các chất độc là cắt giảm
hoặc loại bỏ thủy ngân trong các sản phẩm đó. Ví dụ, phần lớn các nhiệt kế sử dụng
rượu nhuộm màu thay cho thủy ngân. Các nhiệt kế thủy ngân thỉnh thoảng vẫn được
sử dụng trong y khoa hay các ứng dụng khoa học do chúng có độ chính xác cao hơn
của nhiệt kế rượu và có khoảng đo cao hơn, mặc dù cả hai đang được thay thế dần
bằng các nhiệt kế điện tử.
Một trong những thảm họa công nghiệp tồi tệ nhất trong lịch sử là thải các hợp
chất thủy ngân vào vịnh Minamata, Nhật Bản. Tập đoàn Chisso, một nhà sản xuất
phân hóa học và sau này là công ty hóa dầu, đã bị phát hiện là chịu trách nhiệm cho
việc gây ô nhiễm vịnh này từ năm 1932 đến 1968. Người ta ước tính rằng trên 3.000
22
người đã có những khuyết tật nào đó hay có triệu chứng ngộ độc thủy ngân nặng nề
hoặc đã chết vì ngộ độc nó, từ đó nó trở thành nổi tiếng với tên gọi thảm họa
Minamata.
5)Các hiệu ứng sức khỏe & môi trường
Thủy ngân nguyên tố lỏng là ít độc, nhưng hơi, các hợp chất và muối của nó là
rất độc và là nguyên nhân gây ra các tổn thương não và gan khi con người tiếp xúc,
hít thở hay ăn phải. Nguy hiểm chính liên quan đến thủy ngân nguyên tố là ở STP,
thủy ngân có xu hướng bị ôxi hóa tạo ra Ôxít thủy ngân - khi bị rớt xuống hay bị
làm nhiễu loạn, thủy ngân sẽ tạo thành các hạt rất nhỏ, làm tăng diện tích tiếp xúc
bề mặt một cách khủng khiếp.
Thủy ngân là chất độc tích lũy sinh học rất dễ dàng hấp thụ qua da, các cơ quan
hô hấp và tiêu hóa. Các hợp chất vô cơ ít độc hơn so với hợp chất hữu cơ của thủy
ngân. Cho dù ít độc hơn so với các hợp chất của nó nhưng thủy ngân vẫn tạo ra sự ô
nhiễm đáng kể đối với môi trường vì nó tạo ra các hợp chất hữu cơ trong các cơ thể
sinh vật.
Một trong những hợp chất độc nhất của nó là đimêtyl thủy ngân, là độc đến đến
mức chỉ vài micrôlít rơi vào da có thể gây tử vong. Một trong những mục tiêu chính
của các chất độc này là enzym pyruvat dehiđrôgenat (PDH). Enzym bị ức chế hoàn
toàn bởi một vài hợp chất của thủy ngân, thành phần gốc axít lipoic của phức hợp
đa enzym liên kết với các hợp chất đó rất bền và vì thế PDH bị ức chế.
Chứng bệnh Minamata là một dạng ngộ độc thủy ngân. Thủy ngân tấn công hệ
thần kinh trung ương và hệ nội tiết và ảnh hưởng tới miệng, các cơ quai hàm và
răng. Sự phơi nhiễm kéo dài gây ra các tổn thương não và gây tử vong. Nó có thể
gây ra các rủi ro hay khuyết tật đối với các thai nhi. Không khí ở nhiệt độ phòng có
thể bão hòa hơi thủy ngân cao hơn nhiều lần so với mức cho phép, cho dù nhiệt độ
sôi của thủy ngân là không thấp.
Thông qua quá trình tích lũy sinh học mêtyl thủy ngân nằm trong chuỗi thức ăn,
đạt đến mức tích lũy cao trong một số loài như cá ngừ. Sự ngộ độc thủy ngân đối
với con người là kết quả của việc tiêu thụ lâu dài một số loại lương thực, thực phẩm
23
nào đó. Các loài cá lớn như cá ngừ hay cá kiếm thông thường chứa nhiều thủy ngân
hơn các loài cá nhỏ, do thủy ngân tích lũy tăng dần theo chuỗi thức ăn.
Các nguồn nước tích lũy thủy ngân thông qua quá trình xói mòn của các khoáng
chất hay trầm tích từ khí quyển. Thực vật hấp thụ thủy ngân khi ẩm ướt nhưng có
thể thải ra trong không khí khô [4]. Thực vật và các trầm tích trong than có các
nồng độ thủy ngân dao động mạnh.
Êtyl thủy ngân là sản phẩm phân rã từ chất chống khuẩn thimerosal và có hiệu
ứng tương tự nhưng không đồng nhất với mêtyl thủy ngân
6)Cảnh báo & Quy định
Thủy ngân cần được tiếp xúc một cách cực kỳ cẩn thận. Các đồ chứa thủy ngân
phải đậy nắp chặt chẽ để tránh rò rỉ và bay hơi. Việc đốt nóng thủy ngân hay các
hợp chất của nó phải tiến hành trong điều kiện thông gió tốt và người thực hiện phải
đội mũ có bộ lọc khí. Ngoài ra, một số ôxít có thể bị phân tích thành thủy ngân, nó
có thể bay hơi ngay lập tức mà không để lại dấu vết.
Vì các ảnh hưởng tới sức khỏe trong phơi nhiễm thủy ngân, các ứng dụng
thương mại và công nghiệp nói chung được điều tiết ở các nước công nghiệp. Tổ
chức y tế thế giới (WHO), OSHA và NIOSH đều thống nhất rằng thủy ngân là nguy
hiểm nghề nghiệp và đã thiết lập các giới hạn cụ thể cho các phơi nhiễm nghề
nghiệp. Ở Mỹ, giới hạn thải ra môi trường được EPA quy định.
24
C)Kết luận
Nghiên cứu trong hóa học đã phát triển trong thời kỳ chuyển tiếp sang thế kỷ 20
đến mức các nghiên cứu sâu về cấu tạo nguyên tử đã không còn là lãnh vực của hóa
học nữa mà thuộc về vật lý nguyên tử hay vật lý hạt nhân. Mặc dù vậy các công
trình nghiên cứu về thủy ngân đã mang lại nhiều nhận thức quan trọng về bản chất
của sự biến đổi chất hóa học và của các liên kết hóa học của chúng. Thủy ngân tuy
được xếp vào bảng các chất độc hại nhưng nó cũng có những tính chất quan trọng
trong khoa hoc.
25