Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Phân tích bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.64 KB, 9 trang )

PHÂN TÍCH BÀI THƠ “NGẮM TRĂNG” CỦA HỒ CHÍ MINH
Trăng vốn là người bạn tâm tình, là nguồn cảm hứng dạt dào, bất tận của thi sĩ
muôn đời. Trong thơ đông tây kim cổ đã có biết bao bài thơ hay viết về trăng, để
lại ấn tượng không phai trong trái tim người đọc. Một trong những tác giả viết
nhiều về trăng là Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời cách mạng gian truân và vẻ vang
của Bác, Bác luôn coi trăng là tri âm, tri kỉ.
Bài thơ Ngắm trăng (Vọng nguyệt) ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt là
chốn lao tù tăm tối của chế độ Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc, vào khoảng
những năm bốn mươi hai, bốn mươi ba của thế kỉ XX. Người tù thi sĩ tay bị xích,
chân bị cùm, thân thể đọa đày nơi ngục lạnh mà tâm hổn vẫn lâng lâng, thanh thản,
say mê thưởng thức vẻ đẹp của đêm trăng sáng:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thù lương tiêu nại nhược hà ?
(Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;)
Câu thơ đầu tả thực cảnh lao tù khắc nghiệt: không rượu cũng không hoa.
Trong tù làm gì có rượu và hoa là những thứ vốn để tạo thi hứng cho tâm hồn thi sĩ?
Xưa nay, uống rượu ngắm trăng, uống rượu thưởng hoa là chuyện thường tình.
Trong những đêm trăng đẹp, thi nhân thường đem rượu ra uống để thưởng hoa,
thưởng trăng. Có đầy đủ rượu và hoa thì cuộc vui mới thật thú vị, mĩ mãn. Nói
chung, người ta chỉ ngắm trăng khi thảnh thơi, tâm hồn thư thái. Nhưng ở đây, thi
sĩ ngắm trăng trong hoàn cảnh đặc biệt là chốn lao tù mà bản thân bị đày đọa cực
khổ, phải sống cuộc sống “khác loài người”, không phù hợp với thú thưởng nguyệt
thanh cao. Làm gì có rượu và hoa để thưởng trăng ? Chẳng có nhà tù nào lại “nhân
đạo” đến mức mỗi kì trăng sáng lại mang rượu và hoa đến cho tù nhân ngắm trăng.
Ý thơ chỉ có thể hiểu rằng, trước cảnh đêm trăng quá đẹp, thi sĩ bỗng khao khát
được thưởng trăng một cách trọn vẹn.
Mặc dù giữa chốn lao tù, cái không rượu chồng lên cái không hoa…, hiện thực
xám ngắt và lạnh lẽo phủ định tất cả, nhưng trong trái tim yêu đời thiết tha của Bác,
cảm hứng vẫn dạt dào, nồng đượm khiến Người phải thốt lên: Cảnh đẹp đêm nay
khó hững hờ. Câu thơ thể hiện niềm xao xuyến, rạo rực của Bác trước đêm trăng


đẹp. vầng trăng tròn đầy, ngời sáng kia như thúc giục, mời gọi thi nhân hãy ra giữa
chốn tự do mà chiêm ngưỡng, mà bầu bạn với trăng. Ngặt nỗi hoàn cảnh giam cầm
trói buộc cho nên việc thưởng trăng của người tù – thi sĩ chỉ thu gọn trong một cử
chĩ âm thầm, lặng lẽ:
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.)
Bác say mê ngắm trăng qua cửa sổ. Bốn bức tường xà lim chật hẹp không
ngăn nổi cảm xúc mênh mông. Bác thả hồn theo ánh trăng và gửi gắm vào đó khát
vọng tự do cháy bỏng. Dường như thi sĩ muốn nhắn gửi đến trăng lời thì thầm tâm
sự: Trăng ơi, trăng có hiểu lòng ta yêu trăng đến độ nào?.
Sự thổ lộ, giãi bày chân thành tự trong sâu thẳm hồn người đã được trăng cảm
động và chia sẻ. Vầng trăng lung linh bỗng chốc biến thành bạn tri âm, tri kỉ:
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Vầng trăng đã vượt qua song sắt để ngắm nhà thơ (khán thi gia) trong tù. Vậy
là cả người và trăng đều chủ động tìm đến nhau. Nghệ thuật nhân hóa cho thấy thi
sĩ tù nhân và vầng trăng tự do đã trở nên gắn bó thân thiết tự bao giờ.
Cả bài thơ không có một âm thanh nào dù là nhỏ. Không gian tĩnh lặng tuyệt
đối tôn lên cái sâu thẳm của hồn người và hồn tạo vật. Người ngắm trăng, trăng
ngắm người trong lặng lẽ, không nói mà nói bao điều.
Hai câu thơ còn cho thấy sức mạnh tinh thần kì diệu của người tù thi sĩ ấy.
Trong này là nhà lao đen tối, là hiện thực tàn bạo, còn ngoài kia là vầng trăng thơ
mộng, là thế giới của tự do, của vẻ đẹp lãng mạn làm say đắm lòng người. Giữa
hai đối cực đó là song sắt nhà tù, nhưng song sắt nhà tù cũng bất lực trước khát
vọng và rung cảm tinh tế của hồn thơ.
Hai câu thơ chữ Hán trong nguyên tác thể hiện đầy đủ hơn mối giao hòa đặc
biệt giữa người tù thi sĩ với vầng trăng. Lối đối rất chỉnh đã làm nổi bật tình cảm
mãnh liệt của cả người và trăng. Giữa nhân và nguyệt dẫu có song sắt nhà tù chắn
giữa nhưng con người đã để tâm hồn bay bổng vượt ra ngoài không gian chật hẹp,

tù hãm để ngắm trăng sáng (Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt), tức là để
bầu bạn. với vầng trăng đang tự do tỏa mộng giữa trời. Trăng dường như cũng hiểu
lòng người và nhiệt thành đền đáp lại: Trăng nhòm khe của ngắm nhà thơ (Nguyệt
tòng song khích khán thi gia).
Bài thơ Ngắm trăng vừa thể hiện tình cảm yêu mến thiên nhiên tha thiết của
thi sĩ Hồ Chí Minh, vừa cho thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ
cách mạng vĩ đại. Đằng sau những câu thơ đậm đà phong vị cổ điển ấy là một tinh
thần thép, biểu hiện ở khát vọng tự do, ở phong thái ung dung, vượt hẳn lên sự đè
nén, áp bức nặng nề tàn bạo chốn lao tù.
Qua bài thơ, người đọc cảm thấy người tù cách mạng dường như bất chấp cả
song sắt can ngăn, không chút bận tâm về những cùm xích, đói rét, muỗi rệp, ghẻ
lở,… của chế độ nhà tù khủng khiếp để tâm hồn bay bổng tìm đến với vầng trăng
thân thiết.
Ánh sáng ngời ngời của vầng trăng đã đẩy lùi bóng tối ngột ngạt, u ám của nhà
tù. Giữa Bác và trăng – nhà thơ tự do và thiên nhiên vĩnh cửu – có một mối giao
hòa thiêng liêng, khó tả. Cũng như bao lần khác, trong hoàn cảnh gian nan, Bác
vẫn hướng cái nhìn vào vầng trăng, như hướng tới Cái Đẹp của cuộc đời.
Bài thơ Ngắm trăng là một dẫn chứng sinh động chứng minh cho hai câu thơ
mà Hồ Chí Minh viết ngoài bìa tập Nhật ký trong tù: Thân thể ở trong lao, Tình
thần ở ngoài lao. Giữa bao bài thơ trăng của Bác, bài Ngắm trăng có vẻ đẹp giản dị
và khác lạ. Bốn câu, hai mươi tám chữ, ngắn gọn mà hàm chứa ý nghĩa tuyệt vời
sâu sắc về tâm hồn, đạo đức, phẩm giá và phong cách của một Con Người chân
chính: Hồ Chí Minh.
Bài mẫu 2:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao.
Đó là tinh thần của người tù Hồ Chí Minh. Dẫu bị giam cầm xiềng xích, thân
thể bị đoạ đày nhưng không ai có thể giam hãm được tinh thần của Người. Không
những thế, trong nhà ngục, Hồ Chí Minh vẫn để cho tâm hồn thi sĩ của mình bay
bổng, vượt ra ngoài nhà lao đến với thiên nhiên, với người bạn trăng tri kỷ. Mở

Nhật kí trong tù mấy ai không cảm thấy thích thú và xúc động bồi hồi khi đọc đến
bài thơ Ngắm trăng.
Bài thơ được mở đầu bằng những lời miêu tả rất chân thành hiện thực cuộc
sống và tâm trạng con người.
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Mỗi câu thơ nêu lên một tình huống. Câu thứ nhất: nhà tù – không rượu –
không hoa. Đó là sự thiếu thốn vật chất. Điệp từ không cất lên hai lần làm tăng
thêm ý thơ. Sự thật là, sống trong tù, người tù thiếu nhiều thứ, kể cả những nhu
cầu tối thiểu như cơm ăn, áo mặc, nước uống, giường nằm, chăn đắp. Trong nhiều
bài thơ khác, Bác đã nói về điều đó, ở câu thơ này không rượu, không hoa là lời
giãi bày tâm sự về hoàn cảnh trớ trêu của mình trước vẻ đẹp mời gọi của đêm
trăng. Tâm sự ấy thanh cao quá, vượt trên cái hiện thực nhà tù, trên cả những thiếu
thốn vật chất bình thường, đời thường. Câu thơ thứ hai: Cảnh đẹp đêm nay khó
hững hờ nói rõ thêm tâm sự của Bác. Ta nhận thấy dường như người tù ấy đã thực
sự quên ngục tù, quên cái hiện thực tăm tối để hướng tới ánh sáng, thưởng thức
cảnh đẹp, đón chào trăng sáng. Chỉ hai câu thơ mở đầu, ta được thấy hồn thơ của
Bác chân thành biết bao, mở rộng biết bao. Đêm nay, trong sự cô đơn trống vắng ở
nhà lao, Bác lại được người bạn trăng tìm đến.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
Bác đã chào đón người bạn trăng như vậy đấy – không rượu, không hoa chỉ
có… đôi mắt nhìn nhau và tấm lòng hướng tới. Song kì diệu hơn nữa là cái tư thế
ngắm trăng, cái hoàn cảnh gặp gỡ của đôi tri âm, tri kỉ. Đọc ở nguyên bản chữ Hán,
ta càng thấy rõ đặc điểm của cuộc gặp gỡ này, cũng đã hiểu sâu nghệ thuật cấu trúc
câu thơ tả thực, rất thực của tác giả.
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia
Nhân (người) 1 minh nguyệt (trăng sáng) rồi nguyệt (trăng) – thi gia (nhà thơ)
đứng ở hai đầu câu thơ, cách ngăn bởi song tiền, song khích (song sắt). Câu trên:

người vượt qua song sắt để ngắm trăng sáng, thưởng thức và chia sẻ với trăng vẻ
đẹp của đất trời, sự phóng khoáng của tự do. Câu dưới: Trăng xuyên song sắt nhà
tù để ngắm nhìn, đáp lại, cũng để chia sẽ, an ủi người. Phép tu từ nhân hóa khiến
trăng trở nên gần gũi với con người, có tâm hồn, thực sự thành bạn bè, tri kỉ, tri âm
với Người. Vậy là, người chăm chú ngắm trăng vì yêu trăng. Nhưng trăng cũng rất
yêu và thương Người nên đã mê mải ngắm Người. Cả hai đều thanh thản, ung
dung vượt qua song sắt, chiến thắng ngục tù đến với nhau bằng sức mạnh của tình
yêu – yêu ánh sáng, cái đẹp và tự do. Và kì lạ thay, dưới đôi mắt trong của minh
nguyệt không phải người tù hoặc một người bình thường nào khác mà là một thi
gia (nhà thơ). Sự thay đổi cách dùng từ người ở câu trên thành nhà thơ ở câu dưới
cũng là câu kết, lời kết của bài thơ đâu phải ngẫu nhiên. Đó là sự hóa thân kì diệu,
là giây phút tỏa sáng của tâm hồn nhà thơ.
Trước ánh trăng sáng, Hồ Chí Minh đã cảm nhận được tất cả vẻ đẹp, vẻ thanh
cao của trăng như những nhà thơ xưa (Nguyễn Trãi, Lí Bạch…) đồng thời còn
thấy thêm vẻ đẹp, sức sống của con người. Mặc dầu con người đang sống giữa
gông xiềng. Bài thơ mở ra là hình ảnh nhà tù với biết bao thiếu thốn, giữa bài thơ
là trăng sáng – đến cuối bài là hình ảnh con người trong thân phận bị giam cầm
giữa song sắt đã thành nhà thơ đang say sưa mơ mộng… Hình ảnh, âm điệu, ngôn
từ cứ sáng dần, đẹp lên, chan chứa một niềm vui, niềm lạc quan. Thơ Bác Hồ
giống Đường thi ở cái dáng vẻ bên ngoài, nhưng rất khác ở cốt cách, tâm hồn, ý
chí bên trong. Đó là tâm hồn thi sĩ trong con người chiến sĩ luôn hòa quyện vào
nhau.
Bài thơ Ngắm trăng là bài thơ đặc sắc trong tập Nhật kí trong tù của Bác. Chỉ
bốn câu tứ tuyệt mà Bác đã thể hiện cả một ý chí, một tinh thần lạc quan, một tình
yêu thiên nhiên sâu đậm, một sức sống và một khát vọng tự do. Nói khác đi, đó
chính là một khúc hát tự do của người tù mang phong cách chiến sĩ. Bài thơ để lại
một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. 
Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, bài nào cũng thấm đượm tình cảm con
người, tình yêu tự do, tình yêu thiên nhiên tha thiết của một người chiến sĩ đồng
thời là một người nghệ sĩ. Vì thế mỗi bài thơ đều trở thành một bài học triết lý về

nhân sinh, tinh thần làm chủ trong mọi hoàn cảnh của người chiến sĩ cách mạng.
Thơ Bác thường nói về trăng như Cảnh khuya, Rằm tháng giêng. Nhưng đó là
ngắm trăng ờ rừng chiến khu Việt Bắc. Ngắm trăng như bài Vọng nguyệt mới là
dịp ngắm trăng đặc biệt. Bác Hồ ngắm trăng trong cuộc sống khác mọi người,
cuộc sống lao tù.
Mở đầu bài thơ là một thực trạng:
Trong tù không rượu cũng không hoa.
Nhưng đối lập với cảnh trong lao tù, ở bên ngoài là một đêm trăng đẹp (lương
tiêu). Thế là một câu hỏi như một bài toán được đặt ra một cách rất tự nhiên: Đối
thử lương tiêu nại nhược hà?, nghĩa là trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Ngắm trăng thường phải có rượu và hoa. Đó là những thứ vốn để tạo thi hứng cho
tâm hồn thi sĩ. Xưa nay, uống rượu ngắm trăng, thưởng thức hoa là chuyện thường
tình. Nhưng ở đây trong lao tù này làm sao có rượu có hoa để thưởng thức ánh
trăng. Câu hỏi tự nhiên ấy cho thấy lòng yêu thiên nhiên say đắm và khát khao
được thưởng thức cái đẹp của Bác. Câu thơ thứ hai dịch là Cảnh đẹp đêm nay, khó
hững hờ đã bỏ mất câu hỏi nên làm mất đi cảm giác băn khoăn của nhân vật trữ
tình. Đọc lại câu thơ Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ, ta thấy là một câu hỏi băn
khoăn với người đọc, nhưng đối với Bác là một câu hỏi tu từ để nhấn mạnh cách
giải quyết tối ưu của mình. Ánh trăng thanh khiết, vời vợi kia như thúc giục, như
mời gọi thi nhân hãy ra ngoài chốn tự do mà giao hòa, chia sẻ. Thế là mặc thiếu
thốn vật chất, mặc cho bốn bức tường giam chật hẹp, mặc cho song sắt của cửa sổ
nhà tù, tất cả không ngăn được cảm xúc mênh mông của Bác. Bác thả hồn theo
ánh trăng và gửi gắm vào đó khát vọng tự do khôn nguôi của mình. Câu thơ như
một lời thì thầm tâm sự.
Sự thể lộ giãi bày chân thành tự do trong tâm hồn sâu thẳm của Người được
trăng cảm động và sẻ chia: Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ. Thì ra, ánh trăng
không phải là vô tình mà thấu hiểu được hoàn cảnh ngắm trăng của Bác, tạo điều
kiện để cùng Bác giao hòa. Từ nhòm thể hiện sự chủ động của ánh trăng tìm đến
Bác. Vậy là cả người và trăng đều chủ động tìm đến giao hòa cùng nhau, ngắm
nhau say đắm. Trong hoàn cảnh khác thường nên cách ngắm trăng trong tù cũng

khác thường. Người tù lúc này muốn ngắm trăng phải hướng ra ngoài cửa sổ, còn
trăng muôn ngắm nhà thơ phải theo vào qua khe cửa. Vậy là người và trăng đều có
hai sự vận động. Người hướng ra ngoài cửa sổ ngắm trăng, còn trăng vận động
theo khe cửa sổ và ngắm nhà thơ. Hai sự vận động có thể nói đều là cuộc vượt
ngục về tinh thần và khi vượt ngục thì trăng và người đều được tự do để đến với
nhau. Điều băn khoăn đến đây đã được Bác giải đáp một cách thỏa đáng. Bài thơ
không những thể hiện tình yêu thiên nhiên của một tâm hồn nghệ sĩ hết mức nhạy
cảm mà còn thể hiện một triết lý nhân sinh, một hành động đúng qui luật để được
hưởng tự do trong mọi hoàn cảnh của Bác.
Trong hai câu thơ, Bác vừa sử dụng nghệ thuật đăng đối tài tình vừa sử dụng
nghệ thuật nhân hóa đúng lúc làm cho trăng và người trở nên gần gùi, thân thiết,
trở thành tri âm, tri kỷ và cùng hành động như nhau, cùng vượt qua song sắt của
nhà tù đế đến với nhau. Ở đây trăng và người đều là sự hóa thân của Bác, sự hóa
thân của một tâm hồn vừa là nghệ sĩ vừa là chiến sĩ yêu tự do, chủ động tìm đến
cái đẹp mà không nhà ngục nào ngăn cản được.
Bài thơ thật tự nhiên, giản dị mà thật triết lý. Cả bài thơ không hề nói đến một
chữ tự do nào nhưng lại toát lên một tâm hồn rất tự do, luôn làm chủ được hoàn
cảnh của Bác. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn tự do, một nhân cách lớn của người
nghệ sĩ và người chiến sĩ vĩ đại Hồ Chí Minh.
Bài mẫu 3
Nhà văn Hoài Thanh có nói: “Thơ Bác đầy trăng”. Thật vậy, Bác đã viết nhiều
bài thơ trăng. Trong số đó, bài “Ngắm trăng” là bài thơ tuyệt tác, mang phong vị
Đường thi, được nhiều người ưa thích. Nguyên tác bằng chữ Hán, đây là bản dịch
bài thơ:
NGẮM TRĂNG
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Bài thơ rút trong “Nhật ký trong tù”; tập nhật ký bằng thơ được viết trong một

hoàn cảnh đoạ đầy đau khổ, từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943 khi Bác Hồ bị bọn
Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng
trong nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết. Đọc bài
thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện.
Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch
cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cúng không hoa” thế mà Bác vẫn
thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động trước vầng tăng xuất hiện trước cửa
ngục đêm nay. Một niềm vui chợt đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi.
Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn chương. Đêm nay
trong tù, Bác thiếu hản rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp
hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn,
vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng mà chân tay lại
bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng trăng?
“Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.
Sự tự ý thức về cảnh ngộ đã tạo cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý
nghia sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng trăng thường tình. Qua song sắt
nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng,
với một tâm thế “vượt ngục” đích thực? Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm
được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ”…
Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn
thêm thư thái. Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây không thể nào ngăn cách được
người tù và vầng trăng! Máu và bạo lực không thể nào dìm được chân lý, vì người
tù là một thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần”
ở ngoài lao”
Câu thứ tư nói về vầng trăng. Trăng có nét mặt, có ánh mắt và tâm tư. Trăng
được nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỷ từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm
tối thăm Bác. Trăng ái ngại nhìn Bác, cảm động không nói nên lời, Trăng và Bác
tri ngộ “đối diện đàm tâm”, cảm thông nhau qua ánh mắt. Hai câu 3 và 4 được cấu

trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hoà giữa người và trăng, giữa ngôn từ, hình
ảnh và ý thơ:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Ta thấy: “Nhân, Nguyệt” rồi lại “Nguyệt, Thi gia” ở hai đầu câu thơ và cái
song sắt nhà tù chắn ở giữa. Trăng và người tù tâm sự với nhau qua cái song sắt
nhà tù đáng sợ ấy. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người xuất hiện
một sự hóa thân kỳ diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó
biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư thế ấy chính là phong thái ung dung,
tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do. “Ngắm trăng” là một bài thơ trữ tình đặc sắc.
Bài thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Trong
gian khổ tù đầy, tâm hồn Bác vẫn có những giây phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng,
thưởng trăng.
Bác không chỉ ngắm trăng trong tù. Bác còn có biết bao vần thơ đặc sắc nói về
trăng và niềm vui ngắm trăng: Ngắm trăng trung thu, ngắm trăng ngàn Việt Bắc, đi
thuyền ngắm trăng,… Túi thơ của Bác đầy trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ…”,
“… Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền…”, “Sao đưa thuyền chạy, thuyền
chờ trăng theo…” Trăng tròn, trăg sáng… xuất hiện trong thơ Bác vì Bác là một
nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước
quê hương. Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc một số bài thơ trăng đẹp.
Đọc bài thơ tứ tuyệt “Ngắm trăng” này, ta được thưởng một thi phẩm mang vẻ
đẹp cổ kính, hoa lệ. Bác đã kế thừa thơ ca dân tộc, những bài ca dao ói về trăng
làng quê thôn dã, trăng thanh nơi Côn Sơn của Nguyễn Trãi, trăng thề nguyền,
trăng chia ly, trăng đoàn tụ, trăng Truyện Kiều. “Song thưa để mặc bóng trăng
vào”… của Tam Nguyên Yên Đổ, v.v….
Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa,
nay – “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Nguyễn Trãi). Ngắm trăng, thưởng
trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do.
Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương
xứ sở. Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí

Minh.

×