Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.84 KB, 53 trang )

Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của không chỉ Nhà nước mà
cũng của các doanh nghiệp tham gia kinh doanh trong nền kinh tế. Làm thế nào
để đầu tư có hiệu quả và đem lại lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp và tăng
trưởng kinh tế? Đây là vấn đề đã, đang và sẽ còn làm đau đầu lãnh đạo các doanh
nghiệp cũng như các cơ quan quản lý.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là khi Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO, vấn đề
đầu tư càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn đối với tất cả những ai đang và sẽ
tham gia vào vòng quay khốc liệt của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Hiểu rõ
tầm quan trọng ấy, đã có rất nhiều chuyên gia đặt và trả lời câu hỏi: làm thế nào
để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả? nhằm tạo ra những bước đột phá mới cho
nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tiễn đó kiểm nghiệm và cho thấy, không phải giải
pháp nào đưa ra đều có tác dụng đối với sự phát triển, thêm vào đó, cùng với
những bước tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế trong khu vực và trên thế
giới, các giải pháp hợp lý trong giai đoạn trước đó dần trở nên không còn phù hợp
với những giai đoạn sau đó, do vậy việc nghiên cứu đề đưa ra những giải pháp
mới phù hợp với thị trường hiện nay là một vấn đề vô cùng cấp thiết.
Như chúng ta đó biết, xu hướng đầu tư hiện nay ở đất nước ta cũng như trên
thế giới chính là đầu tư chiều sâu kết hợp với đầu tư mở rộng sản xuất. Tuy vậy,
không phải khi nào hai hình thức này cũng được kết hợp một cách có hiệu quả
trong các doanh nghiệp và không phải chủ doanh nghiệp nào cũng có quan điểm
đúng đắn về mối quan hệ của hai hình thức đầu tư này. Vậy thực trạng hai hình
thức đầu tư này ở Việt Nam hiện nay ra sao? Làm thế nào để khắc phục được
những mặt còn hạn chế trong thực trạng đó? Đây là vấn đề không chỉ tác động
trực tiếp đến các doanh nghiệp mà còn tác động đến toàn bộ nền kinh tế của
chúng ta. Đó chính là lý do mà chúng tôi, những sinh viên của chuyên ngành đầu
tư đã chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu”làm
đề tài nghiên cứu trong đề án môn học của mình.
Kết cấu đề án này gồm ba phần chính:


Đề án kinh tế đầu tư. 1
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Phần I: Lý luận chung về đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu.
Phần II: Thực trạng đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu và mối quan hệ
giữa đầu tư chiều rộng với đầu tư chiều sâu.
Phần III: Một số giải pháp nhằm kết hợp hài hoà giữa đầu tư chiều sâu
và đầu tư chiều rộng.
Chúng em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Từ Quang Phương đã giúp đỡ em
hoàn thành đề án này.

Đề án kinh tế đầu tư. 2
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG
VÀ ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU.
I. Những vấn đề cơ bản về đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo
chiều sâu trong doanh nghiệp.
1. Khái niệm và phân loại đầu tư
a. Khái niệm đầu tư, đầu tư phát triển:
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương
lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ để đạt được kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là
tiền, TNTN, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm
các tài sản tài chính, tài sản vật chất và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để là việc
với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng những nguồn
lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt kết quả đó.
b. Phân loại hoạt động đầu tư
Theo bản chất của đối tượng đầu tư: Đầu tư cho các đối tượng vật chất, Đầu
tư cho các đối tượng tài chính, đầu tư cho các đối tượng phi vật chất.

Theo cơ cấu tái sản xuất: Đầu tư chiều rộng, Đầu tư chiều sâu.
Theo phân cấp quản lý: Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo
nghị định 12/CP tháng 4/2001 phân thành 3 nhóm A, B, C tùy theo tính chất và
quy mô của dự án, trong đó nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B
và C do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ,
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định.
Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư: Đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh, Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, Đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng.
Đề án kinh tế đầu tư. 3
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư cơ bản, đầu tư vận
hành.
Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất
xã hội: Đầu tư lĩnh vực lưu thông dịch vụ, đầu tư sản xuất.
Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi vốn đã bỏ ra của
các kết quả đầu tư: Đầu tư ngắn hạn, đầu tư dài hạn.
Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp.
Theo nguồn vốn: Vốn huy động trong nước, Vốn huy động từ nước ngoài.
Theo vùng lãnh thổ: cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng
tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh
tế - xã hội của từng địa phương.
c. Đặc điểm chung của hoạt động đầu tư phát triển:
•Hoạt động ĐTPT mang đầy đủ những đặc điểm của hoạt động đầu tư, và nó
có những đặc điểm riêng biệt khác
•Hoạt động ĐTPT đòi hỏi một số vốn lớn và nằm khê đọng trong suốt qúa
trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của ĐTPT.
•Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của
nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm, tháng với nhiều biến
động xảy ra

•Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở
vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm
tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực
của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế…
•Các thành quả của hoạt động ĐTPT có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có
khi hàng trăm , hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công
trình kiến trúc nổi tiếng thế giới ( Kim Tự Tháp cổ Ai Cập, nhà thờ La
Đề án kinh tế đầu tư. 4
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Mã ở Rôm, Vạn lý trường thành ở Trung Quốc…). Điều này nói lên giá
trị lớn của các thành quả ĐTPT.
•Các thành quả của các hoạt động ĐTPT sẽ là các công trình xây dựng sẽ
hoạt động ở nay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về
địa lý, địa hình tại đó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện đầu tư
cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư
•Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng
nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của
không gian.
•Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao
đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này được thể hiện
trong việc soạn thảo các dự án đầu tư (lập dự án đầu tư) có nghĩa là phải
thực hiện đầu tư theo dự án được soạn thảo với chất lượng tốt nhất
2. Hoạt động đầu tư theo chiều rộng và đầu tư chiều sâu
a. Đầu tư theo chiều rộng.
Đầu tư theo chiều rộng là hình thức đầu tư trên cơ sở cải tạo và mở rộng cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện có, xây dựng mới nhưng với kỹ thuật công nghệ cơ bản
như cũ.
Nội dung đầu tư theo chiều rộng bao gồm các hoạt động mua sắm máy móc
thiết bị theo dây chuyền đã có từ trước, đầu tư xây dựng mới nhà cửa, cấu trúc hạ
tầng theo thiết kế được phê chuẩn đầu tiên. Các nhà cửa, cấu trúc hạ tầng này là

các tài sản cố định trước đây chưa có trong bảng cân đối TSCĐ của ngành, của
doanh nghiệp.
Đầu tư chiều rộng có đặc điểm là: Trên cơ sở hiện đại, đầu tư mở rộng sản
xuất nhưng cơ bản công nghệ không thay đổi. Tốc độ tăng của lao động thường
lớn hơn hoặc bằng tốc độ tăng của vốn. Chi phí nguyên vật liệu, chi phí lao động
thường là tăng tương ứng nhưng năng suất lao động có thể không tăng. Công nghệ
Đề án kinh tế đầu tư. 5
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
thừơng là đầu tư vào những công nghệ sử dụng nhiều lao động, do đó năng suất
lao động không cao. Đầu tư vào lao động và phương pháp quản lý ở mức độ vừa
phải, không được quan tâm nhiều.
b. Đầu tư theo chiều sâu.
Đầu tư chiều sâu là hình thức đầu tư trên cơ sở nâng cấp đồng bộ hóa, hiện
đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, đầu tư mới nhưng với công nghệ và kỹ
thuật hiện đại hơn mức trung bình tiên tiến của ngành, vùng.
Sự cần thiết khách quan phải có đầu tư theo chiều sâu:
• Một chiến lược quan trọng trong quá trình CNH-HĐH đất nước là chú
trọng phát triển các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, nhưng trong quá
trình phát triển có nhiều vấn đề tồn tại: thị trường hạn hẹp, không ổn định,
vốn ít, kỹ thuật công nghệ lạc hậu. Ngược lại do ít vốn nên không có khả
năng đổi mới kỹ thuật công nghệ, do đó sản phẩm không cạnh tranh đựơc
trên thị trường, không có thị trường. Bởi vậy cần thiết phải đầu tư chiều
sâu, phát triển năng lực sản xuất nhằm nâng cao năng suất, hạ giá thành
sản phẩm để sản phẩm của doanh nghiệp có thể chiến thắng được trong
cạnh tranh.
• Đường lối phát triển kinh tế nước ta là tiến hành CNH-HĐH với phương
châm lấy khoa học công nghệ làm nền tảng, lấy hiệu quả KT-XH làm tiêu
chuẩn cơ bản để xác định phương hướng phát triển. Do đó cần phải phát
triển đầu tư chiều sâu, coi đó là động lực trực tiếp thúc đẩy tiến trình
CNH-HĐH.

• ĐTCS nhằm khai thác tối đa khả năng hiện có của các doanh nghiệp, rút
ngắn khoảng cách tiến tới kỹ thuật sản xuất tiên tiến, công nghệ hiện đại,
đạt hiệu quả KT-XH cao nhất, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý của nền
sản xuất hiện đại phù hợp yêu cầu về trình độ tăng trưởng kinh tế trong
những năm tiếp theo.
Đề án kinh tế đầu tư. 6
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Nội dung đầu tư chiều sâu bao gồm: cải tạo, nâng cấp, đồng bộ hóa, hiện đại
hóa dây chuyền công nghệ hiện có thay thế dây chuyền công nghệ cũ; đầu tư phát
triển nguồn nhân lực; đầu tư vào khâu thiết yếu nhất trong dây chuyền công nghệ;
đầu tư để tổ chức lạ bộ máy quản lý, phương pháp quản lý của doanh nghiệp.
Một số yêu cầu cơ bản đối với quá trình đầu tư chiều sâu:
• Lấy hiệu quả của kinh doanh làm động lực trực tiếp và lấy hiệu quả KT-
XH làm tiêu chuẩn cơ bản để định hướng phát triển, lựa chọn dự án đầu
tư và phướng hướng công nghệ đảm bảo chống thất thoát và lãng phí về
vốn đầu tư và thu hồi nhanh trên cơ sở tốc độ hao mòn vô hình và hữu
hình của máy móc thiết bị.
• Khai thác tối đa năng lực hiện có của kỹ thuật công nghệ đặc biệt là kết
hợp giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, đồng thời tập
trung vào khâu quyết định đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm
• Không gây ra ô nhiễm môi trường: chất thải, khí độc…
Đầu tư chiều sâu có đặc điểm là: nó gắn liền với hoạt động đổi mới kỹ thuật
công nghệ nhưng phải đồng nhất. Trong đầu tư chiều sâu, tốc độ tăng vốn lớn hơn
tốc độ tăng của lao động. Đầu tư chiều sâu thừơng dẫn đến giảm chi phí sản xuất,
tăng năng suất lao động và nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn.
Như vậy qua sự phân tích này, chúng ta có thể rút ra rằng: tiêu chí cơ bản để
phân loại hoạt động đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu chính là mối quan hệ
giữa tốc độ tăng vốn với tốc độ tăng lao động, trình độ thiết bị công nghệ đưa vào
đầu tư. Đầu tư chiều sâu được hiểu trên hai khía cạnh:
- Đầu tư chiều sâu là hoạt động đầu tư tập trung vào khâu khai thác công

trình để đồng bộ hóa hoặc hiện đại hóa dây chuyền công nghệ
- Đầu tư chiều sâu được hiểu theo ngắn hạn giữa hiện đại hóa sản xuất với
nâng cao năng lực sản xuất. Nội dung chủ yếu của hoạt động đầu tư chiều sâu là
đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ sử dụng máy moc thiết bị công nghệ mới.
Tuy nhiên ta không thể đồng nhất 2 khái niệm đó mà chỉ có thể hiểu đầu tư chiều
Đề án kinh tế đầu tư. 7
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
sâu và đổi mới công nghệ có quan hệ mật thiết, hữu cơ, và luôn luôn đi liền với
nhau. Đầu tư chiều sâu là nhân tố quyết định đổi mới công nghệ, tạo điều kiện và
khả năng cho đổi mới công nghệ. Đổi mới công nghệ là nôi dung, là phương thức
tiến hành hoạt động đầu tư chiều sâu có hiệu quả.
c. Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu
trong doanh nghiệp.
• Đầu tư chiều rộng là nền cơ sở, là bước đi đầu tiên để đầu tư chiều sâu
Trước hết, có thể khẳng định rằng đầu tư theo chiều rộng là nền tảng, cơ sở
để doanh nghiệp đầu tư chiều sâu có hiệu quả.
Đối với hầu hết các doanh nghiệp khi bước đầu thành lập đều phải tiến hành
đầu tư theo chiều rộng để tạo nền tảng cơ bản cho doanh nghiệp đi vào hoạt động.
Đó chính là đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng nhà xưởng, mua sắm máy móc
thiết bị, thuê công nhân... Rồi chính trên nền tảng ban đầu đó, doanh nghiệp sẽ
tiến hành đầu tư theo chiều sâu như hiện đại hóa, đổi mới công nghệ, áp dụng
khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cũng như quản
lý của người lao động... Như vậy, đầu tư theo chiều rộng đóng vai trò rất lớn đối
với hoạt động đầu tư theo chiều sâu của doanh nghiệp sau này.
Nếu xét cụ thể đối với một doanh nghiệp trẻ, mới thành lập thì đầu tư theo
chiều rộng chiếm chủ yếu bởi doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cơ bản để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, không
phải vì vậy mà sản phẩm của doanh nghiệp trẻ kém tính cạnh tranh hơn, bởi họ có
cơ hội áp dụng những công nghệ tiên tiến nhất, xây dựng được cơ sở ban đầu
hoàn thiện đồng bộ hơn. Chính vì vậy, lợi thế này sẽ tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp trẻ sau này tiến hành đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả bởi họ đã có một
nền tảng khá hiện đại.
Đối với một doanh nghiệp đã có vị thế trên thị trường thì việc kết hợp giữa
đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu
quả cao cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tiến hành đầu tư
Đề án kinh tế đầu tư. 8
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
theo chiều rộng để duy trì năng lực kinh doanh, giữ được uy tín và thị phần của
mình. Như vậy, có nghĩa là doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư thay thế máy móc, thiết
bị đã quá cũ, tu sửa, cải tạo nhà xưởng... Hay doanh nghiệp mở rộng hoạt động
sản xuất để đáp ứng nhu cầu của thị trường như xây dựng thêm nhà máy mới, mua
thêm dây truyền sản xuất... Mặt khác, trước tình hình cạnh tranh ngày càng gay
gắt buộc doanh nghiệp phải lưu ý đầu tư chiều sâu để tăng tính cạnh tranh cho sản
phẩm của mình, như đổi mới công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý, hay nâng cao
trình độ tay nghề cho công nhân... Để từ đó tăng năng suất lao động, hạ giá thành
sản phẩm. Tóm lại, doanh nghiệp phải kết hợp một cách khoa học và khéo léo đầu
tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu mới đem lại lơi ích lâu dài và cào nhất
cho doanh nhiệp.
• Đầu tư chiều sâu tiếp tục tạo ra những tiền đề để đầu tư chiều rộng ở
những phương diện mới
Đầu tư theo chiều sâu là động lực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển sản xuất,
tiếp tục tiến hành đầu tư theo chiều rộng.
Khi doanh nghiệp thực hiện đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả sẽ nâng cao
chất lượng sản phẩm với giá thành ngày càng rẻ hơn, tăng tính cạnh tranh trên thị
trường, đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp và từ đó doanh nghiệp nâng cao
được tỷ lệ tích lũy tạo ra nguồn lực mới để doanh nghiệp có thể mở rộng cơ sở
sản xuất, tăng khối lượng sản phẩm phục vụ khách hàng, và từ đó cũng giải quyết
thêm công ăn việc làm cho người lao động – một vấn đề mà nếu chỉ đầu tư theo
chiều rộng thì không thể đạt được.
Mặt khác, đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi để

doanh nghiệp có thể đầu tư nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm mới hoặc các
lĩnh vực kinh doanh có tiềm năng. Đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả sẽ tạo đà cho
doạnh nghiệp có thể chuyển từ đơn sản phẩm thành đa sản phẩm, hay từ đơn lĩnh
vực thành đa lĩnh vực, qua đó doanh nghiệp lại tiếp tục đầu tư chiều rộng ở những
phương diện mới. Và từ đó, doanh nghiệp có thể khẳng định được vị thế của mình
trên thị trường, duy trì tốc độ tăng trưởng, đồng thời không ngừng phát triển cả về
Đề án kinh tế đầu tư. 9
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
chiều sâu lẫn chiều rộng. Nhu cầu của thị trường là rất đa dạng, biến động, yêu
cầu ngày càng cao về mọi mặt nên đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn linh hoạt trong
vấn đề phối kết hợp đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu.
• Đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng không tách rời nhau, đan xen và
bổ sung lẫn nhau trong quá trình thực hiện chiến lược đầu tư phát triển
của doanh nghiệp và đầu tư chiều sâu là chiến lược đầu tư lâu dài của
doanh nghiệp
- Đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ
trợ và kiềm chế nhau. Không phải lúc nào đầu tư theo chiều rộng cũng có tác
dụng là động lực thúc đẩy đầu tư theo chiều sâu. Đầu tư theo chiều rộng không
hợp lý, tràn lan đôi khi lại hạn chế hiệu quả của hoạt động đầu tư theo chiều sâu
của doanh nghiệp.
Thứ nhất, khi cơ sở vật chất do đầu tư chiều rộng tạo ra không phù hợp và
đồng bộ như nhà xưởng xây dựng không đúng quy cách, hay dây chuyền máy
móc nhập lúc đầu quá lạc hậu hay quá tiên tiến, sự chênh lệch về trình độ công
nghệ quá lớn giữa các bộ phận sản xuất... sẽ dẫn đến tình trạng làm cho đầu tư
theo chiều sâu không phát huy được hiệu quả, gây lãng phí, thất thoát. Doanh
nghiệp không thể phát triển lên được nếu đứng trên một nền móng không vững
vàng hay không phù hợp với mình.
Thứ hai, tiềm lực của mỗi doanh nghiệp là có hạn, do đó, đầu tư theo chiều
rộng một cách tràn lan, không đồng bộ, không có trọng tâm, trọng điểm sẽ làm
hạn chế vốn và nguồn lực để doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu. Bởi một trong

những đặc điểm của đầu tư theo chiều rộng đó là vốn lớn, thời gian khê đọng vốn
dài nên một khi doanh nghiệp phân tán nguồn lực của mình, mở rộng nhà xưởng,
thêm công nhân, dây chuyền sản xuất, tăng khối lượng sản phẩm càng nhiều càng
tốt... thì không có đủ điều kiện để đầu tư theo chiều sâu. Như vậy, khi đó doanh
nghiệp sẽ bị giảm tính cạnh tranh trên thị trường do không nâng cao chất lượng
của sản phẩm, năng suất lao động thấp hơn, giá thành cao.
Đề án kinh tế đầu tư. 10
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Doanh nghiệp luôn phải cân nhắc cẩn thận khi đầu tư để có hiệu quả kinh
doanh cao nhất sao cho đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu hỗ trợ lẫn
nhau, phát huy ưu điểm và hạn chế nhược điểm của mỗi loại hình đầu tư.
- Ngược lại, đầu tư chiều sâu không hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp không
có đủ điều kiện để tiếp tục đầu tư chiều rộng, mở rộng sản xuất.
Khi đầu tư theo chiều sâu không đạt được hiệu quả, sản phẩm sản xuất ra
không đáp ứng được nhu cầu của thị trường: giá thành quá cao, sản phẩm quá
hiện đại khó sử dụng, hoặc sản phẩm đã trở nên lỗi thời với nhu cầu xã hội ngày
càng phát triển hiện nay... sẽ gây lãng phí về vốn đầu tư của doanh nghiệp mà
không mang lại hiệu quả kinh tế nào. Do vậy, doanh nghiệp sẽ rất khó cạnh tranh
với các doanh nghiệp khác trên thị trường.
Đầu tư theo chiều sâu không có hiệu quả khiến doanh nghiệp không thu được
lợi nhuận cao, thậm chí thất thu nên tỷ lệ tích lũy của doanh nghiệp là rất thấp.
Hâu quả là doanh nghiệp vừa bị mất tính cạnh tranh trên thương trường vừa bị
thiệt hại về nguồn lực vì thế doanh nghiệp sẽ rất khó khăn để có thể mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình.
Tóm lại, đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu có mối quan hệ vô cùng mật
thiết. Hoạt động đầu tư này góp phần tăng hiệu quả của hoạt động đầu tư kia và
ngược lại. Do đó, để thực hiện đầu tư có hiệu quả nhất thiết các doanh nghiệp cần
xem xét đầy đủ, chú trọng một cách đúng mức, nghiên cứu kỹ lưỡng để phối hợp
một cách hợp lý hai hoạt động đầu tư này trong hoạt động của mình, tạo nên sức
cạnh tranh, chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế thị trường hiện nay.

II. Các tiêu chí để đánh giá và phân tích hiệu quả của đầu tư theo
chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trong doanh nghiệp.
1. Hệ thống các chỉ tiêu đánh gía hiệu quả.
Đối với các doanh nghiệp (chủ đầu tư thì hoạt động đầu tư có thể có các mục
tiêu khác nhau tuỳ theo quan điểm của chủ đầu tư nhưng nhìn chung thì có hai
nhóm mục tiêu chính. Nhóm mục tiêu kinh tế với lợi nhuận là mục tiêu bao trùm
Đề án kinh tế đầu tư. 11
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
nhất, tổng quát nhất. Nhóm mục tiêu xã hội: gồm có tăng thu nhập quốc dân, tạo
việc làm và làm các lợi ích công cộng khác…Những nhóm chỉ tiêu này lại được
thể hiện dưới hai cách thức khác nhau, đó là định lượng và định tính.
Để có thể lựa chọn một dự án đầu tư có hiệu quả nhất cần phải lựa chọn
giữa các dự án đầu tư thông qua một hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả phản ánh khả
năng, mức độ sinh lời của dự án, mức độ đáp ứng những mục tiêu KT-XH đã
được đặt ra.
 Nhóm các chỉ tiêu định lượng.
 Nhóm các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
• Chỉ tiêu NPV (giá trị hiện tại ròng)
Chỉ tiêu này cho ta biết quy mô số tiền sinh lời của dự án đầu tư sau khi đã
hoàn trả đủ vốn. Tiền lời nói ở đây cũng bao gồm có khấu hao và lãi suất ròng
hiệu quả hàng năm, tức là thu hồi ròng hàng năm.

=
+

+−=
n
i
i
ii

r
CB
KNPV
0
)1(
)(
Trong đó: NPV là tổng lãi cầu dự án quy về thời điểm hiện tại
B
i
: Lợi ích của dự án tại năm i
C
i
: Chi phí của dự án tại năm i
R : Lãi suất huy động vốn.
K
i
: Đầu tư tại năm i
NPV > 0 Dự án có lãi
NPV = 0 Dự án hoà vốn
NPV < 0 Dự án thua lỗ
Như vậy NPV càng lớn thì càng có lợi. Chỉ tiêu NPV là chỉ tiêu rất quan
trọng, nó phản ánh hiệu quả về phương diện tài chính. Mặc dù vậy, chỉ tiêu NPV
Đề án kinh tế đầu tư. 12
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
vẫn phụ thuộc vào lãi suất, lãi suất càng lớn thì NPV càng nhỏ và ngược lại. Nói
cách khác, nó không cho ta biết được tỉ lệ sinh lời mà bản thân dự án có thể tạo ra.
• Chỉ tiêu suất thu hồi nội bộ IRR
Suất thu hồi nội bộ là suất chiết khấu mà ứng với nó tổng giá trị thu hồi ròng
vừa bằng tổng hiện giá vốn đầu tư.
21

112
1
)(
NPVNPV
NPVii
iIRRr
+

+==
Trong đó: IRR: tỷ lệ lãi do dự án đem lại.
i
1
: lãi suất chiết khấu tự chọn lần1 (thường lấy = lãi suất vay
vốn), rồi tính ra NPV1
i
2
: lãi suất chiết khấu tự chọn lần2 (thường lấy ở vùng lân cận),
rồi tính ra NPV2
IRR là một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư rất quan trọng. Nó cho ta biết
được lãi suất mà tự bản thân dự án mang lại cho chủ đầu tư. Đặc biệt trong trường
hợp đầu tư bằng vốn vay thì nó giúp chủ đầu tư so sánh IRR với lãi suất tiền vay
(i) để quyết định phương án đầu tư.
• Chỉ tiêu tỷ số lợi ích trên chi phí (B/C)
B/C cho ta biết tỷ lệ tương đối giữa giá trị hiện tại của thu nhập so với giá trị
hiện tại của chi phí (giá thành).


=

=


+
+
=
n
i
t
t
n
i
t
t
iC
iB
CB
0
1
)1(
)1(
/
Trong đó: Bt: Thu nhập tại năm t
Ct: Chi phí tại năm t
B/C = 1 thì dự án có thể chấp nhận được
Đề án kinh tế đầu tư. 13
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
• Chỉ tiêu phân tích điểm hoà vốn.
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu vừa đủ trang trải các khoản chi
phí bỏ ra, hay đó chính là giao điểm của đường biểu diễn doanh thu và đường
biểu diễn chi phí, tại đó chưa có lời và cũng chưa bị thua lỗ. Bởi vậy, chỉ tiêu này
cho biết khối lượng sản phẩm và mức doanh thu (do bán sản phẩm đó) thấp nhất

cần phải đạt được của dự án để đảm bảo bù đắp được chi phí bỏ ra.
Nếu sản lượng hoặc doanh thu của cả đời dự án lớn hơn sản lượng hoặc
doanh thu tại điểm hoà vốn thì dự án thì dự án càng có lãi, ngược lại nếu đạt thấp
hơn thì dự án bị lỗ. Do đó, chỉ tiêu điểm hoà vốn càng nhỏ càng tốt, mức độ an
toàn của dự án càng cao, thời hạn thu hồi vốn càng ngắn.
 Nhóm các chỉ tiêu đánh gía hiệu quả kinh tế xã hội.
Nhóm chỉ tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của doanh nghiệp mới chỉ được
xem xét ở tầm vi mô do đứng trên góc độ chủ đầu tư nhằm mục tiêu tối thiểu hoá
chi phí, tối đa hóa lợi nhuận. Ngoài ra nếu xem xét ở tầm vĩ mô đứng trên góc độ
toàn xã hội nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phúc lợi xã hội và bảo vệ môi
trường thì cần phải có một nhóm các chỉ tiêu đánh gía hiệu quả kinh tế xã hội của
dự án.
• Chỉ tiêu tỷ suất vốn đầu tư ICOR
ICOR là chỉ tiêu tổng hợp cho phép đánh giá hiệu quả đầu tư cuả một nền
kinh tế, được tính toán trên cơ sở so sánh đầu tư với mức tăng trưởng kinh tế hàng
năm.
Theo cách tính thông thường và đơn giản nhất
ICOR = Vốn đầu tư/mức tăng GDP do vốn tạo ra
= Vốn đầu tư/∆GDP
Hoặc ICOR= (tỷ lệ đầu tư/GDP)/nhịp tăng GDP
Đề án kinh tế đầu tư. 14
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Ở những nước kinh tế phát triển, người ta nhận thấy chỉ tiêu ICOR phụ thuộc
rất lớn vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành,các vùng lãnh thổ.
Ví dụ ICOR trong công nghiệp thường lớn hơn ICOR nông nghiệp, ICOR ở các
vùng đô thị thường thấp hơn ở các vùng sâu,vùng xa.
• Chỉ tiêu đóng góp cho ngân sách nhà nước (NSNN)
Tỷ lệ đóng góp = Mức đóng góp cho NSNN*100%/tổng số vốn đầu tư
• Chỉ tiêu việc làm và thu nhập của người lao động.
Chỉ tiêu này thể hiện ở hai khía cạnh:

Số chỗ làm việc do dự án tạo ra
Thu nhập của người lao động và thể hiện thu nhập thực tế vừa phản ánh
chất lượng lao động.
 Nhóm các chỉ tiêu định tính
Giảm bớt cường độ lao động ,thay đổi cơ cấu lao động trong doanh nghiệp
theo hướng tăng tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật, giảm tỷ lệ tay nghề lao
động thấp và không có chuyên môn nghiệp vụ.
Căn cứ vào các chỉ tiêu định lượng trên để xác định một số chỉ tiêu định tính
thể hiện hiệu quả đầu tư đổi mới công nghệ như sau:
Các tác động đến cơ cấu tổ chức cũng như tổ chức sản xuất của doanh
nghiệp theo tính gọn năng động và hiệu quả.
Khả năng cải thiện môi trường lao động theo hướng giảm dần các yếu tố và
khu vực độc hại.
Khả năng đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược, chương
trình phát triển KT-XH của đất nước, cũng như các ngành lĩnh vực mà doanh
nghiệp đang tham gia kinh doanh.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư
chiều sâu.
Đề án kinh tế đầu tư. 15
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Hiệu quả của đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố tác động qua
lại, đan xen lẫn nhau. Thực chất, hiệu quả của đầu tư là lợi nhuận do hoạt động
đầu tư mang lại. Hay nói một cách khác, các doanh nghiệp đầu tư khi dự kiến
rằng hoạt động đầu tư (xây dựng một nhà máy mới, mua một nhà máy mới, hay
thay thế một dây chuyền công nghệ ) sẽ tạo ra cho họ lợi nhuận, nghĩa là họ sẽ thu
về được một số tiền lớn hơn số tiền do họ bỏ ra đầu tư. Điều đó chứng tỏ rằng,
hiệu quả của hoạt động đầu tư phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản là thu nhập, chi phí
và môi trường đầu tư.
a.Thu nhập
Ở gốc độ vĩ mô (phạm vi toàn bộ nền kinh tế): khi số hàng bán ra tăng lên

hay “đầu ra” có xu hướng tăng lên làm tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và
tăng trưởng kinh tế, mặt khác theo nguyên tắc gia tốc thì những thay đổi về sản
lượng có thể biến thành những thay đổi lớn hơn về đầu tư và như vậy sẽ làm tăng
tỷ lệ đầu tư phát triển trên GDP tức hiệu quả của đầu tư tăng ( ICOR giảm)
Ở gốc độ vi mô: sản phẩm bán được nhiều khiến cho doanh thu bán hàng
tăng, khi đó chi phí cố định không thay đổi mang lại lợi nhuận (lãi ròng) trực tiếp
cho DN. Theo đó, hiệu quả của đầu tư tăng lên tương ứng, tăng vòng quay vốn,
rút ngắn thời gian hoàn vốn, tăng đáng kể các chỉ tiêu NPV, B/C… ngược lại, sau
đầu tư mà sản phẩm của DN bán ra không tăng lên hoặc tăng chậm, doanh thu bán
hàng không cao tức là đầu tư không hiệu quả.
b.Chi phí
Chi phí đầu tư sản xuất biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp chi ra để tiến hành đầu tư sản
xuất trong một chu kì kinh doanh nhất định.
Chi phí đầu tư sản xuất có nội dung rất phức tạp với nhiều phương pháp tính
khác nhau. Chi phí đầu tư sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với chỉ tiêu kinh tế –
kỹ thuật khác, ảnh hưởng đến các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư sản xuất:
Đề án kinh tế đầu tư. 16
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Lãi suất: trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư ngoài các nội dung về thị trường,
công nghệ, quy mô… thì nội dung quan trọng và có ý nghĩa quyết định thực hiện
và thực thi của dự án là khả năng có thể huy động được nguồn vốn đầu tư. Cung
về nguồn vốn đầu tư cho thấy nguồn vốn trong nước có vai trò quyết định, vốn
đầu tư nước ngoài là quan trọng, trong đó lãi suất là cầu nối giữa cầu về vốn đầu
tư với khả năng cung cấp vốn phát triển sản xuất. Có nghĩa là dù nhu cầu vốn đầu
tư lớn nhưng lãi suất quá cao thì khả năng cung cấp vốn đầu tư bị hạn chế, không
thoả mãn được nhu cầu về vốn đầu tư.
Thuế: một yếu tố chi phí quan trọng khác ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế đầu
tư đó là thuế. Trong những năm gần đây, thực hiện đổi mới nền kinh tế, chính
sách thuế của Nhà nước Việt nam thể hiện rõ quan điểm ưu tiên cho hoạt động

đầu tư, miễn giảm 50% thuế doanh thu từ 1-2 năm, thuế lợi tức doanh nghiệp từ
2-4 năm đối với những cơ sở mới thành lập và đi vào sản xuất. Đặc biệt là đối với
việc đầu tư nhằm đồng hoá dây chuyền công nghệ và hiện đại hoá máy móc thiết
bị. Thể hiện, giảm 100% thuế nhập khẩu đối với nhập khẩu máy móc thiết bị, dây
chuyền công nghệ trọn bộ (không tính thuế doanh thu đối với thiết bị trọn bộ đi
liền với công trình xây dựng căn bản …). Điều đó đã thực sự mang lại hiệu quả
cho các nhà đầu tư, đồng thời khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ, áp dụng
những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất kinh doanh.
c. Môi trường đầu tư
• Ổn định về chính trị xã hội: chế độ chính trị xã hội của một quốc gia ổn
định trong một thời gian dài sẽ tạo lòng tin cho các nhà đầu tư
• Chế độ chính sách quản lý đầu tư xây dựng cơ bản: nó có thể gây ra nhiều
thất thoát, lãng phí lớn khi đồng vốn đầu tư bỏ ra không tương xứng với
giá trị đầu tư làm cho đầu tư kém hiệu quả. Nó tác động trực tiếp đến chất
lượng công trình xây dựng cơ bản, làm giảm tuổi thọ của các dự án,
không đáp ứng đầy đủ chỉ tiêu hiệu quả đầu tư. Đồng thời cũng tác động
trực tiếp lên môi sinh, môi trường (có những dự án đầu tư mang lại hiệu
quả kinh tế nhưng làm tác hại lớn đến môi trường: chất thải, khí độc…)
Đề án kinh tế đầu tư. 17
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
• Chính sách đổi mới công nghệ: nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu
tư chiều sâu, nếu không có chính sách công nghệ quốc gia phù hợp thì sẽ
bị lệ thuộc về công nghệ, gây lãng phí vốn…
• Hệ thống thông tin: hệ thống thông tin giúp các nhà đầu tư nắm bắt được
nhu cầu của sản phẩm và các điều kiện tự nhiên KTCN, thiết bị … để có
quyết định đầu tư chính xác và hiệu quả.
Tóm lại hiệu quả đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố cùng tác động.
Muốn nâng cao hiệu quả đầu tư trước hết ta cần phải nhận thức đầy đủ và đúng
đắn về thực chất của các nhân tố tác động để có những biện pháp hữu hiệu nhằm
hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực, thúc đẩy những ảnh hưởng tích cực,

mang lại hiệu quả đầu tư tối ưu cho doanh nghiệp…
Đề án kinh tế đầu tư. 18
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU VÀ MỐI
QUAN HỆ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG VỚI ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU.
I. Thực trạng về hiệu quả đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều
sâu trong doanh nghiệp hiên nay.
1. Đầu tư chiều rộng.
a. Những thành tựu đạt được.
Nhờ mở rộng sản xuất, nhiều doanh nghiệp mới đạt được thành lập hoạt
động trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế giúp giải quyết việc làm, nâng cao thu
nhập, cải thiện đời sống của người lao động. Thị trường được mở rộng, phát triển,
sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều và đa dạng hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
ngày càng tăng của dân cư. Trong 3 năm từ 2001-2003, khu vực doanh nghiệp đã
thu hút thêm 1464 nghìn lao động, thu nhập cuả lao động khu vực doanh nghiệp
bình quân 1.25 triệu đ/tháng, cao hơn nhiều so với khu vực cá thể và hộ gia đình.
Ngay từ đầu năm 2006 các doanh nghiệp đã tăng vốn đầu tư và mở rộng sản
xuất tại nhiều dự án: Theo số liệu của Ban quản lý các khu công nghiệp và chế
xuất Hà Nội, năm 2006, Ban quản lý đã cấp 18 Giấy phép và Giấy chứng nhận
đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký 157,36 triệu USD và 94,06 tỷ VNÐ (=200%
KH, = 105% so với năm 2005); cấp 30 Giấy phép điều chỉnh với số vốn đầu tư
tăng thêm là 55,295 triệu USD (=78% KH, =36% so với năm 2005). Tổng vốn
đầu tư vào các khu công nghiệp (cả cấp mới và điều chỉnh) đạt 215,32 triệu USD
(=21% vốn đầu tư nước ngoài vào Hà Nội). Doanh thu của các doanh nghiệp
trong các khu công nghiệp đạt 1.699,02 triệu USD (tăng 42% so với năm 2005).
Nộp thuế đạt: 31,73 triệu USD (tăng 17% so với năm 2005). Bên cạnh đó phải kể
đến những tác động do thị trường xuất khẩu ổn định, vốn đầu tư lớn, công nghệ
sản xuất tiên tiến, chi phí sản xuất hợp lý, nguồn lực lao động trẻ, tiếp thu công
nghệ sản xuất nhanh trong một môi trường đầu tư thuận lợi, thủ tục hành chính

được cải cách đáp ứng nhanh các yêu cầu của doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và đạt hiệu quả cao. Các công ty đạt mức
Đề án kinh tế đầu tư. 19
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
doanh thu cao gồm: Canon Việt Nam (661 triệu USD tăng 58%), Tsukuba (tăng
44%), Denso (tăng 36 %), New Hope (tăng 21%), Toa VN (tăng 64%), Sản phẩm
thép VN (tăng 44%). Một số Cty đạt mức nộp thuế tăng cao gồm: Toto (tăng
34%), New Hope (tăng 60%), hệ thống mới (tăng 48%), Tiếp vận Thăng Long
(tăng 80%), Denso (tăng 46 %).
Nguyên nhân của việc gia tăng giá trị xuất nhập khẩu là do các công ty đã
hoạt động ổn định đặc biệt là công ty Canon Việt Nam phát triển giai đoạn II tăng
vốn đầu tư lên trên 171 triệu USD và đi vào sản xuất ổn định, tổng trị giá xuất
khẩu đạt trên 600 triệu USD kéo theo nhiều doanh nghiệp vệ tinh của Canon đi
vào hoạt động ổn định như: Kane Package, Chiyoda, Paker Processing... Bên cạnh
đó có các công ty có giá trị hàng xuất khẩu lớn trên 60 triệu USD (Sumitomo
Bakelite, Denso, Sumi-Hanel và Orion Hanel) và nhiều công ty khác có giá trị
xuất khẩu hàng hoá năm 2006 cao hơn so với năm 2005. Khu công nghiệp Thăng
Long đã lấp đầy giai đoạn II với hàng loạt các dự án mới đầu tư vào như tập đoàn
Panasonic và các công ty FCC, Iritani... Các công ty này đang trong giai đoạn xây
dựng và lắp đặt máy móc thiết bị hoàn chỉnh nhà máy để bắt đầu đi vào sản xuất,
bên cạnh đó nhiều công ty đã tiến hành tăng vốn, đầu tư mở rộng qui mô sản xuất
và không ngừng đa dạng hoá sản phẩm.
b. Những mặt còn hạn chế
Bên cạnh những thành tựu, đầu tư chiều rộng cũng có những nhược điểm rất
lớn, mà điển hình là sản phẩm nếu chỉ được đầu tư chiều rộng thì sẽ cho chất
lượng không cao, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường, khả năng thu hồi vốn
của các dự án đầu tư chiều rộng thấp, độ mạo hiểm cao. Khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường kém dẫn tới lợi nhuận kém.
Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, ngành dệt may Việt Nam hiện

nay đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển khá
mạnh. Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi
vốn nhanh, thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong
Đề án kinh tế đầu tư. 20
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
và ngoài nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy,
trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngành dệt may đang phải đối
mặt với nhiều thách thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc
xuất khẩu lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Pakixtan, Hàn Quốc.... Đặc
biệt, từ 1/1/2006, thuế xuất nhập khẩu hàng dệt may từ các nước Asean vào Việt
Nam sẽ giảm từ 40-50% như hiện nay xuống tối đa còn 5% nên hàng dệt may
Việt Nam phải cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập từ các nước trong khu vực.
Việt Nam hiện có hơn 1000 nhà máy dệt may, thu hút trên 50 vạn lao động, chiếm
đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng
năm tăng trên 10% nhưng quy mô còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo sợi
và dệt vải lạc hậu, không cung cấp được vải cho khâu may xuất khẩu. Những năm
qua, tuy đã nhập bổ sung, thay thế 1.500 máy dệt không thoi hiện đại để nâng cấp
mặt hàng dệt trên tổng số máy hiện có là 10.500 máy, thì cũng chỉ đáp ứng
khoảng 15% công suất dệt. Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi
mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây
chuyền may sơ mi, may quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt là... nhưng
cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao. Xuất khẩu hàng dệt
may tuy đạt kim ngạch cao, nhưng chủ yếu làm gia công, ngành dệt vẫn nhập
khẩu nhiều và nguyên liệu cho sản xuất của ngành dệt hầu như hoàn toàn nhập
khẩu từ nước ngoài...
2. Đầu tư chiều sâu
a) Ưu điểm
Đầu tiên phải kể đến là sản phẩm của đầu tư chiều sâu có chất lượng cao,
khả năng cạnh tranh lớn.
Để sản xuất được sản phẩm có chất lượng tung ra chiếm lĩnh trên thị trường,

tăng thị phần xuất khẩu, các doanh nghiệp đã phải lao tâm khổ tứ, vất vả trên từng
bước đường xây dung uy tín, chất lượng cho sản phẩm của mình trong môi trường
cạnh tranh. Hướng đến hội nhập, khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực
doanh nghiệp dân doanh đã chủ động mở rộng đầu tư sản xuất kể cả quy mô lẫn
Đề án kinh tế đầu tư. 21
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
chiều sâu. Bởi lẽ nếu không thay thế đồng bộ hệ thống máy móc cũ kĩ thì các sản
phẩm được đưa ra “trình làng” rất khó được khách hàng chấp nhận khi chất lượng
thấp mà giá thành lại cao.
Nhờ mạnh dạn đầu tư, hệ thống trang thiết bị máy móc đã dần dần đồng bộ
với yêu cầu của từng loại sản phẩm nên hiệu quả sản xuất cùng với uy tín chất
lượng sản phẩm đã được nâng lên. Theo từng giai đoạn, giá trị sản xuất công
nghiệp luôn vượt mức kế hoạch đã định. Tính chung 9 tháng đầu năm năm 2006,
giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 365 nghìn tỷ đồng,
tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, doanh nghiệp Nhà nước tăng
9,4%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 22%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
tăng 19,5% (Dầu mỏ khí đốt giảm 4%).
Giá trị sản xuất công nghiệp khai thác mỏ tăng thấp, chỉ tăng 3,4% so với
9 tháng năm 2005 do sản lượng dầu thô khai thác giảm 7,5%; công nghiệp
điện, khí đốt và nước tăng 12,2%; công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn có
mức tăng cao nhất với 18,6%.
Hầu hết các địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn đều đã đạt tốc
độ tăng giá trị sản xuất công nghiêp 9 tháng khá cao, đó là: Hà Nội tăng 18,3%;
Hải Phòng tăng 18%; Vĩnh Phúc tăng 17,6%; Hà Tây tăng 22,9%; Hải Dương
tăng 23,3%; Quảng Ninh tăng 17,5%; Bình Dương tăng 19,4%; Đồng Nai tăng
18,4%; Cần Thơ tăng 21,2%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 13,7%.
Kim ngạch xuất khẩu tháng 9-2006 đạt 3,3 tỷ USD, nâng tổng kim ngạch 9
tháng đầu năm 2006 lên 29,4 tỷ USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 12,29 tỷ USD, tăng 20,7%; khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 10,63 tỷ USD, tăng 32,6%.

Trong các mặt hàng xuất khẩu, trị giá dầu thô 9 tháng đạt 6,47 tỷ USD tương
đương 12,5 triệu tấn, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng trị giá xuất khẩu với
22%. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đứng thứ hai với 4,46 tỷ USD, chiếm
15,2% tổng trị giá xuất khẩu, tăng 27,8% so với cùng kỳ năm 2005 và vẫn giữ
được thị trường tương đối ổn định, đứng đầu là Mỹ, tiếp đến là EU, Nhật Bản…
Đề án kinh tế đầu tư. 22
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Xuất khẩu giày dép đạt 2,64 tỷ USD, tăng 21,4%, trong bối cảnh thị trường EU có
xu hướng chững lại do nhiều doanh nghiệp từ chối các hợp đồng xuất khẩu nhưng
thị trường Ôx-trây-lia đang có nhiều thuận lợi, đặc biệt trong 3 tháng gần đây,
xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang Ôx-trây-lia đạt bình quân 4 triệu
USD/tháng.
Một số mặt hàng khác có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD vẫn giữ mức
tăng trưởng tương đối cao: Điện tử, máy tính đạt 1,22 tỷ USD, tăng 19,1%; thuỷ
sản đạt 2,33 tỷ USD, tăng 19,2%; sản phẩm gỗ đạt 1,35 tỷ USD, tăng 23,8%,
trong đó thuỷ sản có khả năng cạnh tranh mạnh với các nước trong khu vực và
đang tiếp tục khai thác để mở rộng sang các thị trường Nhật Bản, EU, Mỹ, Hàn
Quốc …. Riêng gạo xuất khẩu chỉ đạt 4,1 triệu tấn, giảm 8,4% về lượng và 7,2%
về trị giá. Các nông sản khác như cà phê, cao su, hạt tiêu đều được lợi về giá nên
trị giá xuất khẩu tăng cao hơn so với mức tăng về lượng: Cà phê giảm 8,2% về
lượng, tăng 37,2% về trị giá; cao su tăng 32,5% về lượng và tăng 97,1% về trị giá;
hạt tiêu tăng 22,3% về lượng và tăng 35,4% về trị giá.
Tiếp theo là việc sử dụng vốn và nguồn lực có hiệu quả hơn, nâng cao năng
suất lao động. Độ mạo hiểm của các dự án đầu tư chiều sâu thấp, khả năng tự
động hoá cao.
Công ty cổ phần Khoáng sản Bình Định thành lập đến nay gần 3 năm. Trong
3 năm qua các chỉ tiêu cơ bản như mức đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, giá trị
tổng sản lượng, tổng doanh thu, mức nộp ngân sách, lợi nhuận, thu nhập của
người lao động… đều tăng cao so với trước.
Sau chuyển đổi, các chính sách khuyến khích ưu đãi đã tạo nên luồng sinh

khí mới ở doanh nghiệp này. Ý thức làm chủ của các cổ đông, nhất là các cổ dông
là người lao dộng của Công ty được nâng cao.Cứ sau mỗi kỳ đại hội thường niên,
các phương án sản xuất kinh doanh mới, các giải pháp nhằm phát huy năng lực
tiềm tàng của doanh nghiệp đã kích thích nâng cao năng suât, chất lượng và hiệu
quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Do tích luỹ được nhiều kinh nghiệm
trước đó, nên Ban lãnh đạo doanh nghiệp điều hành công ty khá tốt. Các phương
Đề án kinh tế đầu tư. 23
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
án sản xuất kinh doanh đều đảm bảo tính tối ưu, đều giảm chi phí giá thành sản
phẩm.
Ngay sau khi thực hiện cổ phần hoá, doanh nghiệp bỏ ra gần 2 tỷ đồng đầu
tư mới một cụm vít xoắn tuyển quặng, công suất 6000tấn/năm và hệ thống thiết bị
phụ trợ đặt tại mỏ (Cát Thành-Phù Cát). Sau khi đầu tư xây dựng trạm biến áp để
có thể nhận điện trực tiếp từ lưới điện Quốc gia, doanh nghiệp tự chế tạo và sản
xuất thêm 2 cụm thiết bị tuyển ướt và tyển tinh, nâng cao công suất ở toàn bộ quy
trình sản xuất. Tại Cát Thành, doanh nghiệp xây dựng thêm một nhà xưởng quy
mô, thực hiện cả hai khâu: tuyển ướt và tuyển tinh, cho 70 người làm việc tại đây.
Trước đây, khi chưa có nhà xưởng này, gần như toàn bộ số quặng cần tuyển tinh
phải chở từ mỏ về Quy Nhơn, số quặng này chỉ có hàm lượng quặng có ích dưới
60%. Nhờ vác hệ thống vít tuyển này, trong hơn 2 năm qua, lượng quặng chở về
Quy Nhơn đạt quặng có ích trên 70%. Chỉ riêng ở khâu này, chi phí sản xuất đã
giảm trên 10%. Tại Quy Nhơn, doanh nghiệp hoàn thành việc xây dựng thêm
600m
2
nhà xưởng, nâng tổng diện tích ở đây lên 2.200m
2
. Trong đó, doanh
nghiệp cho thay dần những thiết bị tuyển tinh cũ đồng thời gia tăng đầu tư các hệ
thống thiết bị phụ trợ, theo hướng giảm tối đa lao động thủ công. Mục tiêu nhắm
đến của công việc này là nâng cao năng suât lao động và chât lượng sản phẩm,

giảm tối đa giá thành sản phẩm.
b) Hạn chế
•Đầu tư chiều sâu còn chưa được thực hiện một cách có hiệu quả, chưa triệt
để tận dụng được vốn từ các nguồn vốn đầu tư
Trong khoảng 15 năm trở lại đây, các doanh nghiệp ngành Nhựa Việt Nam
có tốc độ phát triển nhanh, bình quân khoảng 20-25%/năm. Năm 2000, sản lượng
của các doanh nghiệp ngành Nhựa đạt 950.000 tấn, thì năm 2005 đã đạt 1.760.000
tấn. Thực tế cho thấy, những năm gần đây, một số DN Nhựa đã đầu tư máy móc
thiết bị công nghệ cao, thiết bị số hoá, nhưng so với các nước trong khu vực và
thế giới mới chỉ đạt ở mức trung bình, và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của các DN
chưa cao. Tính chung 10 năm, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu đạt 4,44 %, trên
Đề án kinh tế đầu tư. 24
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
vốn đạt 7,2%, so với khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (các chỉ số
tương ứng là 14,6% và 11,6 %) thấp hơn nhiều. Tuy nhiên, nếu so với mức bình
quân của cả nước (5,3% và 4,5%) thì tỷ suất trên doanh thu của ngành Nhựa thấp
hơn, nhưng tỷ suất lợi nhuận trên vốn cao hơn. Điều này cho thấy, các DN nhựa
vẫn có lợi thế thu hút vốn đầu tư. Các dự án đầu tư của các DN nhựa trong thời
gian vừa qua, chủ yếu là đầu tư chiều sâu, qui mô vốn đầu tư nhỏ, thời gian thực
hiện dự án ngắn, công tác nghiên cứu và lập dự án đầu tư sơ sài và thiếu khoa học,
dẫn đến việc thực hiện các dự án thường phải điều chỉnh, sửa đổi hoặc không thực
hiện được, gây lãng phí trong việc sử dụng vốn đầu tư; một số công trình hoàn
thành chưa được khai thác hết công suất, sản phẩm được tạo ra có sức cạnh tranh
chưa cao, do đầu tư không đúng, dẫn đến nguy cơ phá sản. Trong khi đó, các dự
án đầu tư mới và đầu tư mở rộng (chủ yếu là vốn đầu tư nước ngoài), vốn đầu tư
lớn, thời gian thực hiện dự án dài, chi phí cho nghiên cứu khả thi cao, đội ngũ cán
bộ làm công tác đầu tư yêu cầu phải có năng lực, trình độ tốt, do tính phức tạp của
dự án, nhưng do các thủ tục hành chính trong đầu tư thường rất rườm rà, dẫn đến
việc thực hiện các dự án thường phải kéo dài, gây ứ đọng, lãng phí trong việc sử
dụng vốn đầu tư, làm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp, công trình hoàn thành

chậm so với dự kiến, gây thiệt hại về kinh tế cũng như khả năng thâm nhập thị
trường hạn chế, nhiều trường hợp chủ đầu tư phải chuyển nhượng vốn đầu tư cho
cổ đông khác. Vì vậy, cần nâng cao chất lượng lập dự án đầu tư, thẩm định và phê
duyệt dự án đầu tư là cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho phát
triển Ngành.
•Tốc độ đổi mới công nghệ còn chậm, chưa áp dụng được tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào trong sản xuất và quản lý:
Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) và Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế
Trung ương vừa đưa ra kết quả khảo sát về tình hình sử dụng thiết bị - công nghệ
và tư vấn công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam. 100 doanh nghiệp ở Hà Nội
và Tp.HCM đã được khảo sát và thực trạng yếu kém trong lĩnh vực trên của
doanh nghiệp đã thể hiện rõ: Mức đầu tư cho đổi mới thiết bị - công nghệ của
Đề án kinh tế đầu tư. 25

×