Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phân tích nội dung và những chủ ý giàu tính nhân văn của tác giả trong đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.04 KB, 5 trang )

Bài làm
M.Gorki từng nói: “Nhà văn không biết đến văn học dân gian là một nhà
văn tồi”. Lưu Quang Vũ đã dựa vào một câu chuyện dân gian mà làm nên
vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, từng làm say mê bao khán giả và độc
giả lâu nay. Đó là một tiếp thu đầy sáng tạo.
Trước hết phải thấy rằng câu chuyện dân gian này của người Việt Nam
có ý vị riêng ở chiều sâu triết lí. Đó là mối quan hệ giữa xác và hồn theo
quan niệm dân gian xưa.
Trong đoạn trích, nhân vật chính là hồn Trương Ba đã nhập vào xác anh
hàng thịt. Hồn Trương Ba đối thoại với các nhân vật như: xác hàng thịt,
những người thân trong gia đình Trương Ba, với Đế Thích và với chính
mình. Tuy hồn Trương Ba đối thoại với nhiều nhân vật, nhưng có thể khái
quát thành ba cuộc đối thoại, mỗi cuộc có sắc thái ý nghĩa khác nhau mặc
dù vẫn xoay quanh trục chính là xác và hồn. Cuộc đối thoại thứ nhất là
giữa hồn Trương Ba với xác anh hàng thịt; thứ hai là đối thoại với người
thân trong gia đình; và thứ ba là đối thoại với Đế Thích (chưa kể những
đoạn độc thoại). Tất cả đối thoại này diễn ra tại nhà Trương Ba thuộc cảnh
VII của vở kịch.
Thực ra ngay trong truyện dân gian mà ta vừa nói đã ẩn chứa một sáng
tạo rất thú vị của người bình dân. Đó là đặt phần hồn rất “nguyên vẹn, trong
sạch, thẳng thắn” của Trương Ba – một người nông dân trung thực, đáng
quý trọng vào xác của một anh hàng thịt. Tuy anh không xấu nhưng tạo ra
độ “lệch pha” rất lớn giữa hồn xác. Đây là cơ sở phát minh mâu thuẫn, xung
đột, tạo cho Lưu Quang Vũ một cái “thế” để làm nên vở kịch.
Hồn Trương Ba lương thiện, trong sạch, nhưng được gắn vào xác thịt của
một người đồ tể. Cháu của Trương Ba nhận xét: “Bàn tay giết lợn… làm
gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm
quý mới ươm! Ông nội đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy!”. Dân gian đã đặt
hồn Trương Ba vào một nơi thật lầm chỗ và đây là cơ sở tạo ra xung đột dữ
dội giữa hồn và xác.


Trở lại với đoạn trích, vừa đọc ta đã thấy ngay nỗi đau của hồn Trương
Ba khi phải trú ngụ trong cái xác “kềnh càng, thô lỗ”. Hồn Trương Ba ôm
đầu vật vã rồi tự nói lên: “Tôi không muốn sống như thế này mãi!”. Sau đó
hồn Trương Ba tách ra khỏi xác anh hàng thịt và hiện lờ mờ trong dáng
Trương Ba thật. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác bắt đầu.
Hồn Trương Ba cho rằng cái xác anh hàng thịt “chỉ là xác thịt âm u đui
mù” và “chỉ là cái vỏ bên ngoài không có ý nghĩ gì hết, không có tư tưởng,
không có cảm xúc”. Xác anh hàng thịt giận dữ và bắt đầu chống lại bằng
triết lí của mình: “Có đấy, xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói
của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà
tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy!”.
Xác anh hàng thịt khẳng định: “Hai ta đã hòa với nhau làm một rồi!” và
“Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn”. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng,
cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, những người thần…, nhờ có đôi
mắt của tôi. Ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi”. Cuộc
tấn công của phần xác vào phần hồn ngày càng cao, có lúc như giễu cợt, mỉa
mai: “Những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm
hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh, vì để sống, ông phải nhân
nhượng tôi. Làm xong điều xấu gì, ông cứ việc đổ lỗi cho tôi, để ông được
thanh thản… Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện.
Chúng ta thấy, trong cuộc đối thoại trên đây cả hai bên đều đưa lí do để
bảo vệ cho sự tồn tại của mình. Phần hồn tự đề cao mình, coi thường phần
xác; phần xác đưa ra những cơ sở cũng rất thú vị để xác định vai trò của
mình và “bắt tay” niềm nở trong câu nói thân thiện: “Hai ta đã hòa với nhau
làm một rồi!”.
Thông qua đối thoại trên, chúng ta nhận ra được những nội dung triết lí
rất sâu sắc. Hồn Trương Ba không chịu nổi với cái cảnh náu mình vào xác
anh hàng thịt được vì nó rất khập khiễng, mâu thuẫn đến mức không chịu
nổi. Con người ta: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được.
Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” (Hồn Trương Ba nói với Đế Thích). Con

người ta có lúc sống không đúng như cái bên trong, cũng là do một sự trói
buộc của hoàn cảnh mà thôi. Sau đó người ta lại trở về với chính mình: hoặc
đạo mạo nghiêm túc, hoặc tự nhiên vui nhộn, hoặc hung dữ, thô bạo hoặc
nhân từ, nhã nhặn… Cuộc sống không loại trừ con người ta lắm khi sống
phải “đóng kịch”. Tuy vậy, đó chỉ là tạm thời. Có lúc ta vừa hành động vừa
giấu đi một nụ cười về việc làm của mình, cũng vì khi đó, ta đang biết mình
giả dối một cách bất đắc dĩ. Cuối cùng vẫn quay về với sự hòa hợp giữa xác
và hồn. Phá vỡ quan hệ nội tại này sẽ làm cho người ta rơi vào bi kịch như
trường hợp của Trương Ba. Sự thống nhất cao độ giữa linh hồn và thể xác
còn là vấn đề triết lí: vật chất và tinh thần, cái vật chất ấy phải được đi với
tinh thần ấy.
Hê-ghen đã từng viết: “Mỗi một người là một chỉnh thể, bản thân là một
thế giới, mỗi con người là một nguồn trọn vẹn có sức sống chứ không phải
là thứ vật phẩm trừu tượng theo kiểu ngụ ngôn của một đặc điểm tính cách
cô lập nào đó”.
Chính vì vậy, phần xác và phần hồn trong con người thống nhất một cách
sinh động. Hồn Trương Ba không thể hòa hợp với xác hàng thịt được. Càng
ngày mâu thuẫn đó càng tăng dần. Có lúc hồn Trương Ba như rã rời khi đấu
lí với xác hàng thịt như dù thế nào chăng nữa vẫn không thể chấp nhận được
sự gắn kết “vô duyên” này”.
Cuộc đối thoại tiếp theo là giữa hồn Trương Ba với đứa cháu, người vợ
và chị em dâu. Họ than phiền về việc Trương Ba không giống như ngày xưa
nữa mà gây phiền toái cho người xung quanh hiểu. Hồn Trương Ba càng
đau khổ khi thấy ai cũng chối từ mình, xa lánh mình với những câu nói nặng
nề, xúc phạm. Tình huống kịch đến đây càng trở nên phức tạp, rắc rối, đầy
“nghịch cảnh”. Hồn Trương Ba xót xa khi nghe đứa cháu nói: “Tôi không
phải cháu của ông”. Vì ông không giống như ông nội ngày trước. Hồn nghĩ
một đằng, xác làm một nẻo. Hãy lắng nghe chị con dâu nhận xét: “Chỉ tại nó
nghĩ thầy không giống ông nội của nó. Mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất
mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con

cũng không nhận ra thầy nữa”. Thật khốn khổ cho hồn Trương Ba! Bản thân
mình cay cực không chịu nổi, lại phải nghe thêm tiếng bấc, tiếng chì. Sự phá
vỡ quan hệ nội tại để lại hậu quả quá nặng nề. Nỗi đau đớn, dằn vặt trong
hồn Trương Ba càng ngày càng tăng, có lúc như rơi vào thất vọng bởi sự
“thắng thế của phần xác”. Nó quấy nhiễu ông từng giờ từng phút, từ việc lớn
đến việc nhỏ. Hãy lắng nghe đoạn độc thoại sau của hồn Trương Ba: “Mày
đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác của ta ạ, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át
ta. Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất
mình”. Câu nói dự báo cho ta thấy dù mệt mỏi, nhưng Hồn Trương Ba quyết
không nhân nhượng, không thể chấp nhận sự phi lí. Mỏi mệt và căng thẳng,
sợ điều xấu sẽ đến, nên Hồn Trương Ba đã phải cậy nhờ vào sự trợ giúp của
Đế Thích. Hồn Trương Ba thắp hương gọi Đế Thích về. Nhà viết kịch một
lần nữa thử nghiệm sự lựa chọn của hồn Trương Ba để xem trong cuộc
chiến tư tưởng này, hồn Trương Ba sẽ như thế nào? Đế Thích mở ra một
hướng giải quyết mới nhưng không khác mấy so với trước: để cho hồn
Trương Ba nhập xác cu Tị. Giải pháp này có vẻ dễ chịu hơn, vì hồn Trương
Ba được trú ngụ vào xác một đứa cháu hàng xóm mà khi sống, ông cháu đã
từng “quấn quýt quít bên nhau”. Hồn Trương Ba đứng trước một tình huống
mới và buộc phải lựa chọn. Nhưng thật oái ăm và trớ trêu khi ông nhận ra
rằng: “Trẻ con phải ra trẻ con, người lớn phải ra người lớn”. Ông tưởng
tượng nếu thế thì mình phải tiếp tục sống dằng dặc tháng ngày mà “những gì
chúng thì tôi ghét, những gì tôi thích thì chúng chẳng ưa”. Lại thêm một rắc
rối! Nhập hồn vào đứa cháu liệu sự thể sẽ như thế nào? Cái gì không ổn thì
trước sau nó cũng sẽ ổn. Quan trọng hơn, bây giờ nhập hồn mình vào đấy để
mình được sống, còn đứa cháu kia phải chết thì thật là nhẫn tâm, độc ác.
Hồn Trương Ba lại tiếp tục có những xung đột nhưng không giống như
những lần trước. Xung đột thực chất ở đây là giữa thiện và ác, vị tha và ích
kỉ. Hồn Trương Ba khuyên Đế Thích: “Ông hãy cứu sống nó! Ông phải cứu
nó! Ông có biết đối với người mẹ là thế nào không? Còn to lớn hơn cả ý
muốn bà Tây Vương Mẫu nhà ông. Ông Đế Thích, vì con trẻ, ông ạ, vì con

trẻ! Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng. Tôi sẽ không bao giờ làm phiền ông
nữa, không đòi ông điều gì nữa!”. Trong trang sách và trên sân khấu những
lời lẽ kia làm xúc động thiêng liêng lòng người. Đó là nhân tâm cao cả, là
đức độ vọng lên từ một tấm lòng bao dung. Hồn Trương Ba cho rằng đó là
việc làm duy nhất đúng, duy nhất tốt. Như vậy hồn Trương Ba cho rằng đó
là việc làm duy nhất đúng, duy nhất tốt. Như vậy hồn Trương Ba lúc này
không bận tâm nhiều về chuyện của mình mà là chuyện sự sống của cu Tị.
Câu nói của ông trở về đúng tâm tính và bản chất của Trương Ba, có thể nói,
nhà viết kịch Lưu Quang Vũ sáng tạo thêm đoạn này làm cho câu chuyện
dân gian mang ý nghĩa khác hẳn, nâng lên một tầm cao tư tưởng. Mọi diễn
biến của vở kịch phải chăng là để đọng lại cho được cái giọt mật nhân tâm
này. Cao cả và đẹp đẽ biết mấy! Cùng một lúc, nhà viết kịch giải quyết được
cả hai vấn đề: thoát ra “nghịch cảnh” cho hồn Trương Ba và thắp lên nguồn
sáng trong đời.
Trong vở kịch, khi nghe hồn Trương Ba đề xuất như vậy, Đế Thích đồng
ý. Hồn Trương Ba nói: “Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định
này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại
thanh thản, trong sáng như xưa”. Thanh thản vì không phải sống trong
“nghịch cảnh” nữa và vì vừa làm được một việc rất tốt. Hồn Trương Ba đã
ra đi mãi mãi, đi để trở về sự sống. Chi tiết ấy gây ấn tượng tốt cho người
đọc, người xem kịch. Đó là mọt ứng xử tuyệt vời, lấp lánh mãi ánh sáng
nhân văn cao cả.
Lưu Quang Vũ đã cho chúng ta thấy cuộc vận lộn dai dẳng và quyết liệt
giữa xác và hồn để đòi lại một sự thống nhất là lấy lại chính mình. Điều mà
Lưu Quang Vũ muốn nói với chúng ta là: “Hãy đừng sống bằng những thân
xác mượn!”.

×