Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

BÁO CÁO TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO DỰ KIẾN GIỮA VIỆT NAM VÀ LIÊN MINH CHÂU ÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 77 trang )



Tầng 9, Toà nhà Minexport, 28 Bà Triệu, Hà Nội, Việt Nam
Tel: 04 62702158 Fax: 04 62702138
Email: ; Website: www.mutrap.org.vn



BÁO CÁO

TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO DỰ KIẾN GIỮA VIỆT NAM VÀ LIÊN MINH
CHÂU ÂU


MÃ HOẠT ĐỘNG: FTA- 7C

Chuyên gia:
Aurelio Lopez-Tarruella Martine,


Tác giả cảm ơn các ông:
Nguyễn Hữu Cẩn, Claudio Dordi và
Laurent Manderieux về sự hỗ trợ để
hoàn thiện Báo cáo này.











Báo cáo này được xây dựng với sự hỗ trợ tài chính của Liên minh châu Âu. Quan điểm trong báo cáo là của các tác
giả, không phải là ý kiến chính thức của Liên minh châu Âu hay của Bộ Công Thương


MỤC LỤC
TỔNG QUAN 4
GIỚI THIỆU 8
CHƯƠNG I. SỰ CẦN THIẾT CỦA MỘT CHƯƠNG VỀ IPR TRONG FTA TƯƠNG LAI
GIỮA EU VÀ VIỆT NAM 10
I. Cách tiếp cận của EU và của Việt Nam về IPR 10
II. Bối cảnh khuôn khổ quản lý IPR quốc tế cho FTA giữa Việt Nam và EU 12
1. Khuôn khổ quản lý IPR quốc tế hiện hành và các hành động của EU nhằm gia tăng mức
độ bảo hộ 12
2. Đặc điểm bổ trợ của các điều khoản IPR trong các FTA: TRIPS-cộng/TRIPS-bổ sung,
các điều khoản MFN và NT 15
CHƯƠNG II. NỘI DUNG CHƯƠNG IPR TRONG FTA TƯƠNG LAI GIỮA VIỆT NAM VÀ
EU – TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI HỆ THỐNG IPR CỦA VIỆT NAM 17
I. Giới thiệu 17
II. Mục tiêu, nghĩa vụ và nguyên tắc chung 18
1. Quy định phổ biến trong các FTA của EU 18
2. Tác động đối với hệ thống IPR của Việt Nam 20
III. Các điều khoản nội dung về bảo hộ IPR 21
1. Bằng sáng chế 21
2. Giống cây trồng 24
3. Nhãn hiệu 25
4. Kiểu dáng công nghiệp 27

5. Chỉ dẫn địa lý 29
6. Tài nguyên di truyền, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian 32
7. Quyền tác giả và các quyền liên quan 35
IV. Quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ 39
1. Quy định chung 40
2. Các biện pháp dân sự và hành chính 42
3. Các biện pháp biên giới 48
4. Các nội dung không giống nhau trong các FTA: trách nhiệm của nhà cung cấp dịch
vụ Internet và các biện pháp hình sự 49
5. Điều khoản về chuyển giao công nghệ 52
CHƯƠNG III. PHÂN TÍCH ĐỊNH TÍNH CÁC TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM VỀ MẶT
KINH TẾ VÀ KINH DOANH CỦA MỘT CHƯƠNG VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG FTA
GIẢI ĐỊNH GIỮA VIỆT NAM VÀ EU 54
I. Giới thiệu 54
II. Những lợi ích của việc tăng cường bảo hộ IPR ở các nước đang phát triển và Việt Nam 54
1. Đối với một nước đang phát triển nói chung 54
2. Trường hợp của Việt Nam 57
III. Chi phí của việc gia tăng bảo hộ IPR đối với các nước đang phát triển 58
IV. Thực hiện các FTA của EU: Các phương tiện để giảm bớt phí tổn của việc gia tăng bảo
hộ sở hữu trí tuệ 60
CHƯƠNG IV. CƠ CHẾ HỢP TÁC TRONG CHƯƠNG VỀ IPR 63
I. Giới thiệu 63
II. Hợp tác trong lĩnh vực bảo hộ và thực thi IPR 64
III. Hợp tác trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ 66
IV. Hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển 68
PHỤ LỤC 70



Dánh sách các từ viết tắt


AANZ FTA
R&D
Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN-Úc-Niu di lân
Nghiên cứu và phát triển
ACTA
Hiệp định thương mại chống hàng giả
BDL
Luật Đa dạng sinh học
CARIFORUM
Diễn đàn các nước châu Phi, Ca-ri-bê và Thái Bình Dương
CBD
Công ước Liên Hợp Quốc về đa dạng sinh học
CL
Luật hải quan
CPC
Công ước bằng sáng chế cộng đồng
EPA EU-CARIFORUM
Hiệp định đối tác kinh tế giữa EU-CARIFORUM
EU-CA AA
Hiệp định thương mại EU - khu vực Trung Mỹ
GATT
Hiệp định chung về thương mại và thuế quan
ICT
Công nghệ thông tin và truyền thông
IPR
Quyền sở hữu trí tuệ (SHTT)
PCA
Hiệp định khung về Hợp tác và Đối tác toàn diện
PCT

Hiệp ước hợp tác sáng chế
PLT
Hiệp ước Luật sáng chế
RMI
Thông tin quản lý quyền điện tử
S&T
Khoa học và công nghệ
TA EU-CP
Hiệp định thương mại EU - Cô-lôm-bi-a và Pê-ru
TPM
Biện pháp bảo hộ công nghệ
TTL
Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hóa
UPOV
Công ước bảo vệ giống cây trồng mới
WCT
Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả
WIPO
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới
WPPT
Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm
WTO TRIPS
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ


4

TỔNG QUAN
Hiện tại quan hệ giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam được điều chỉnh bằng Hiệp

định khung về Hợp tác và Phát triển năm 1995 và Hiệp định Hợp tác ASEAN-EU năm 1980.
Trong tương lai gần, một Hiệp định khung về Hợp tác và Đối tác toàn diện (PCA) sẽ
được ký kết và có hiệu lực đối với hai bên. Nhưng đây không phải là bước phát triển cuối cùng
trong quan hệ giữa Việt Nam và EU. PCA đặt mục tiêu rõ ràng là tạo thuận lợi cho việc khởi
động và hoàn tất đàm phán một hiệp định thương mại tự do (FTA).
Cam kết giữa hai bên trong FTA tương lai sẽ vượt cam kết trong các hiệp định trước.
Chiến lược châu Âu toàn cầu của EU khẳng định rằng các FTA phải toàn diện, tham vọng về
phạm vi và “phải giải quyết được các rào cản phi thuế thông qua hội tụ chính sách”. Một lĩnh
vực được nhắc đến nhiều lần trong Chiến lược là sở hữu trí tuệ (IPR).
Mục tiêu của Báo cáo này là dự kiến nội dung của một chương về IPR trong FTA tương
lai giữa EU và Việt Nam, tác động của chương này đối với hệ thống IPR của Việt Nam, tác động
về kinh tế xã hội và cơ chế hợp tác để hỗ trợ Việt Nam thực thi chương này. Báo cáo được chia
thành 4 chương, tập trung vào các nội dung trong Điều khoản tham chiếu của Hoạt động.
Chương I nêu sự cần thiết phải có một chương về IPR trong FTA trong tương lai giữa EU
và Việt Nam, và khuôn khổ quản lý IPR quốc tế mà FTA có thể đưa vào chương này.
Theo Chiến lược châu Âu 2020, nghiên cứu và đổi mới là các yếu tố cơ bản cho sự tăng
trưởng kinh tế của EU. Bảo hộ IPR trong và ngoài biên giới EU và ở các nước thứ ba mà các
công ty của EU hoạt động là điều thiết yếu theo Chiến lược này.
Việt Nam rất coi trọng quyền sở hữu trí tuệ mặc dù vẫn còn một số vấn đề trong việc bảo
hộ và thực thi. Lý do là mục tiêu chính trị của Việt Nam nhằm trở thành “một nền kinh tế thị
trường trên cơ sở tri thức trong thế kỷ 21”. Việt Nam tin tưởng rằng khuyến khích đổi mới, sáng
tạo và bảo hộ IPR sẽ phục vụ cho mục tiêu phát triển quốc gia. Ngoài ra, các cơ quan chức năng
của Việt Nam cũng nhận thức được về những lợi ích của việc tăng cường bảo hộ IPR đối với
việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chuyển giao công nghệ quốc tế và khuyến khích
sáng tạo và nghiên cứu trong nước.
Với các lý do trên, không ngạc nhiên khi PCA khẳng định tầm quan trọng lớn lao mà hai
bên đặt ra đối với việc bảo hộ IPR (Điều 20). Vì thế, việc đặt ra chương riêng về IPR trong FTA
EU-Việt Nam dự kiến sẽ không gặp vấn đề gì. Sự khác biệt về quan điểm trên thực tế có thể phát
sinh trong quá trình đàm phán nội dung của chương này. Trong khi mục tiêu của EU trong các
FTA là xác lập một mức độ bảo hộ IPR tương tự như trong luật pháp của EU thì mức độ bảo hộ

này có thể gây tổn hại xét về mức độ phát triển thấp hơn của Việt Nam. Tuy nhiên, trong bất cứ
trường hợp nào, việc đàm phán hiệp định vẫn có thể hoàn tất chừng nào EU công nhận việc xem
xét trình độ phát triển của quốc gia liên quan là cần thiết.
Việc đưa một chương riêng về IPR trong FTA là một trong các biện pháp mà EU sử dụng
để tăng cường bảo hộ IPR ngoài các khuôn khổ quốc tế hiện hành như TRIPS và các hiệp định
đa phương khác. EU đã hoàn tất đàm phán một số FTA có các quy định về IPR. Các hiệp định
mang đậm dấu ấn này bao gồm các hiệp định: với Hàn Quốc (FTA EU-Hàn Quốc); với
Colombia và Peru (TA EU-CP); với khu vực Trung Mỹ (AA EU-CA) và với các nước
CARIFORUM (EPA EU-CARIFORUM). Báo cáo sẽ tập trung phân tích các hiệp định này.
Việt Nam cũng là một bên tham gia một số hiệp định, bao gồm Hiệp định thương mại
song phương BTA với Hoa Kỳ, Hiệp định đối tác kinh tế (EPA)với Nhật Bản và Hiệp định giữa
Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ liên bang Thụy Sỹ về bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp
tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ với Thụy Sĩ.
5

Các quy định IPR trong FTA thường có tính chất TRIPS+, tức là mức độ bảo hộ cao hơn
quy định trong TRIPS; hoặc các quy định rộng hơn TRIPS, tức là ràng buộc các bên phải bảo hộ
các đối tượng IPR khác ngoài các đối tượng quy định trong TRIPS. Những quy định này không
làm suy giảm mà đơn giản chỉ là bổ sung các quy định quốc tế hiện hành. Đặc biệt, các nguyên
tắc Tối huệ quốc và Đãi ngộ quốc gia vẫn được áp dụng với một số trường hợp ngoại lệ.
Chương II là trọng tâm của Báo cáo này và đặt ra 2 mục tiêu. Mục tiêu thứ nhất là dự
kiến nội dung của chương về IPR bằng cách xác định các quy định IPR phổ biến trong các FTA
của EU. Mục tiêu thứ hai là đánh giá các tác động của việc thông qua chương về IPR với các nội
dung nói trên đối với hệ thống luật pháp về IPR của Việt Nam.
Chương này được chia thành 4 phần: a) mục tiêu, các nguyên tắc và nghĩa vụ chung; b)
nội dung bảo hộ; c) thực thi; d) chuyển giao công nghệ. Ba phần đầu là quan trọng nhất.
Các quy định trong FTA liên quan đến “mục tiêu”, “bản chất và phạm vi nghĩa vụ” và
“các nguyên tắc chung” rất quan trọng. Lý do là vì chúng cho phép sự linh hoạt của các bên khi
nội luật hóa các nghĩa vụ trong chương về IPR thành quy định luật pháp trong nước để đáp ứng
các nhu cầu cụ thể. So sánh các FTA của EU cho thấy mục tiêu đặt ra không chỉ là “đảm bảo

việc bảo hộ và thực thi hiệu quả về IPR”. Các FTA này còn đề cập đến các mục tiêu khác phù
hợp với các nước đang phát triển như “xúc tiến việc chuyển giao công nghệ quốc tế”. Ngoài ra,
tất cả các FTA đều dẫn chiếu đến Tuyên bố Đô-ha về Y tế Cộng đồng và các mục tiêu, nguyên
tắc của TRIPS (Điều 7 và 8). Cần phải lưu ý rằng những nguyên tắc này chỉ hơi khác nhau giữa
FTA này với FTA khác tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi đối tác EU. Điều này đặc biệt
quan trọng đối với Việt Nam: các cơ quan có thẩm quyền có độ linh hoạt trong đàm phán thông
qua những nguyên tắc phù hợp với điều kiện của đất nước và thực hiện FTA theo luật pháp Việt
Nam.
Các quy định trọng tâm liên quan đến toàn bộ các đối tượng IPR. Nhìn chung, mức độ
bảo hộ được thiết lập trong các quy định này đã gần tương đương trong luật pháp về IPR của
Việt Nam, chỉ trừ một số trường hợp ngoại lệ. Trước hết, trong lĩnh vực quyền tác giả, Việt Nam
cần phải phê duyệt WCT và WPPT và tăng thời hạn bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan
khác lên 70 và 50 năm. Thứ hai, đối với các chỉ dẫn địa lý (GIs) – một lĩnh vực có liên quan
nhiều đến EU và Việt Nam, FTA dự kiến sẽ bao gồm nghĩa vụ công nhận lẫn nhau và gia tăng
bảo hộ GIs tại Việt Nam có thể bao gồm các quy định về tranh chấp thương hiệu đã đăng ký
trước đó. Thứ ba, trong lĩnh vực thương hiệu, Việt Nam cần cố gắng triển khai tốt thủ tục đăng
ký và đảm bảo các quyết định được giải thích đầy đủ. FTA còn bao gồm các quy định về bảo hộ
nguồn tài nguyên di truyền và kiến thức truyền thống sẽ mang lại lợi ích to lớn cho đất nước đa
dạng về sinh học như Việt Nam.
Như đã đề cập trước đó, các quy định thi hành là những quy định khắt khe nhất trong các
FTA. Việt Nam đã bị EU (và Hoa Kỳ) coi là một trong số các quốc gia hàng đầu trong vấn nạn
hàng giả và hàng vi phạm bản quyền. Các biện pháp triển khai để giải quyết vấn đề này đã được
công nhận nhưng vẫn bị coi là chưa đầy đủ. Việc thực hiện các nghĩa vụ trong lĩnh vực này sẽ
đòi hỏi Việt Nam phải sửa đổi một phần luật pháp về IPR của mình, như bảo đảm các biện pháp
cưỡng chế thi hành và xử phạt có hiệu quả nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm; sửa đổi danh
sách các bên có quyền yêu cầu xử lý vi phạm bao gồm cả các bên nhận li-xăng về đối tượng sở
hữu công nghiệp, cho phép yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi tiến hành
thủ tục tố tụng hoặc quản lý quyền thông tin. Quan trọng hơn là Việt Nam cần nỗ lực cung cấp
các phương tiện để đảm bảo thực thi hiệu quả, chẳng hạn đầu tư vào thiết bị và cơ sở hạ tầng
mới, nhân lực mới và đào tạo. Để đảm bảo thực hiện những nghĩa vụ này, Việt Nam có thể yêu

cầu cơ chế hợp tác như quy định trong các FTA của EU.
Chương III tập trung vào những tác động kinh tế-xã hội của việc đưa vào FTA dự kiến
giữa EU và Việt Nam các quy định tương tự như trong các FTA hiện tại của EU. Báo cáo tập
6

trung đến tác động của việc gia tăng mức bảo hộ IPR tại các nước đang phát triển và một số
nghiên cứu liên quan đến Việt Nam.
Theo các nghiên cứu này, việc tăng cường bảo hộ IPR có 3 lợi ích tác động lẫn nhau: tăng
FDI; thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ quốc tế; và khuyến khích hoạt động đổi mới và
nghiên cứu của các doanh nghiệp trong nước. Các nghiên cứu rút ra kết luận rằng các nước đang
phát triển không hưởng lợi ích này như nhau mà tùy thuộc vào mức độ phát triển và hoàn cảnh
cụ thể của từng nước, chẳng hạn trình độ về nghiên cứu và phát triển (R&D) của quốc gia đó.
Ngoài ra, các nước đang phát triển chỉ được hưởng lợi từ việc gia tăng mức bảo hộ IPR về dài
hạn.
Ngoài các lợi ích, việc gia tăng mức bảo hộ IPR có thể mang lại nhiều phí tổn. Quan
trọng nhất là phí tổn phát sinh từ việc thực hiện các quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ vì
chúng có thể đòi hỏi những khoản đầu tư khổng lồ cho cơ sở hạ tầng, thiết bị và nhân lực. Các
phí tổn khác có thể là trở ngại trong việc tiếp cận thuốc chữa bệnh, khó khăn trong phát triển
ngành nông nghiệp, khó khăn khi chia sẻ lợi ích hợp pháp từ việc khai thác kiến thức truyền
thống, tài nguyên di truyền và tiếp cận tri thức.
Để tối đa hóa các lợi ích và cắt giảm phí tổn do gia tăng mức bảo hộ IPR, mỗi quốc gia
đang phát triển phải điều chỉnh hệ thống IPR sao cho phù hợp với mức độ phát triển và hoàn
cảnh cụ thể của mình. Ngoài ra, các cải cách IPR cần phải đi đôi với các biện pháp khác trong
những lĩnh vực có liên quan đến IPR như R&D.
Đối với Việt Nam, dường như cho đến nay việc gia tăng bảo hộ IPR đã không mang lại
tác động như mong muốn cho sự phát triển kinh tế. Các học giả và cơ quan nhà nước chỉ ra một
số nguyên nhân như: việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ còn yếu kém; người dân chưa có nhận
thức đầy đủ về IPR; và việc phát triển IPR còn yếu do thiếu các nhà khoa học và kỹ sư, mức độ
đầu tư vào R&D còn thấp – chỉ chiếm 0,5% GDP của cả nước và vẫn tồn tại những yếu kém
trong cơ cấu R&D.

Ngoài ra, phân tích hệ thống luật pháp hiện hành về IPR tại Việt Nam cho thấy một số
quy định không phù hợp với mức độ phát triển của quốc gia. Chẳng hạn, Việt Nam bắt buộc phải
áp dụng cơ chế rất hạn chế về quyền đối với giống cây trồng của UPOV năm 1991. Một số học
giả khẳng định rằng cơ chế này có thể có tác động tiêu cực đến sự phát triển của ngành nông
nghiệp. May là đó không phải tình trạng chung. Một số khía cạnh khác của luật pháp về IPR có
vẻ phù hợp hơn với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, chẳng hạn, quy định về hết quyền trên phạm
vi quốc tế dường như giúp tăng cường tiếp cận thuốc chữa bệnh.
Nhìn chung, việc thực hiện FTA với một chương tương tự như các FTA khác do EU ký
kết sẽ không làm gia tăng hay giảm bớt các phí tổn này. Tuy nhiên, thực thi là một khía cạnh rất
quan trọng và sẽ phát sinh phí tổn lớn. Việt Nam phải đầu tư lớn vào các nguồn lực về con người
và tài chính: xây dựng cơ sở hạ tầng mới, mua sắm trang thiết bị mới, thuê nhân công, đào tạo,
vv
Trong mọi trường hợp, mặc dù việc gia tăng mức độ bảo hộ IPR tại Việt Nam mang lại
hiệu quả thấp và phí tổn lớn, các tài liệu chính thức cho thấy các cơ quan nhà nước cam kết bảo
hộ IPR để đạt được một số mục tiêu chiến lược của quốc gia. Các mục tiêu này bao gồm thu hút
FDI từ các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực liên quan nhiều đến IPR như công nghệ
thông tin, viễn thông và công nghệ sinh học; hoặc mục tiêu phát triển một thị trường R&D vững
mạnh.
Để đạt được những mục tiêu này, khuyến nghị cho các cơ quan của Việt Nam bao gồm:
a) đàm phán một chương về IPR quy định mức độ bảo hộ phù hợp nhất với mức độ phát triển và
hoàn cảnh cụ thể của quốc gia; b) đàm phán đưa vào chương về IPR các nguyên tắc chung để cơ
quan chức năng có thể linh hoạt áp dụng các nghĩa vụ trong FTA vào luật pháp quốc gia; c) thực
hiện các biện pháp để tạo dựng nền tảng cho việc hưởng lợi đầy đủ từ gia tăng bảo hộ IPR; d)
7

cuối cùng, nếu cần thiết, Việt Nam cần tận dụng các cơ chế hợp tác quy định trong các FTA và
yêu cầu sự hỗ trợ kỹ thuật từ phía EU.
Chương IV phân tích cơ chế hợp tác quy định trong các FTA của EU với mục đích xem
xét khả năng đưa cơ chế này vào FTA sẽ tăng thêm các nội dung gì về hợp tác song phương hiện
nay.

Cơ chế này hỗ trợ rất nhiều các nước đang phát triển thực hiện đúng nghĩa vụ quy định
trong các hiệp định. Cơ chế này tập trung vào 3 lĩnh vực: bảo hộ và thực thi IPR một cách hiệu
quả, thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ ở cấp độ quốc tế và củng cố một hệ thống R&D khả
thi tại các nước đang phát triển.
Theo các chuyên gia được phỏng vấn cho báo cáo này, hỗ trợ kỹ thuật có vai trò quan
trọng đối với Việt Nam trong việc giải quyết 2 vấn đề chính: thiếu nguồn lực về con người và tài
chính để chống lại hàng giả, hàng vi phạm bản quyền; và thiếu ý thức cộng đồng về tầm quan
trọng của việc bảo hộ IPR. Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc trao đổi thông tin, xây dựng năng
lực và tăng cường hợp tác về mặt thể chế giữa các văn phòng sở hữu trí tuệ. Cơ chế hợp tác này
vượt xa cơ chế hình thành trong PCA. Trong mọi trường hợp, nhiều chuyên gia đều đồng ý rằng
cần phải điều chỉnh hỗ trợ kỹ thuật cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam; các chương
trình huấn luyện không cần phải theo đúng công thức “một cỡ cho tất cả” – áp dụng tính linh
hoạt của TRIPS; hỗ trợ kỹ thuật cho tất cả các cơ quan nhà nước và hiệp hội doanh nghiệp có
liên quan đến IPR; cuối cùng, tăng cường tiếp cận công nghệ thông tin hoặc cơ sở dữ liệu do các
tổ chức quốc tế quản lý cũng rất cần thiết.
Mục tiêu của các cơ chế hợp tác còn nhằm thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ cho
các đối tác của EU. Nguyên nhân là vì một quốc gia càng tiến bộ về công nghệ thì quốc gia đó
càng được hưởng lợi nhiều từ hệ thống IPR và càng thu hút được nhiều hàng nhập khẩu liên
quan đến IPR. Do đó, việc thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ mang lại lợi ích cho tất cả
các bên liên quan. Vì mục đích này, các FTA của EU quy định nhiều cơ chế hợp tác: trao đổi
quan điểm và thông tin về các thông lệ ảnh hưởng đến việc chuyển giao công nghệ trên cả phạm
vi quốc gia và quốc tế; ưu đãi của EU dành cho các doanh nghiệp và tổ chức của mình để thúc
đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ cho bên khác xây dựng một nền
tảng công nghệ; các chương trình trao đổi về học tập, chuyên môn và kinh doanh.
Cuối cùng, để tăng cường IPR có tác động đến nền kinh tế của một quốc gia, việc tăng
cường cần phải đi kèm với các biện pháp củng cố cấu trúc R&D. EPA EU-CARIFORUM và TA
EU-CP bao gồm các cơ chế hợp tác cụ thể được hiểu là để giúp các đối tác cải thiện các hệ thống
R&D của họ. Các cơ chế hợp tác đó bao gồm việc trao đổi thông tin về các dự án R&D được
công khai tài trợ; sự tham gia của các cơ quan và chuyên gia vào các hệ thống khoa học và công
nghệ (S&T) tương ứng; và các chương trình xây dựng năng lực.

Một số cơ chế mới nhất đã được đề cập trong PCA. Các cơ chế này có thể có lợi cho Việt
Nam trong tình trạng R&D thấp như hiện nay – mức đầu tư thấp, rất ít hoạt động R&D của khu
vực tư nhân, thiếu sự hợp tác giữa các tổ chức công về R&D và các doanh nghiệp tư nhân, thiếu
nhận thức về IPR của các nhà nghiên cứu. Các cơ chế này có thể giúp các cơ quan nhà nước của
Việt Nam đạt được mục tiêu nâng cao năng lực khoa học và công nghệ của mình lên tầm khu
vực như mục tiêu trong Kế hoạch 5 năm về khoa học và công nghệ hiện nay của Việt Nam.
8

GIỚI THIỆU
Hiện nay, quan hệ giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam được điều chỉnh bởi Hiệp
định khung về Hợp tác và Phát triển năm 1995
1
và Hiệp định Hợp tác ASEAN-EU năm 1980.
2

Nhờ các hiệp định này, mối quan hệ giữa Việt Nam và EU đã mở rộng và phát triển, nhưng vẫn
ở mức thấp hơn so với tiềm năng và lợi thế của cả hai bên.
3

Để tăng cường quan hệ, hai bên đã đàm phán một Hiệp định khung về Hợp tác và Đối tác
toàn diện (PCA).
4
PCA tạo cơ sở cho việc xây dựng quan hệ hiệu quả hơn giữa EU và các quốc
gia thành viên với Việt Nam trong các lĩnh vực phát triển, thương mại, kinh tế và công bằng. Tại
thời điểm soạn thảo Báo cáo này, Hiệp định chuẩn bị có hiệu lực.
Tuy nhiên, đây không phải là bước cuối cùng trong mối quan hệ Việt Nam-EU. PCA
khẳng định rõ ràng rằng hiệp định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc khởi động và ký kết
một Hiệp định thương mại tự do (FTA) phù hợp với mục tiêu của EU là tạo ra một khuôn khổ
kinh tế và chính trị chặt chẽ cho quan hệ giữa EU và các nước ASEAN.
5


Việc tăng cường quan hệ kinh tế-thương mại giữa Việt Nam và EU có thể mang lại lợi
ích chung cho cả hai bên.
Về phía Việt Nam, theo Đề án tổng thể về quan hệ với Liên minh châu Âu,
6
"sự phát triển
của quan hệ hợp tác toàn diện với EU và với từng quốc gia thành viên trên cơ sở bình đẳng và
cùng có lợi có tầm quan trọng chiến lược cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước".
7

Về phía EU, trong Chiến lược toàn cầu châu Âu
8
năm 2006, Ủy ban châu Âu khẳng định
tiếp cận thị trường ở nước ngoài là một nguồn quan trọng để gia tăng năng suất, tăng trưởng và
tạo việc làm. ASEAN được xác định là một trong các khối khu vực cần đàm phán FTA, xét về
tiềm năng thị trường (độ lớn và khả năng tăng trưởng kinh tế) cũng như mức độ bảo hộ đi ngược
lại lợi ích xuất khẩu của EU (lợi ích thuế và phi thuế).
9
Sau khi không thành công trong việc đàm
phán chung với cả khối ASEAN, EU đã quyết định khởi động đàm phán với từng thành viên
ASEAN.
10
Đó là bối cảnh cho việc bắt đầu đàm phán giữa EU với Việt Nam.
Theo Chiến lược toàn cầu châu Âu, cam kết của các bên trong một FTA trong tương lai
sẽ đi xa hơn cam kết trong các hiệp định trước đó, kể cả PCA mà đến nay chưa có hiệu lực.
Chiến lược toàn cầu châu Âu khẳng định FTA sẽ xây dựng trên cơ sở WTO và các quy tắc quốc
tế khác để đưa ra những cam kết cao hơn và nhanh hơn về mở cửa và hội nhập. Cam kết sẽ ở
mức toàn diện và tham vọng hơn về phạm vi, và “giải quyết các rào cản phi thuế thông qua hội
tụ về cơ chế quản lý trong chừng mực có thể, bao gồm các quy định thuận lợi hóa thương mại ở

mức độ cao”.
11



1
OJ L 136, ngày 7 tháng 6 năm 1996.
2
OJ L 144, ngày 10 tháng 6 năm 1980.
3
Đề án tổng thể quan hệ giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015 (ban hành kèm
theo Quyết định 143/2005QĐ-TTg ngày 14 tháng 6 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ), trang 1.
4
Đề xuất Quyết định của Hội đồng châu Âu về việc ký kết Hiệp định khung Quan hệ đối tác và hợp tác toàn diện giữa một bên là
Liên minh châu Âu và các nước thành viên với bên kia là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Doc. COM (2010) 699
final).
5
Tài liệu chú giải Đề xuất Quyết định của Hội đồng châu Âu, trang 2.
6
Đề án tổng thể, trang 1.
7
Đề án tổng thể, trang 1.
8
“Toàn cầu châu Âu - Cạnh tranh trên thế giới”, tại
9
Thông cáo "Một thị trường duy nhất về quyền sở hữu trí tuệ. Thúc đẩy sáng tạo và đổi mới sẽ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, việc
làm chất lượng cao và các sản phẩm, dịch vụ hàng đầu" (Doc. COM (2011) 287 final) (sau đây gọi là Thông cáo), trang 11.
10
Hiện nay, đàm phán đã bắt đầu với Singapore và Malaysia:


11
Thông cáo, trang 11.
9

Một trong các lĩnh vực được nhiều lần đề cập trong Chiến lược và được xác định cần
thiết phải hội tụ về cơ chế quản lý là quyền sở hữu trí tuệ (IPR): “Các FTA cần bao gồm các quy
định mạnh mẽ hơn về quyền sở hữu trí tuệ ”.
12

Mục tiêu của báo cáo này là dự kiến nội dung của một chương về quyền sở hữu trí tuệ
trong FTA tương lai giữa EU và Việt Nam; các tác động về kinh tế và pháp lý của chương này
đối với Việt Nam. Nhằm mục đích đó, báo cáo sẽ được chia thành 4 chương.
Chương I giải thích những lý do cho sự cần thiết phải có một chương về quyền sở hữu trí
tuệ trong FTA.
Chương II xác định các điều khoản chung được đưa vào chương về quyền sở hữu trí tuệ
trong các FTA gần đây của EU, và giải thích các tác động đối với hệ thống IPR của Việt Nam
nếu các điều khoản tương tự được đưa vào FTA tương lai giữa hai bên.
Chương III tập trung vào những tác động kinh tế - xã hội đối với Việt Nam của các điều
khoản này, căn cứ vào các báo cáo nghiên cứu về tác động của việc gia tăng bảo hộ IPR ở các
nước đang phát triển.
Cuối cùng, Chương IV sẽ đề cập về cơ chế hợp tác trong các FTA của EU và cách thức
mà cơ chế này có thể hỗ trợ Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ trong chương về IPR trong FTA
tương lai với EU.



12
Thông cáo, trang 11.
10


CHƯƠNG I. SỰ CẦN THIẾT CỦA MỘT CHƯƠNG VỀ IPR TRONG FTA
TƯƠNG LAI GIỮA EU VÀ VIỆT NAM
I. Cách tiếp cận của EU và của Việt Nam về IPR
EU là một trong các bên ủng hộ mạnh mẽ nhất đối với việc bảo hộ IPR trên toàn thế giới.
Lý do chính là nghiên cứu và đổi mới là các yếu tố cơ bản trong chiến lược tăng trưởng kinh tế
của EU. Tháng 3/2000, Hội đồng châu Âu đã thông qua Chiến lược Lisbon với mục tiêu trở
thành “nền kinh tế năng động và cạnh tranh nhất dựa vào tri thức trên thế giới trong năm
2010”
13
. Mục tiêu này được nhắc lại trong Chiến lược châu Âu 2020: “kiến thức và đổi mới là
động lực cho sự tăng trưởng của chúng ta trong tương lai”. IPR là điều thiết yếu trong chiến lược
này vì nó cho phép các doanh nghiệp và cá nhân hưởng lợi từ sự sáng tạo trí tuệ và tạo ra động
lực đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển
14
.
Các lý do khác giải thích tại sao EU thúc đẩy việc bảo hộ IPR ở mức cao là: sản phẩm giả
mạo và vi phạm bản quyền ảnh hưởng đến sức khỏe và sự an toàn của các công dân EU và việc
buôn bán lậu các sản phẩm này là nguồn tài trợ cho các tổ chức tội phạm và khủng bố
15
.
Vì những lý do trên, dễ hiểu tại sao Ủy ban đánh giá rằng “hơn bao giờ hết trong nền kinh
tế dựa vào tri thức, việc thực thi IPR là một mục tiêu chủ yếu, là điều sống còn đối với khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp châu Âu và đối với sự tăng trưởng, việc làm của EU cũng như sự an
toàn của mỗi công dân EU”
16
.
Tuy nhiên, mục tiêu thúc đẩy bảo hộ IPR ở mức cao của EU không chỉ ở trong phạm vi
lãnh thổ của EU. EU có lợi thế so sánh về các hoạt động nghiên cứu và đào tạo, đặc biệt khi so
với các nền kinh tế mới nổi. Toàn cầu hóa tạo ra cho EU nhiều cơ hội để xuất khẩu và buôn bán
các sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao và các bí quyết cho các nước thứ ba

17
. Tuy nhiên,
các công ty EU không thể hưởng lợi nhuận đầy đủ từ các cơ hội này nếu các quyền sở hữu trí tuệ
của họ không được bảo hộ thích đáng khi buôn bán ở nước ngoài. Ngoài ra, EU còn nhận thức rõ
ràng rằng việc ngăn chặn buôn bán hàng nhái và hàng vi phạm bản quyền phải được giải quyết từ
các nước xuất phát.
Những điều trên giải thích tại sao EU là một bên thúc đẩy mạnh mẽ việc bảo hộ và thực
thi hiệu quả đối với IPR trên các diễn đàn thế giới và tài sao một trong các mục tiêu FTA mà EU
đặt ra đối với các nước thứ ba là phải có các điều khoản về IPR, trong đó đặt ra “cố gắng tối đa
để đạt được mức độ bảo hộ tương tự như mức độ hiện hành ở EU”
18
.
Mặc dù ở vào hoàn cảnh khác với EU, Việt Nam cũng là một nước tích cực về bảo hộ
IPR. Lý do chính là Việt Nam cũng nhằm trở thành một nền kinh tế thị trường dựa trên tri thức
trong thế kỷ 21. Vì mục tiêu này, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 của
Việt Nam cũng đã xác định nhu cầu phải phát triển mạnh mẽ thị trường khoa học và công nghệ
đi kèm với việc bảo hộ IPR
19
. Đảng và Nhà nước tin tưởng rằng khuyến khích và thúc đẩy sáng
tạo và đổi mới, bảo hộ IPR là phục vụ cho sự phát triển đất nước
20
. Giới học thuật cũng cho rằng
bảo hộ IPR là một yêu cầu thiết yếu cho bất cứ quốc gia nào để phát triển các ngành dựa vào
công nghệ và thúc đẩy phát minh và đổi mới
21
.


13


14

15
Chiến lược thực thi IPR ở các nước thứ ba (Chiến lược thực thi IPR), trang 7 (OJ 129, 26/5/2005).
16
Tài liệu công tác Ủy ban “Báo cáo thực thi IPR 2009”, trang 3.
17
Thông cáo, trang 19.
18
Thông cáo, trang 20.
19
Điều này cũng được đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020, có tại

20
NOIP, Báo cáo 2010 về các hoạt động sở hữu tuệ, trang 5.
21
Y. Heo / T. N. Kiên, “Bối cảnh sở hữu trí tuệ của Việt Nam từ một góc độ khu vực”, Rà soát nghiên cứu lĩnh vực quốc tế, tập
14, số 1, tháng 3 năm 2011., trang 97.
11

Ngoài ra, bảo hộ IPR ở mức cao sẽ hỗ trợ cho các nước đang phát triển như Việt Nam thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); chuyển giao công nghệ quốc tế và bí quyết thông qua
liên kết mạng lưới và hợp tác với các công ty trong nước,
22
thúc đẩy sáng kiến và nghiên cứu của
các công ty và cá nhân trong nước.
Cuối cùng, mặc dù chưa khẳng định chính thức, Việt Nam sẽ đồng ý với quan điểm của
EU rằng việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở mức cao cũng sẽ giúp đảm bảo sức khỏe
và an toàn cho các công dân Việt Nam, cắt giảm nguồn tài trợ cho các tổ chức tội phạm.
Bất kể những mục tiêu kể trên, điều chắc chắn là Việt Nam phải vượt qua nhiều vấn đề

trong nước hiện nay để bảo hộ và thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ. Trong thực tế, theo Diễn
đàn Kinh tế Thế giới, Việt Nam xếp hạng thứ 127 trong tổng số 142 quốc gia về tính hiệu quả
trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
23
Những vấn đề này sẽ được giải thích trong Báo cáo.
Xét về quan điểm của EU và Việt Nam trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thì việc các
bên đồng ý đưa vào FTA một chương về IPR hẳn không gặp phải trở ngại gì.
Tại Điều 20 PCA, các bên đã “tái khẳng định tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ và thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ nhằm đảm bảo việc
bảo hộ đầy đủ và có hiệu quả các quyền nói trên phù hợp với tiêu chuẩn/hiệp định quốc tế liên
quan, bao gồm các phương thức thực thi hiệu quả”.
Những khó khăn có thể thể hiện ra khi đàm phán nội dung của Chương. Điều này sẽ được
giải thích ở Chương III: trong khi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có thể tác động tích cực đến đầu tư
và đổi mới, giới học thuật cũng nhấn mạnh rằng bảo hộ IPR có thể phản tác dụng ở các nước
đang phát triển, cụ thể là tình trạng độc quyền thị trường bởi các công ty nước ngoài, hàng hóa
liên quan đến IPR có mức giá cao, các vấn đề về y tế công cộng, tiếp cận tri thức, an ninh lương
thực, môi trường, quyền lao động, chuyển giao công nghệ, quản lý đa dạng sinh học.
24
Đồng
thời, việc đảm bảo thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ đòi hỏi đầu tư nhiều nguồn tài nguyên
(chẳng hạn như vật chất, nhân lực, tài chính hoặc thông tin) để xây dựng một khuôn khổ hành
chính và tư pháp cần thiết.
Giới học thuật cho rằng bảo hộ sở hữu trí tuệ cần được điều chỉnh tùy theo trình độ phát
triển của mỗi nước.
25
Mục tiêu bao trùm là thúc đẩy sự tiến bộ xã hội của đất nước đòi hỏi một
mức độ bảo hộ IP có tính đến lợi ích của tất cả các bên liên quan và sự cân bằng về lợi ích giữa
các bên này.
26


Các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cần chú ý đến những mối quan ngại này trong
đàm phán FTA với EU. Khi đàm phán nội dung của chương về IPR, Việt Nam nên cố gắng
thương lượng mức độ bảo hộ khác nhau cho nhiều loại quyền sở hữu trí tuệ, phù hợp với tình
hình cụ thể, đàm phán các điều khoản cho phép sự linh hoạt nhất định trong việc thực hiện luật
trong nước hoặc đặt ra các ngoại lệ đối với các quyền độc quyền.
Trước hết, cách tiếp cận này có thể bị coi là hoàn toàn trái ngược với cách tiếp cận của
EU, bởi như đã đề cập ở trên, mục tiêu đầu tiên của EU là đặt ra các điều khoản mà theo đó "thúc
đẩy mức độ bảo hộ IPR càng nhiều càng tốt tới mức tương đương trong EU". Tuy nhiên, EU
cũng nêu trong Chiến lược toàn cầu châu Âu rằng khi đàm phán FTA thì điều quan trọng là phải
“tính đến nhu cầu phát triển của nước đối tác”.
27



22
Điều này đã được giải thích trong Chương III.
23
Tại
24
J. Kuanpoth, "Các quy tắc TRIPS-cộng theo các Hiệp định thương mại tự do: Một góc nhìn châu Á", trong: C. Heath / A.
Kamperman Sanders, Sở hữu trí tuệ và các Hiệp định thương mại tự do, Oxford, Hart Publishing, 2007, trang 27.
25
A. Kur / H. Grosse Ruse-Khan, "Đủ là đủ - khái niệm về mức trần ràng buộc trong bảo hộ sở hữu trí tuệ quốc tế", Tài liệu
nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư số 09-01, trang 29.
26

H. Grosse Russe-Khan, "Khái niệm phát triển bền vững trong luật IP quốc tế - Phương pháp tiếp cận mới từ các Hiệp định Đối
tác Kinh tế của EU", ICTSD, tháng 9 năm 2010.
27
Chiến lược toàn cầu châu Âu, trang 19.

12

Cụ thể, thông cáo gần đây của Ủy ban châu Âu về Thị trường chung các quyền sở hữu trí
tuệ (Thông cáo)
28
nêu rõ rằng “trong đàm phán FTA, các điều khoản IPR cần đưa ra ở mức càng
cao càng tốt tới mức bảo hộ hiện tại ở EU trong khi có tính đến trình độ phát triển của các nước
liên quan”. Hơn nữa, Thông cáo này cũng khẳng định rằng “cần đảm bảo sự cân bằng thích hợp
giữa bảo hộ IPR và tiếp cận tri thức ở các nước thứ ba”.
29

Để kết luận, có thể khẳng định rằng hai bên đều có lợi ích trong việc đưa vào một chương
về IPR trong FTA giữa EU và Việt Nam. Trong khi các bên có thể có một số bất đồng về nội
dung cụ thể của Chương này - mức độ bảo hộ, linh hoạt trong thực hiện các nghĩa vụ, trường hợp
ngoại lệ về các quyền độc quyền , thì phương thức tiếp cận như EU đã tuyên bố liên quan đến
việc đàm phán các hiệp định song phương với các đối tác cho thấy rằng những bất đồng này có
thể dễ dàng giải quyết.
II. Bối cảnh khuôn khổ quản lý IPR quốc tế cho FTA giữa Việt Nam và EU
1. Khuôn khổ quản lý IPR quốc tế hiện hành và các hành động của EU nhằm gia tăng
mức độ bảo hộ
Một công cụ cơ bản về bảo hộ IPR quốc tế được biết đến rộng rãi là Hiệp định về các
khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS). Hiệp định này được thông
qua trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
30
do đó tất cả các nước thành viên -
bao gồm EU và Việt Nam phải tuân thủ các quy định của Hiệp định.
31

Nhìn chung, TRIPS ràng buộc các bên phải đảm bảo một mức độ bảo hộ tối thiểu cho các
đối tượng sở hữu trí tuệ khác nhau - quyền tác giả, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, bằng sáng

chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, chỉ dẫn địa lý và thông tin không tiết lộ - và phải áp dụng các
biện pháp để đảm bảo thực thi hiệu quả việc bảo hộ. Hơn nữa, Điều 64 TRIPS cho phép các
thành viên được viện tới Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong trường hợp có tranh cãi về
việc tuân thủ các quy định của Hiệp định.
Ngoài TRIPS, nhiều điều ước quốc tế khác liên quan đến từng đối tượng sở hữu trí tuệ đã
được thông qua trong khuôn khổ Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO). Các điều ước cơ bản
bao gồm Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật năm 1886 và Công ước
Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883. Cả EU và Việt Nam đều tham gia các điều ước
quốc tế này. Trên thực tế, TRIPS buộc mọi thành viên WTO phải tuân thủ các điều ước này.
Tuy nhiên, trong khi EU hoặc các nước Thành viên EU đã phê chuẩn tất cả các điều ước
quốc tế khác dưới sự quản lý của WIPO, Việt Nam
32
cũng như nhiều nước phát triển và đang
phát triển khác chưa thực hiện việc phê chuẩn.
Xét rằng IPR quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, ta dễ hiểu tại sao EU cho rằng mức
độ bảo hộ theo TRIPS chưa đủ. Hơn nữa, EU còn cho rằng hiệp định này chưa được thực thi đầy


28
Thông cáo, trang 20.
29
Thông cáo, trang 20.
30
TRIPS được bao gồm trong Phụ lục 1C của Hiệp định Marrakesh thành lập WTO.
31
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không đầy đủ là một trong những trở ngại lớn nhất đối với Việt Nam trong việc gia nhập WTO và
tiếp tục là một nguồn áp lực từ bên ngoài. Các nhà nghiên cứu Y. Heo / T.N. Kiên, "Việt Nam ", trang 74. Cần nhớ rằng tại thời
điểm TRIPS được ban hành và Việt Nam nộp hồ sơ xin gia nhập lên WTO (năm 1995) thì hệ thống quyền sở hữu trí tuệ tại Việt
Nam phần lớn vẫn ở dạng văn bản "dưới luật" (WTO, Rà soát pháp luật của Việt Nam trước Hội đồng TRIPS, Doc 10-4595 ngày
7 tháng 9 năm 2010, trang 2). Vì vậy, những nỗ lực của Việt Nam để phù hợp với hệ thống quyền sở hữu trí tuệ của TRIPS chắc

chắn được đánh giá cao.
32
Việt Nam đã tham gia các điều ước quốc tế sau trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ: TRIPS (ngày 1 tháng 1 năm 2007), Công
ước WIPO (1975), Công ước Paris (1975), PCT (tháng 12 năm 1992), Thoả ước Madrid (tháng 2 năm 1973), Nghị định thư
Madrid (tháng 4 năm 2006), Công ước Berne (tháng 7 năm 2004), Công ước về Bản ghi (tháng 4 năm 2005), Công ước UPOV
(2006), Công ước Rome (2007). Các điều ước quốc tế Việt Nam chưa phê chuẩn gồm: WCT, WPPT, Hiệp ước về Luật bằng
sáng chế, Hiệp ước Singapore về Luật Nhãn hiệu hàng hoá năm 2006, Hiệp ước Luật Nhãn hiệu năm 1994, Hiệp ước Budapest,
Hiệp định Hague, Thoả ước Nice, Hiệp định Locarno, Hiệp định Strasbourg và Công ước Vienna. Toàn văn và thông tin của tất
cả các điều ước quốc tế nêu trên có tại
13

đủ ở nhiều nước. EU đặt ra mức độ bảo hộ cao hơn trong phạm vi lãnh thổ EU và đấu tranh cho
việc tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở các nước thứ ba. Điều này hoàn toàn hợp pháp xét
từ tầm nhìn của TRIPS, cụ thể là Điều 1.1 nêu rằng các nước thành viên WTO “có thể, nhưng
không có nghĩa vụ phải, thực thi trong luật của mình mức độ bảo hộ cao hơn quy định của Hiệp
định này”.
EU đấu tranh cho việc tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở các nước thứ ba theo 2
kênh: đa phương và song phương:
33

a) Hành động đa phương chủ yếu thực hiện bởi EU là tham gia đàm phán trong các diễn
đàn quốc tế như Hội đồng TRIPS và các Uỷ ban của WIPO.
Hơn nữa, EU cũng tham gia đàm phán Hiệp định Thương mại chống hàng giả
(ACTA). Do sự thất vọng về sự tiến bộ đạt được liên quan đến việc giám sát và thiết
lập tiêu chuẩn về thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong các diễn đàn đa phương, các nước
công nghiệp chủ chốt đã bắt đầu đàm phán điều ước này trong năm 2007.
34
Dự thảo
cuối cùng đã được thông qua tháng 10 năm 2010. Mục tiêu đặt ra là phải có một điều
ước đa phương mới nâng cao các tiêu chuẩn toàn cầu cho việc thực thi quyền sở hữu

trí tuệ, hiệu quả hơn trong việc chống buôn bán hàng giả và hàng vi phạm bản quyền.
35

b) Hành động song phương. Sau Báo cáo đặc biệt của Hoa Kỳ số 301,
36
kể từ khi thông
qua Chiến lược thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở các nước thứ ba (Chiến lược thực thi
IPR) năm 2005, EU cũng đã tiến hành một Đánh giá về thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở
các nước thứ ba (Báo cáo đánh giá). Kết quả của đánh giá này là một danh sách các
quốc gia / khu vực mà EU phải tập trung nỗ lực thúc đẩy bảo hộ và thực thi quyền sở
hữu trí tuệ.
EU áp dụng 2 hành động bổ sung lẫn nhau với các nước trong danh sách. Một mặt, EU
tiến hành "đối thoại chính trị” về các vấn đề sở hữu trí tuệ (thường liên quan đến các ngành của
châu Âu), và / hoặc bố trí các chương trình hợp tác kỹ thuật nhằm hỗ trợ tăng cường hệ thống
quyền sở hữu trí tuệ cho cơ quan có thẩm quyền của các nước. Mặt khác, khi đạt điều kiện chín
muồi, EU sẽ khởi động đàm phán hiệp định thương mại song phương với một số nước.
Việt Nam được liệt vào Nhóm 3
37
trong Báo cáo đánh giá năm 2006: “Các quốc gia/vùng
lãnh thổ có mức độ cao về sản xuất, quá cảnh và/hoặc tiêu thụ hàng hoá vi phạm quyền sở hữu
trí tuệ, mà EU có thể sớm có quan hệ thương mại ở mức độ sâu hơn, trong đó sẽ bao gồm việc
tập trung cao hơn về thực thi quyền sở hữu trí tuệ”.
38

Như đã đề cập ở trên, đàm phán các hiệp định thương mại song phương là một trong
những hành động của EU để tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở các nước thứ ba. Hiệp


33


34
Trong Hội đồng TRIPS của WTO, Brazil, Ấn Độ và Trung Quốc liên tục ngăn chặn việc đưa thực thi sở hữu trí tuệ vào
chương trình nghị sự thường xuyên. Tại WIPO, các vấn đề thực thi bị giáng cấp xuống cho một ủy ban tư vấn đơn thuần.
35

36

Báo cáo đặc biệt 301 là một chương trình đánh giá hàng năm do Cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ thực hiện về thực tiễn
bảo hộ sở hữu trí tuệ và tiếp cận thị trường ở nước ngoài. Những nước nào không thực thi đầy đủ và có hiệu quả bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ hoặc "tiếp cận thị trường công bằng và bình đẳng cho công dân Hoa Kỳ vốn dựa vào quyền sở hữu trí tuệ" sẽ được
đưa vào Danh sách theo dõi hoặc Danh sách ưu tiên theo dõi. Trong Báo cáo đặc biệt 301 năm 2011, Việt Nam nằm trong Danh
sách theo dõi - nghĩa là một nước "thiếu hụt nghiêm trọng bảo hộ sở hữu trí tuệ" - cùng với Belarus, Bolivia, Bra-xin, Brunei,
Colombia, Costa Rica, Cộng hòa Dominica, Ecuador, Ai Cập, Phần Lan, Hy Lạp, Guatemala, Ý, Jamaica, Kuwait, Li-băng, Ma-
lai-xi-a, Mê-hi-cô, Na Uy, Pê-ru, Phi-líp-pin, Ru-ma-ni, Tây Ban Nha, Tajikistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmenistan, Ukraine và
Uzbekistan. Tại:
37
Cùng với Hàn Quốc, Argentina, Bra-xin, Paraguay, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin và Ma-lai-xi-a. Trong năm 2009, danh
sách được cập nhật: Việt Nam vẫn trong danh sách cùng với Argentina, Bra-xin, Canada, Ấn Độ, Israel, Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a,
Nga và Hoa Kỳ.
38
Cụ thể, Báo cáo đánh giá nêu rằng "Mặc dù các nước ASEAN đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong những năm gần đây về
xây dựng pháp luật, việc sản xuất và kinh doanh hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn phổ biến, việc thực thi không đủ và
các hình phạt đối với vi phạm hầu như không có tính chất ngăn chặn. Việc mở cửa thị trường giữa EU và ASEAN phải đi kèm
với việc gia tăng tôn trọng và bảo hộ các tài sản sở hữu trí tuệ".

14

định sẽ không chỉ đề cập đến quyền sở hữu trí tuệ mà tất cả các khía cạnh liên quan đến thương
mại. Do đó, để đánh đổi với việc gia tăng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, EU có thể nhượng bộ
trong các lĩnh vực khác về thương mại như ưu đãi tiếp cận thị trường EU cho các sản phẩm hoặc

dịch vụ nhất định.
EU đã đàm phán trên 40 hiệp định như vậy.Tùy vào nước thứ ba mà một hiệp định sẽ
dưới hình thức Hiệp định Đối tác và Kinh tế, Hiệp định Đối tác và Hợp tác, Hiệp định liên minh,
Hiệp định Phát triển thương mại và Hợp tác, Hiệp định liên minh Euro-Địa Trung Hải hay Hiệp
định thương mại tự do.
Sự cần thiết phải bao gồm điều khoản về quyền sở hữu trí tuệ trong các hiệp định đã gia
tăng do nhiệm vụ nêu trong Chiến lược toàn cầu châu Âu, Chiến lược thực thi quyền sở hữu trí
tuệ và các thông cáo kế tiếp của Ủy ban châu Âu. Số lượng các điều khoản về quyền sở hữu trí
tuệ trong các FTA gần đây ở mức cao so với các lĩnh vực pháp luật khác:
a) 25 (từ Điều 139 đến 164) trong Hiệp định đối tác kinh tế với các nước CARIFORUM
39

(EPA EU-CARIFORUM);
b) 69 (từ Điều 10.1 đến 10.69) trong Hiệp định thương mại tự do với Hàn Quốc
40
(FTA
EU-Hàn Quốc);
c) 48 (từ Điều 195 đến 257) trong Hiệp định Thương mại với Cô-lôm-bi-a và Pê-ru
41
(TA
EU-CP);
d) 63 (từ Điều 228 đến 276) trong Hiệp định liên minh
42
EU-Trung Mỹ
43
(AA EU-CA).
Hiện nay, EU đang đàm phán FTA với Canada, Ấn Độ, Malaysia, Mercosur. Tất cả các
hiệp định đang đàm phán đều có chương về quyền sở hữu trí tuệ với rất nhiều điều khoản.
Các điều khoản về quyền sở hữu trí tuệ trong các FTA này là TRIPS-cộng hay TRIPS-bổ
sung. TRIPS-cộng nghĩa là quy định về tiêu chuẩn bảo hộ ở mức rộng hơn đối với các đối tượng

sở hữu trí tuệ đề cập trong TRIPS, đi kèm với cơ chế thực thi mạnh, giảm bớt các “linh hoạt” và
“đối xử đặc biệt và khác biệt” cho các nước đang phát triển và kém phát triển. TRIPS-bổ sung là
quy định về bảo hộ đối với các đối tượng không được đề cập trong TRIPS - ví dụ như bảo hộ dữ
liệu thử nghiệm các sản phẩm dược phẩm hoặc nông hoá.
EU không đơn độc trong việc sử dụng các FTA để gia tăng mức độ bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ. Hoa Kỳ đã ký kết hơn 30 hiệp định FTA với các đối tác; các nước khác như Nhật Bản,
Hàn Quốc và Trung Quốc cũng bắt đầu làm tương tự mặc dù nội dung chương về quyền sở hữu
trí tuệ trong từng trường hợp có sự khác biệt.
Đàm phán FTA bao gồm các điều khoản về quyền sở hữu trí tuệ không phải mới đối với
Việt Nam. Việt Nam đã ký kết Hiệp định quan hệ thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ
năm 2000 (BTA Việt Nam-Hoa Kỳ), Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản năm 2008 và
đang trong quá trình đàm phán FTA với Chile.
Thêm vào đó, là một thành viên của ASEAN, Việt Nam đã tham gia các Hiệp định của
ASEAN thành lập Khu vực thương mại tự do với Úc-Niu di lân, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc
và Nhật Bản mặc dù không phải tất cả các FTA này đều có điều khoản về IPR.
44

Cuối cùng, trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ, Việt Nam đã ký kết một hiệp định song
phương với Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ về Bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở


39
OJ L 289, ngày 31 tháng 10 năm 2008. CARIFORUM bao gồm 14 thành viên của Cộng đồng Ca-ri-bê (CARICOM) - Antigua
và Barbuda, Bahamas, Barbados, Belize, Dominica, Grenada, Guyana, Haiti, Jamaica, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines,
Saint Kitts và Nevis, Surinam, Trinidad và Tobago, và Cộng hòa Dominica.
40
OJ L 127, 14/5/2011.
41

42

Trung Mỹ bao gồm Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Panama, Honduras và Nicaragua.
43

44
Đây là trường hợp của các FTA với Hàn Quốc, Ấn Độ hoặc Trung Quốc.
15

hữu trí tuệ năm 1999 và là thành viên của Hiệp định khung ASEAN về Hợp tác sở hữu trí tuệ
năm 1995.
Trong khi một số hiệp định này chỉ tập trung vào hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, thì
các hiệp định khác bao gồm BTA Việt Nam-Hoa Kỳ, Hiệp định Việt Nam-Thụy Sĩ lại có các
điều khoản TRIPS-cộng và TRIPS-bổ sung tương tự hoặc thậm chí còn ở mức cao hơn so với
trong các FTA của EU.
Các hiệp định này được thực thi tại Việt Nam thông qua khiếu nại trước tòa án và được
tòa án ra phán quyết
45
. Ngoài ra, trong trường hợp có xung đột giữa một điều ước quốc tế và một
quy định trong nước thì điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên.
46

Như đã đề cập ở Chương II, tác động của một FTA với EU đối với hệ thống quyền sở
hữu trí tuệ của Việt Nam sẽ giảm bớt bởi trên thực tế Việt Nam đã thực hiện một số nghĩa vụ
TRIPS-cộng hoặc TRIPS-bổ sung trong khuôn khổ các FTA đã tham gia.
2. Đặc điểm bổ trợ của các điều khoản IPR trong các FTA: TRIPS-cộng/TRIPS-bổ sung,
các điều khoản MFN và NT
Qua thảo luận, rõ ràng mục tiêu của chương về IPR trong FTA là để bổ trợ sự bảo hộ theo
TRIPS. Cần lưu ý rằng TRIPS chỉ đặt ra một tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu
47
, do đó các thành viên
WTO được tự do gia tăng mức độ bảo hộ thông qua các điều khoản TRIPS-cộng/TRIPS-bổ sung

trong FTA.
48

Để tăng cường tính chất bổ trợ này, các FTA của EU bao gồm “điều khoản không cản
trở”. Quy định này nhằm làm rõ rằng mục tiêu của các điều khoản về IPR là bổ trợ, cụ thể hóa
các quyền và nghĩa vụ của các Bên theo Hiệp định TRIPS
49
. Điều khoản “không cản trở” đặc
biệt quan trọng khi diễn giải các FTA: a) trong trường hợp có xung đột giữa các quy định trong
FTA và trong TRIPS, thì quy định trong FTA phải được giải thích theo cách không mâu thuẫn
hoặc phương hại đến quy định trong TRIPS; b) quy định trong FTA không cản trở TRIPS hay
bất kỳ điều ước quốc tế nào khác. Quy định trong FTA “bổ trợ” các điều ước quốc tế và trong
một số trường hợp làm rõ quyền và nghĩa vụ của các bên theo các điều ước này.
Nói chung, sự phổ biến các FTA có điều khoản IPR đã tạo ra ảnh hưởng “tăng cường”
các tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
50

Ảnh hưởng “tăng cường” còn được nhân lên bởi các nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) và
Đối xử quốc gia (NT) tại Điều 3 và 4 TRIPS,
51
theo đó một bên tham gia FTA phải áp dụng mức
độ bảo hộ cao hơn không chỉ cho công dân của các bên tham gia FTA khác mà cho công dân của
bất kỳ thành viên WTO nào khác. Khác với GATT và GATS, việc miễn trừ các nguyên tắc này
theo TRIPS rất hạn chế.
52



45
Những người phải thực thi tin rằng một hiệp định càng chi tiết thì càng tốt. Tuy nhiên, việc thiếu tính linh hoạt cho luật trong

nước để thực hiện hiệp định cũng có các tác động tiêu cực.
46
Điều 5 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (IPL). Tương tự trong Điều 759.2 Bộ luật Dân sự (CC).
47
Điều 1.1: Các Thành viên sẽ thực thi các quy định của Hiệp định này. Các Thành viên có thể, nhưng không có nghĩa vụ phải,
thực hiện trong luật của mình mức độ bảo hộ rộng hơn quy định trong Hiệp định này.
48
Vì lý do tương tự, các bên tham gia FTA được tự do đặt ra mức độ bảo hộ rộng hơn trong luật quốc gia theo nghĩa vụ trong
FTA. Điều này thể hiện rõ ràng trong Điều 139.5 EPA EU- CARIFORUM.
49
Điều196.2 TA EU-CP, Điều 229 AA EU-CA, Điều 10.2.1 FTA EU-Hàn Quốc. Phạm vi của điều khoản này được mở rộng
trong TA EU-CP và AA EU-CA cho "các hiệp định đa phương khác” và “các điều ước quốc tế khác trong lĩnh vực quyền sở hữu
trí tuệ". Thực tế là EPA EU-CARIFORUM không có điều khoản “không cản trở” nhưng không gây trở ngại đối với việc đạt
được kết quả tương tự nhờ việc diễn giải các điều ước quốc tế theo Công ước Vienna về Luật điều ước quốc tế.
50
M. Handler / B. Mercurio, "Sở hữu trí tuệ", trong: S. Lester / B. Mercurio (eds.), Các hiệp định thương mại song phương và
khu vực, Cambridge University Press, 2009, từ trang 308-341, đặc biệt trang 309.
51
"Về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bất kỳ lợi thế, ưu đãi, đặc quyền hoặc miễn trừ nào được một Thành viên dành cho công dân
của bất kỳ nước nào khác được ngay lập tức và vô điều kiện dành cho công dân của tất cả các Thành viên khác".
52
"Được miễn trừ nghĩa vụ này là những lợi thế, ưu đãi, đặc quyền hoặc miễn trừ do một Thành viên áp dụng: (a) phát sinh từ
các thoả thuận quốc tế về tương trợ tư pháp hoặc thực thi pháp luật có tính chất chung và không giới hạn cụ thể đối với bảo hộ sở
hữu trí tuệ; (b) được áp dụng theo các quy định của Công ước Berne (1971) hoặc Công ước Rome cho phép rằng ưu đãi áp dụng
16

Tuy nhiên, nói một cách chính xác, các nguyên tắc MFN và NT chỉ áp dụng đối với các
điều khoản TRIPS-cộng, nghĩa là các điều khoản trong FTA tăng cường mức độ bảo hộ đối với
các đối tượng sở hữu trí tuệ đã đề cập trong TRIPS - ví dụ như điều khoản ràng buộc các bên
FTA phải tăng thời hạn bảo hộ quyền tác giả lên 70 năm. Tuy nhiên, các nguyên tắc này không

áp dụng đối với các điều khoản TRIPS-bổ sung, ví dụ như dữ liệu thử nghiệm độc quyền, quyền
đối với giống cây trồng bởi vì các nguyên tắc này không đề cập đến các đối tượng sở hữu trí
tuệ không có trong TRIPS.
53
Vì thế, các bên tham gia FTA không có nghĩa vụ phải áp dụng các
điều khoản TRIPS-bổ sung cho các thành viên WTO khác.
Cuối cùng, cần lưu ý rằng một số FTA của EU bao gồm các điều khoản NT và MFN.
54

Các điều khoản này cũng được tìm thấy trong một số FTA mà Việt Nam đã ký kết.
55

Điều khoản NT nhằm làm rõ rằng việc đối xử quốc gia dành cho bên kia vô điều kiện, trừ
các ngoại lệ được phép theo Điều 3 và 5 TRIPS.
Nhờ vào điều khoản MFN, công dân của mỗi bên tham gia FTA được hưởng lợi từ những
lợi thế, ưu đãi, đặc quyền hay miễn trừ mà bên tham gia FTA khác áp dụng cho công dân của
các bên thứ ba, trừ các ngoại lệ được phép theo Điều 3 và 5 TRIPS.
Việc không có điều khoản NT trong FTA EU-Hàn Quốc và EPA EU-CARIFORUM
không gây ra bất kỳ vấn đề gì do sự tồn tại của nguyên tắc NT trong TRIPS. Việc không có điều
khoản MFN trong các FTA này nghĩa là một bên tham gia FTA không có nghĩa vụ phải áp dụng
đối với công dân của bên tham gia khác những ưu đãi mà bên này dành cho các bên thứ ba. Tuy
nhiên, một khi những ưu đãi này được thực hiện trong luật quốc gia thì công dân của bên tham
gia khác sẽ được hưởng lợi theo nguyên tắc NT.



không phải là đối xử trong nước mà là đối xử dành cho một nước khác, (c) liên quan đến quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi và tổ chức phát sóng không được quy định theo Hiệp định này; (d) phát sinh từ thỏa thuận quốc tế liên quan đến bảo hộ
sở hữu trí tuệ đã có hiệu lực trước khi Hiệp định WTO này có hiệu lực, với điều kiện thỏa thuận đó được thông báo cho Hội đồng
TRIPS và không phải là một hình thức phân biệt đối xử tuỳ tiện hoặc vô lý đối với công dân của các Thành viên khác".

53
X. Seuba Hernandez, “Bảo vệ sức khỏe trong Hiệp định liên minh EU và Andean", Ấn bản HAI Europe/AIS Latinoamerica &
Caribe, năm 2008, từ trang 20-22.
54
Điều 198-199 TA EU-CP và Điều 230 AA EU-CA.
55
Đối xử quốc gia được quy định tại Điều 3 BTA Việt Nam-Hoa Kỳ và Điều 4 FTA ASEAN-Australia-New Zealand. Hiệp định
giữa Việt Nam-Thụy Sĩ về bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và EPA Việt Nam-Nhật Bản cũng có
quy định về NT và MFN.
17

CHƯƠNG II. NỘI DUNG CHƯƠNG IPR TRONG FTA TƯƠNG LAI GIỮA
VIỆT NAM VÀ EU – TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI HỆ THỐNG IPR CỦA VIỆT
NAM
I. Giới thiệu
Chương đầu tiên đã tập trung giải thích sự cần thiết của một chương về IPR trong FTA
tương lai với EU và khuôn khổ pháp lý quốc tế cho việc đàm phán về chương này.
Sau khi trình bày về 2 khía cạnh đó, chương thứ hai này có 2 mục tiêu:
a) Dự kiến nội dung của chương về IPR bằng cách xác định các điều khoản phổ biến về
IPR trong các FTA mà EU đã ký kết. Giả định đặt ra là EU vẫn đặt mục tiêu đưa các
điều khoản tương tự vào FTA trong tương lai với Việt Nam;
b) Xem xét những tác động của chương về IPR với các nội dung dự kiến đối với hệ thống
quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam.
Nhằm mục tiêu đầu tiên, các FTA sau đây sẽ được tập trung phân tích: EPA EU-
CARIFORUM, FTA EU-Hàn Quốc, TA EU-CP, và AA EU-CA. Lý do là bởi các FTA này được
EU ký kết gần đây nhất, sau khi EU đã công bố Chiến lược thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Một lý
do khác là, ngoại trừ FTA EU-Hàn Quốc, các FTA còn lại là giữa EU với các nước đang phát
triển như Việt Nam.
Nói chung, có thể khẳng định rằng chương về IPR sẽ có cấu trúc và giải quyết cùng các
vấn đề về IPR. Tuy nhiên, nội dung các điều khoản sẽ khác nhau tùy vào từng hiệp định, cho dù

sự khác biệt không quá lớn như trong các quy định về việc thực thi.
ACTA cũng sẽ được chú ý. Mặc dù hiệp định này chưa được thông qua và EU đang trong
quá trình thông qua hiệp định này, chúng tôi cho rằng các tiêu chuẩn của ACTA sẽ được coi như
tiêu chí đa phương thực tế áp dụng mà các nước thứ ba sẽ phải đáp ứng, có thể dưới hình thức
chính thức khi tham gia ACTA, hoặc như một phần trong các thỏa thuận song phương
56
. Bởi
vậy, nhiều khả năng là các FTA trong tương lai có điều khoản về thực thi IPR sẽ đòi hỏi việc phê
chuẩn ACTA hoặc được thiết kế theo ACTA.
Nhằm mục tiêu thứ hai, chúng tôi sẽ so sánh các điều khoản IPR phổ biến trong các FTA
với quy định pháp luật về IPR của Việt Nam, đặc biệt là các quy định sau:
a) Các quy định chung: Điều 736 - 759 Bộ luật Dân sự (CC)
57
và Luật Sở hữu trí tuệ
(IPL).
58

b) Trong lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp: Nghị định 103/2006/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp
59

và Thông tư 01/2007/TT-BKHCN
60
hướng dẫn thực hiện Nghị định 103.
c) Trong lĩnh vực quyền tác giả và các quyền liên quan: Nghị định 100/2006/NĐ-CP
61

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật Sở
hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan.



56
Vụ Chính sách đối ngoại EU, Phòng Chính sách, Hiệp định Thương mại chống hàng giả (ACTA). Một đánh giá năm 2011,
trang 9 - 11.
57
Số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005.
58
Số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005, sửa đổi bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (số
36/2009/QH12) ban hành theo Lệnh 12/2009/L-CTN ngày 29 tháng 6 năm 2009.
59
Nghị định 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006, chi tiết và hướng dẫn thi hành của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công
nghiệp (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 122/2010/ND-CP ngày 31 tháng 12 năm 2010).
60
Thông tư 01/2007/TT-BKHCN ngày 14 tháng 2 năm 2007, hướng dẫn việc thực hiện Nghị định 103/2006/NĐ-CP của Chính
phủ (sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 13/2010/TT-BKHCN ngày 30 tháng 7 năm 2010 và Thông tư 18/2011/TT-BKHCN ngày 22
tháng 7 năm 2011).
18

d) Trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghị định 104/2006/NĐ-CP
62
quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đối với giống cây trồng.
e) Về thực thi: Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (CPC)

63
, Luật Hải quan,

64

Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của

Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và về quản lý Nhà nước về sở hữu
trí tuệ
65
, Nghị định 97/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công
nghiệp, Luật Công nghệ thông tin (ITL)
66
.
f) Trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ: Luật Chuyển giao công nghệ (TTL).
67

Những quy định này đã được dần sửa đổi và cập nhật đáp ứng các cam kết của Việt Nam
trong các điều ước quốc tế đa phương và các hiệp định song phương, dưới áp lực đáng kể của
các đối tác thương mại chính của Việt Nam.
68

Nhằm hiểu biết tốt hơn về những quy định này và việc thực thi trong thực tế, chúng tôi
quan tâm đến một số nghiên cứu về hệ thống quyền sở hữu trí tuệ Việt Nam được xuất bản bằng
tiếng Anh
69
và lấy ý kiến của một số luật sư và cán bộ nhà nước thông qua phỏng vấn.
Trong khi pháp luật hiện hành của Việt Nam đã có một bước tiến quan trọng trong việc
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, giới học thuật, các luật sư và đại diện khu vực kinh doanh cho rằng
hệ thống này vẫn còn thiếu sót và một số khía cạnh của quy định không phù hợp với TRIPS.
70

Chương này được chia thành bốn phần: a) mục tiêu, các nghĩa vụ và nguyên tắc chung; b)
nội dung bảo hộ; c) thực thi; d) chuyển giao công nghệ. Mỗi phần được chia thành mục nhỏ: mục
một là các quy định IPR phổ biến trong các FTA và mục hai là tác động của các quy định này
đối với hệ thống IPR của Việt Nam.
II. Mục tiêu, nghĩa vụ và nguyên tắc chung

1. Quy định phổ biến trong các FTA của EU
Tất cả các FTA của EU đều mở đầu chương IPR với một mục về “mục tiêu”, “bản chất
và phạm vi của các nghĩa vụ” và “các nguyên tắc chung”. Mục này cũng thường có thêm một nội
dung tham chiếu đề cập đến việc hết hạn các quyền.
Mục tiêu.
71
Ngạc nhiên là mục tiêu của chương về IPR trong các FTA có phần khác
nhau. Điều này có thể giải thích được dựa vào trình độ phát triển kinh tế của các đối tác FTA của
EU.


61
Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006, chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật
Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan.
62
Nghị định 104/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006, chi tiết và hướng dẫn thi hành của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đối
với giống cây trồng.
63
Số 24/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004.
64
Điều 57 – 59.
65
Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006, chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 119/2010/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2010.
66
Số 67/2006/QH11. Cụ thể từ Điều 16 đến 20.
67
Số 80/2006/QH11.
68
Y. Heo / T. N. Kien, “Việt Nam…”, trang 74.

69
Cụ thể, Y. Heo / T. N. Kien, “Việt Nam…”, trang 74.
70
WTO, Rà soát chính sách thương mại của Việt Nam …, Mục 14. Y. Heo / T. N. Kien, “Việt Nam…”, trang 77. Trong các cuộc
phỏng vấn cho Báo cáo này, các luật sư cũng đề cập đến thiếu sót đặc biệt liên quan đến thủ tục đăng ký và thực thi. Những ý
kiến này không được chia sẻ bởi M. TRANG Nguyen, M. TRANG Nguyen, Tác động của hệ thống IP đối với Tăng trưởng kinh
tế Việt Nam", trong: WIPO, IP ở các nước châu Á: Nghiên cứu về cơ sở hạ tầng và tác động kinh tế, năm 2009, trang 115. Theo
Sách trắng của Eurocham 2011 (các vấn đề thương mại / đầu tư và khuyến nghị), 1 trong 5 vấn đề cốt lõi năm 2011 là "bảo hộ và
thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ" (trang 6).
71
Điều 195 TA EU-CP, Điều 228 AA EU-CA, Điều 10.1 FTA EU-Hàn Quốc, Điều 132 EPA EU-CARIFORUM.
19

Một mặt, mục tiêu trong FTA EU-Hàn Quốc là: a) đạt được mức độ bảo hộ và thực thi
đầy đủ và có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ; b) tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất và
thương mại hóa các sản phẩm đổi mới và sáng tạo của các Bên.
Mặt khác, 3 FTA khác của EU đưa ra mục tiêu: a) đạt được mức độ bảo hộ và thực thi
đầy đủ và có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ; b) thúc đẩy và khuyến khích chuyển giao công nghệ
giữa hai Bên. AA EU-CA và EPA EU-CARIFORUM thậm chí còn đi xa hơn thế. Mục tiêu thứ
ba đặt ra là thúc đẩy hợp tác kỹ thuật và tài chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. EPA EU-
CARIFORUM còn đặt ra hẳn một chương về “Đổi mới và sở hữu trí tuệ”. Điều này ngụ ý một
mục tiêu cao hơn, bao gồm cả hai lĩnh vực.
Các nghĩa vụ chung.
72
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, FTA ràng buộc các Bên tham
gia phải thực thi chương về IPR trong FTA, quy định của TRIPS và các điều ước quốc tế liên
quan về quyền sở hữu trí tuệ mà các Bên đã tham gia.
Khi đặt ra mục tiêu tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, từng FTA đưa ra định nghĩa
về IPR bao gồm cả các đối tượng sở hữu trí tuệ không đề cập trong TRIPS. Mặc dù các định
nghĩa rất giống nhau và đều bao gồm quyền đối với giống cây trồng nhưng vẫn có một số khác

biệt nhỏ.
73

Duy nhất có EPA EU-CARIFORUM bao gồm một “điều khoản tuân thủ quốc gia” –
“Các bên được tự do quyết định phương thức thích hợp để thực hiện các quy định của Mục này
trong hệ thống pháp lý và thực thi của mình”. Các FTA khác không có điều khoản này nhưng
cần lưu ý rằng “điều khoản tuân thủ quốc gia” có thể tìm thấy tại Điều 1.1 và Điều 41.5
TRIPS.
74

Các nguyên tắc chung.
75
Tất cả các FTA đều công nhận tầm quan trọng của Tuyên bố
Đô-ha về Hiệp định TRIPS và Y tế công cộng trong việc diễn giải và thực hiện các quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ điều khoản về quyền sở hữu trí tuệ của FTA
76
. Hơn nữa, các FTA cũng đều
tham chiếu đến Quyết định về việc thực thi Đoạn 6 của Tuyên bố Đô-ha và Nghị định thư sửa đổi
Hiệp định TRIPS
77
.
TA EU-CP và EPA EU-CARIFORUM đề cập đến quyền của các Bên tham gia trong việc
thông qua các biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe công cộng và chế độ dinh dưỡng hoặc để
ngăn chặn việc lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ bởi chủ thể quyền hoặc các hành vi hạn chế
thương mại một cách bất hợp lý hoặc ảnh hưởng bất lợi đến chuyển giao công nghệ quốc tế.
Điều khoản này sao chép từ Điều 8 TRIPS, do đó, việc không có điều khoản này cũng không có
bất kỳ ảnh hưởng nào
78
.



72
Điều 196 TA EU-CP, Điều 229 AA EU-CA, Điều 10.2 FTA EU-Hàn Quốc, Điều 139 EPA EU-CARIFORUM.
73
Ví dụ, định nghĩa IPR trong Điều 196.5 TA EU-CP bao gồm cả tên thương mại "cho đến nay tên thương mại được bảo hộ với
ý nghĩa là quyền sở hữu độc quyền trong luật pháp quốc gia”; trong Điều 139.3 EPA EU-CARIFORUM “bằng sáng chế cho các
phát minh công nghệ sinh học" và "bảo hộ cơ sở dữ liệu" (có lẽ bao gồm cả quyền đối với các cơ sở dữ liệu không phải dữ liệu
gốc); và trong Điều 229.2.c) AA EU-CA "chỉ dẫn địa lý, bao gồm cả chỉ dấu nơi xuất xứ ".
74
Mặc dù không phải là một đặc điểm chung của các FTA, cần lưu ý rằng một số FTA đặt ra các thời hạn khác nhau cho việc
thực hiện chương về IPR: chẳng hạn, các nước CARIFORUM phải tuân thủ nghĩa vụ trước ngày 01 tháng 1 năm 2014 hoặc
muộn hơn cho các nước kém phát triển; Hàn Quốc phải tuân thủ vào năm 2013 đối với các điều khoản về quyền tác giả (Điều
10.14 FTA EU-Hàn Quốc).
75
Điều 197 TA EU-CP. Trong các FTA còn lại, những "nguyên tắc chung" phân tán trong các điều khoản khác nhau trong một
mục với tiêu đề "Mục tiêu và nguyên tắc", "Những quy định chung" hay "Nguyên tắc".
76
Trong khi đối với TA EU-CP và AA EU-CA thì Tuyên bố sẽ định hướng cho việc thực hiện các quy định liên quan đến tất cả
các loại quyền sở hữu trí tuệ, còn đối với EPA EU-CARIFORUM và FTA EU-Hàn Quốc thì việc áp dụng giới hạn ở bằng sáng
chế.
77
Trong khi trong EPA EU-CARIFORUM các bên “đồng ý thực hiện các bước cần thiết để phê duyệt Nghị định thư" thì trong
các FTA khác, các bên “phải đóng góp vào việc thực hiện và tôn trọng". Có thể lập luận rằng nghĩa vụ của các quốc gia
CARIFORUM cao hơn các đối tác khác của EU. Tuy nhiên, khó có thể nói rằng "phải đóng góp vào việc thực hiện và tôn trọng"
không hàm ý rằng các nước bị ràng buộc phải phê chuẩn.
78
Với một ngoại lệ: trong khi Điều 8 TRIPS quy định rằng các biện pháp “phải phù hợp với quy định của Hiệp định này" thì điều
này không được đưa vào EPA EU-CARIFORUM và EU-CP TA.
20


Do các bên tham gia EPA EU-CARIFORUM, TA EU-CP và AA EU-CA với EU là các
nước đang phát triển nên các FTA này đều bao gồm nguyên tắc linh hoạt trong việc thực hiện
chương về IPR trong luật pháp quốc gia. Chẳng hạn, mặc dù vẫn liệt kê đầy đủ các mục tiêu về
quyền sở hữu trí tuệ, AA EU-CA bổ sung rằng việc đảm bảo bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phải
“tính đến tình hình kinh tế và nhu cầu xã hội, văn hóa của mỗi bên”. TA EU-CP bổ sung rằng
mục tiêu đó phải “đóng góp cho việc chuyển giao và phổ biến công nghệ và ủng hộ phúc lợi xã
hội và kinh tế và sự cân bằng giữa quyền của chủ sở hữu với lợi ích công cộng”. Điều này cũng
được trích từ Điều 7 TRIPS. Cuối cùng, EPA EU-CARIFORUM quy định rằng việc “thực thi
đầy đủ và có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ phải tính đến nhu cầu phát triển của các nước
CARIFORUM”.
Hết hạn các quyền
79
. Các FTA đều có một quy tắc phổ biến về vấn đề này tương tự như
trong Điều 6 TRIPS: các Bên sẽ được tự do quy định chế độ về hết hạn các quyền. Mặc dù EPA
EU-CARIFORUM không đề cập nhưng do Điều 6 TRIPS thì kết quả không khác. Vì vậy, các
bên tham gia FTA có thể lựa chọn trong số các chế độ quy định theo luật quốc gia, khu vực hoặc
quốc tế về hết hạn các quyền.
2. Tác động đối với hệ thống IPR của Việt Nam
Đến nay, các FTA mà Việt Nam đã tham gia chỉ đề cập đến duy nhất một mục tiêu “bảo
hộ và thực thi đầy đủ và hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ”. Chỉ có AANZFTA dẫn chiếu đến một
mục tiêu khác: tạo ra và sử dụng quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ và hiệu quả.
Bên cạnh đó, các FTA này đều chứa đựng một số nguyên tắc chung để hướng dẫn thực
hiện và diễn giải
80
. Tuy nhiên, các nguyên tắc này không toàn diện như trong FTA của EU.
Nội dung các điều khoản trong FTA liên quan đến “mục tiêu”, “bản chất và phạm vi của
các nghĩa vụ” và “các nguyên tắc chung” rất hữu ích vì ít nhất 2 lý do quan trọng sau: a) trong
trường hợp có sự sai khác về cách hiểu quy định của FTA thì các mục tiêu và nguyên tắc chung
sẽ mang lại đường hướng cho việc diễn giải; b) tạo ra một số linh hoạt cho các Bên khi thực hiện
các nghĩa vụ của chương về IPR trong luật pháp quốc gia cho phù hợp với nhu cầu trong nước

81
.
Như sẽ tiếp tục được giải thích trong Chương III, việc tăng cường bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ chắc chắn có lợi ích cho các nước đang phát triển nhưng nếu mức độ bảo hộ không phù
hợp với tình hình kinh tế - xã hội sẽ có thể phản tác dụng. Vì lý do đó, càng có được sự linh hoạt
trong việc thực thi IPR trong FTA thì càng có lợi cho các nước đang phát triển như Việt Nam.
Với quan điểm đó, Việt Nam cần chú ý khi việc soạn thảo các điều khoản này. Việc đưa
vào các mục tiêu và nguyên tắc chung tương tự như trong TA EU-CP, AA EU-CA hoặc EPA
EU-CARIFORUM sẽ rất có lợi cho Việt Nam.
Trong thực tế, Việt Nam có thể yêu cầu đưa vào không chỉ các nguyên tắc phù hợp cho
các nước đang phát triển nói chung mà cả các nguyên tắc quan trọng đối với hoàn cảnh kinh tế -
xã hội cụ thể của mình. Ví dụ, TA EU-CP đề cập đến các nguyên tắc chung đặc biệt thích hợp
cho Peru và Colombia - việc tiếp cận các loại thuốc chữa bệnh (Điều 197.1), tầm quan trọng của
việc thúc đẩy thực hiện Nghị quyết WHA 61.21 Chiến lược và Kế hoạch hành động toàn cầu về Y


79
Điều 200 TA EU-CP, Điều 232 AA EU-CA, Điều 10.4 FTA EU-Hàn Quốc. EPA EU-CARIFORUM không có quy định về
vấn đề này.
80
BTA Việt Nam-Hoa Kỳ nêu rằng "các bên thừa nhận mục tiêu chính sách xã hội cơ bản của các hệ thống quốc gia cho việc bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm mục tiêu phát triển và công nghệ, và đảm bảo rằng các biện pháp để bảo hộ và thực thi quyền
sở hữu trí tuệ không trở thành rào cản đối với thương mại chính đáng (Điều 1). AANZFTA đề cập đến sự cần thiết phải "tính đến
các mức độ khác nhau của sự phát triển kinh tế và năng lực, sự khác biệt trong các hệ thống pháp luật quốc gia và sự cần thiết
phải duy trì cân bằng thích hợp giữa các chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích hợp pháp của người sử dụng" (Điều 1). Hiệp
định ASEAN về Sở hữu trí tuệ quy định rằng các nước thành viên có trách nhiệm "thông qua các biện pháp cần thiết cho việc bảo
hộ sức khỏe và dinh dưỡng công cộng, thúc đẩy các lợi ích công cộng trong các lĩnh vực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-
xã hội và công nghệ của mỗi nước Thành viên, phù hợp với các nghĩa vụ quốc tế của Thành viên này".
81
X. Seuba Hernandez, “Bảo vệ sức khỏe ”, trang 14-15.

21

tế công cộng, đổi mới và sở hữu trí tuệ
82
(Điều 197.4). AA EU-CA là FTA duy nhất có điều
khoản về thúc đẩy hợp tác kỹ thuật và tài chính trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ, do đó cũng
có thể coi là đặt ra mục tiêu tương tự.
Việt Nam cũng nên quyết định xem có đưa vào hay không nghĩa vụ phê chuẩn Quyết
định về việc thực hiện Đoạn 6 của Tuyên bố Đô-ha và Nghị định thư sửa đổi Hiệp định TRIPS.
Cần lưu ý rằng việc áp dụng Quyết định này gặp phải sự hoài nghi của các nước đang phát triển,
giới học thuật và các tổ chức phi chính phủ
83
. Trong bản Rà soát pháp luật Việt Nam trước Hội
đồng TRIPS, đại diện Việt Nam cho biết rằng Việt Nam đang nghiên cứu khả năng phê chuẩn
Quyết định. Tại thời điểm soạn thảo Báo cáo này, Việt Nam vẫn chưa phê chuẩn Quyết định.
84

Nhằm phản ánh các nguyên tắc khi thực hiện các điều khoản về IPR, Việt Nam nên sử
dụng các biện pháp như tại Điều 7 IPL
85
, các trường hợp ngoại lệ và hạn chế đối với các quyền
độc quyền, và việc hết hạn của các quyền.
Liên quan đến hết hạn các quyền, các FTA Việt Nam đã tham gia không đề cập bất kỳ
nghĩa vụ cụ thể nào. Theo Điều 125.2 b) IPL, Việt Nam đã thông qua nguyên tắc hết hạn quyền
quốc tế. Hơn thế, quyền cũng bị hết hạn khi các sản phẩm được đưa ra thị trường không chỉ theo
sự đồng ý của chủ thể quyền, mà cả trong khuôn khổ của một giấy phép bắt buộc
86
. Giới học
thuật cho rằng đây là lựa chọn tốt nhất cho nhập khẩu song song, vì cách quy định này cho phép
kiểm soát chi phí của các sản phẩm thuốc chữa bệnh và tạo điều kiện tiếp cận với thuốc. Tuy

nhiên, cách này cũng có thể trở thành một biện pháp cản trở đầu tư vào dược phẩm trong nước.
Đồng thời do buộc phải sản xuất hướng tới một giá toàn cầu duy nhất cho sản phẩm, các nhà sản
xuất rất có thể sẽ định giá ở mức cho các nước giàu có hơn
87
.
III. Các điều khoản nội dung về bảo hộ IPR
Cả 4 FTA đều có quy định đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ liệt kê trong TRIPS.
Ngoài ra, các FTA này đều có các điều khoản về giống cây trồng và nguồn gen, tri thức truyền
thống và văn hóa dân gian.
1. Bằng sáng chế
a) Quy định phổ biến trong các FTA của EU
Bằng sáng chế được quy định từ Điều 27 đến 34 TRIPS. Các điều khoản FTA liên quan
đến bằng sáng chế không nhiều và không khác nhiều so với quy định tại các Điều 27-34


82
Được thông qua bởi Tổ chức Y tế Thế giới:
83
X. Seuba Hernandez, “Bảo vệ sức khỏe ”, trang 32
84
“Việt Nam ủng hộ công tác xây dựng chính sách sở hữu trí tuệ và chiến lược y tế công cộng Việt Nam đang nghiên cứu khả
năng thực hiện các thủ tục liên quan để phê chuẩn Nghị định thư về sửa đổi Hiệp định TRIPS liên quan đến Điều 31bis " (WTO,
Rà soát chính sách thương mại của Việt Nam…, Mục 29). Tình trạng phê chuẩn tại:

85
Điều 7.2 IPL quy định rằng "Việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan”
Điều 7.3: "Trong trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và các lợi ích khác của Nhà nước, xã hội quy
định tại Luật này, Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ
thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những điều kiện phù

hợp”
EU bày tỏ mối quan ngại về các quy định này trong WTO, Rà soát chính sách thương mại của Việt Nam…, trang 8-9. Đại diện
Việt Nam giải thích rằng cả 2 quy định phù hợp với TRIPS. Điều 7 (3) quy định rõ ràng rằng việc thực hiện quyền của Nhà nước
sẽ đi kèm "điều kiện thích hợp" và Điều 7 (3) cũng quy định rõ ràng rằng Nhà nước chỉ có quyền can dự trong các trường hợp
“quy định trong Luật này".
86
Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ không có quyền để ngăn cấm những người khác thực hiện các hoạt động sau: "lưu hành, nhập
khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được lưu hành hợp pháp trên thị trường, bao gồm cả thị trường nước ngoài, ngoại trừ
các sản phẩm đưa vào thị trường nước ngoài không phải do chủ thể quyền hoặc bên được cấp li-xăng".
Ngoài ra, Điều 21 Nghị định 103/2006 quy định: "sản phẩm lưu hành hợp pháp trên thị trường bao gồm các sản phẩm đã được
đưa vào thị trường nước ngoài bởi chủ thể quyền, bên được cấp li-xăng kể cả bên được cấp li-xăng theo quyết định cấp phép bắt
buộc hoặc người có quyền sử dụng trước đối với đối tượng sở hữu trí tuệ".
87
X. Seuba Hernandez, “Bảo vệ sức khỏe…”, trang 27-29.
22

TRIPS
88
. Tuy nhiên, các FTA đặt ra các nghĩa vụ TRIPS-cộng/TRIPS-bổ sung. Bên cạnh đó các
quy định về giống cây trồng - sẽ được phân tích trong phần dưới đây - bao gồm nghĩa vụ liên
quan đến việc tuân thủ một số hiệp định quốc tế và việc bảo hộ dữ liệu thử nghiệm, mở rộng thời
hạn bảo hộ bằng sáng chế đối với các sản phẩm dược phẩm và nông nghiệp.
Điều ước quốc tế
89
. Các FTA của EU đều bao gồm một danh sách các điều ước quốc tế
trong lĩnh vực bằng sáng chế mà các đối tác của EU phải tuân thủ, gia nhập hoặc nỗ lực gia
nhập. Các FTA này đặt ra một nghĩa vụ phổ biến là “tuân thủ” hoặc “gia nhập” Hiệp ước
Budapest
90
và PCT

91
. Tuy nhiên, nghĩa vụ liên quan đến Hiệp định Luật sáng chế lại khác nhau,
tùy thuộc vào FTA
92
.
Mở rộng thời hạn bằng sáng chế. Không có quy định chung về vấn đề này. TA EU-CP
và FTA EU-Hàn Quốc
93
quy định việc gia hạn thời hạn bảo hộ bằng sáng chế đến 5 năm để bù
đắp cho các bên được cấp bằng bảo hộ dược phẩm đối với bất kỳ sự chậm trễ hợp lý nào bởi cơ
quan quản lý dược phẩm trong việc kiểm tra hồ sơ đăng ký hoặc bởi cơ quan cấp bằng sáng chế
trong việc xử lý hồ sơ cấp bằng sáng chế. Tuy nhiên, trong khi các điều khoản trong FTA EU-
Hàn Quốc là bắt buộc thì trong TA EU-CP lại là tùy chọn đối với các Bên về việc áp dụng các
biện pháp này
94
. EPA EU-CARIFORUM và AA EU-CA không có nghĩa vụ gia hạn thời hạn
bằng sáng chế.
Bảo hộ dữ liệu thử nghiệm. Một lần nữa, các FTA của EU không có quy định chung về
việc bảo hộ các dữ liệu liên quan đến an toàn và hiệu quả được cung cấp cho các cơ quan quốc
gia để phê duyệt việc tiếp thị các sản phẩm hóa chất dược, hóa nông nghiệp.
TA EU-CP và FTA EU-Hàn Quốc
95
quy định khoảng thời gian độc quyền là 5 năm cho
các sản phẩm dược phẩm và 10 năm cho các sản phẩm hoá nông nghiệp dành cho người nộp đơn
phê duyệt quyền tiếp thị đầu tiên. Tuy nhiên, 2 FTA này có một số khác biệt nhất định. Hai trong
số những khác biệt này là: a) TA EU-CP quy định rằng, trong trường hợp không có quy định cụ
thể, việc bảo hộ độc quyền đối với dữ liệu dữ liệu ở Peru nhằm ngăn chặn việc tiết lộ và các
hành vi trái với thông lệ thương mại trung thực, phù hợp với Điều 39.2 TRIPS; b) trong FTA
EU-Hàn Quốc, ngoại lệ duy nhất đối với quyền độc quyền là việc sử dụng bởi một người có thể
chứng minh "sự nhất trí rõ ràng của chủ thể quyền tiếp thị", còn trong EU- CP TA, các bên được

tùy ý đưa vào các trường hợp ngoại lệ vì lý do lợi ích công cộng, các tình huống khẩn cấp quốc
gia hoặc trường hợp cực kỳ khẩn cấp.
AA EU-CA và EPA EU-CARIFORUM không có các quy định tương tự. Các nghĩa vụ
của các đối tác của EU về quyền độc quyền trong các FTA này là bảo hộ dữ liệu thử nghiệm theo


88
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các nội dung về bằng sáng chế là phần khó đàm phán nhất (D. Gervais, Hiệp định TRIPS - Lịch sử
soạn thảo và phân tích, London, Sweet và Maxwell, 1998, trang 147).
89
Điều 230 TA EU-CP, Điều 147 EPA EU-CARIFORUM, Điều 258 AA EU-CA, Điều 10.33 FTA EU-Hàn Quốc
90
TA EU-CP bao gồm một nghĩa vụ "tuân thủ" Hiệp ước Budapest về Công nhận quốc tế về lưu trữ vi sinh vật (nhưng chỉ các
Điều 2-9), cũng như AA EU-CA. Trong EPA EU-CARIFORUM, nghĩa vụ "tuân thủ" chỉ áp dụng đối với EU. Cam kết của các
nước CARIFORUM là "tham gia" Hiệp ước này. Hàn Quốc là một bên của Hiệp ước này, do đó việc không quy định trong FTA
EU-Hàn Quốc không có ảnh hưởng gì.
91
Trong EPA EU-CARIFORUM, EU phải tuân thủ và các nước CARIFORUM phải tham gia Hiệp ước. Các FTA khác không đề
cập đến nghĩa vụ này vì tất cả các đối tác của EU đều là một bên tham gia Hiệp ước.
92
liên quan đến Hiệp định Luật Sáng chế, EU có nghĩa vụ “tuân thủ” theo EPA EU-CARIFORUM, và "thực hiện mọi nỗ lực hợp
lý để tuân thủ" trong TA EU-CP, AA EU-CA và FTA EU-Hàn Quốc (trong FTA này chỉ có nghĩa vụ liên quan đến các Điều 1
đến 16). Các đối tác của EU có nghĩa vụ “thực hiện tất cả các nỗ lực hợp lý để tham gia" trừ Hàn Quốc phải "thực hiện tất cả các
nỗ lực hợp lý để tuân thủ” và các nước CARIFORUM "nỗ lực để gia nhập" Hiệp ước. Cần lưu ý rằng nghĩa vụ này sau ở mức
thấp hơn so với nghĩa vụ của các đối tác khác của EU.
93
Điều 230.3 và 4 TA EU-CP, Điều 10.35 FTA EU-Hàn Quốc.
94
FTA EU-Hàn Quốc quy định rằng các bên có trách nhiệm gia hạn các quyền tới 5 năm khi có yêu cầu của chủ thể quyền. TA
EU-CP ràng buộc các bên phải “nỗ lực tối đa để xử lý các hồ sơ một cách nhanh chóng nhằm tránh sự chậm trễ một cách

không hợp lý" và quy định rằng các bên "có thể triển khai một cơ chế để bù đắp cho chủ sở hữu bằng sáng chế ".
95
Điều 231 TA EU-CP, Điều 10.36 và Điều 10.37 FTA EU-Hàn Quốc.

×