Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN PHÂN TÍCH ÁN LỆ CHINACISG CHINESE LAW2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.29 KB, 12 trang )

TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
***
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh quốc tế
Tài chính quốc tế
PHÂN TÍCH ÁN LỆ CHINA-CISG
CHINESE LAW-2005

Họ và tên sinh viên: Nhóm 2
Lớp: Anh 2 – Anh 4
Khóa: 52
Người hướng dẫn khoa học: Trần Thanh Tâm
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ÁN LỆ 2
1.1. Khái niệm án lệ 2
1.2. Đặc điểm của án lệ 2
1.3. Ưu, nhược điểm của án lệ 3
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH ÁN LỆ 5
2.1. Tóm tắt vụ việc 5
2.2. Tranh luận các bên 6
2.3. Phán quyết 7
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC RÚT RA TỪ ÁN LỆ 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 10
1
LỜI MỞ ĐẦU
Được bắt nguồn từ Vương quốc Anh, qua quá trình phát triển thăng trầm của
lịch sử cùng với sự giao thoa, ảnh hưởng lẫn nhau của các hệ thống pháp luật, án lệ
đã trở thành nguồn của nhiều hệ thống phá luật, đặc biệt là hệ thống pháp luật Anh-


Mỹ (Common Law)-một trong những hệ thống pháp luật phát triển và phổ biến
rộng rãi nhất trên thế giới.
Trong nghiên cứu luật học, án lệ đóng một vai trò rất quan trọng, để khẳng
định tầm quan trọng của án lệ, một giáo sư người Pháp tên là H.Capitant đã viết:
"Muốn thật hiểu biết môn luật, không chỉ nghiên cứu về phương diện TĨNH nghĩa
là thuần lí thuyết mà phải quan sát những tương quan pháp lý giữa các cá nhân, xem
các tương quan ấy được cấu tạo cách nào, biến chuyển ra sao, phát sinh ra những vụ
tranh tụng gì, rồi được Tòa án xét xử như thế nào, tóm lại phải nghiên cứu xét môn
học cả về mặt ĐỘNG".
Nhằm để hiểu rõ hơn về án lệ, nhóm đã quyết định lấy án lệ làm đề tài tiểu
luận lần này với việc tập trung phân tích án lệ để thấy được cách giải quyết tranh
chấp, mâu thuẫn cũng như ưu, nhược điểm, bài học rút ra từ án lệ.
Nội dung chính của bài tiểu luận gồm 3 chương sau:
- Chương 1: Khái quát chung về án lệ.
- Chương 2: Phân tích án lệ
- Chương 3: Bài học rút ra từ án lệ
Do hạn chế về nguồn số liệu nên việc thu thập dữ liệu, đưa dẫn chứng còn gặp
trở ngại. Bên cạnh đó, thời gian và kiến thức của người viết còn có hạn cũng như vì
đây là đầu tiên viết tiểu luận nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được sự nhận xét, đóng góp từ giáo viên để bài tiểu luận được tốt hơn.
Nhóm xin chân thành cảm ơn thầy Trần Thanh Tâm, giảng viên trường Đại
học Ngoại thương cơ sở II Tp. Hồ Chí Minh đã hướng dẫn và gợi ý cho bài tiểu
luận của nhóm.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 29/12/2013
Huỳnh Bích Hạnh
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Trương Thị Phúc Nguyên
2
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ÁN LỆ

1.1. Khái niệm
Án lệ là một hình thức của pháp luật, theo đó nhà nước thừa nhận những bản
án, quyết định giải quyết vụ việc của tòa án, làm khuôn mẫu và cơ sở để đưa ra
phán quyết cho những vụ việc hoặc trường hợp có tình tiết hay vấn đề tương tự sau
đó. Án lệ còn là quá trình làm luật của tòa án trong việc công nhận và áp dụng các
nguyên tắc mới trong quá trình xét xử.
1.2. Đặc điểm
Án lệ do thẩm phán tạo ra và để giải quyết các vụ việc cụ thể. Tuy nhiên
không phải bản án của bất kì cấp tòa án nào cũng được coi là án lệ mà nó phải được
thông qua một số trình tự, thủ tục nhất định tùy theo quy định của mỗi quốc gia.
Án lệ có tính khuôn mẫu, điều này được thể hiện rõ khi bản án được công
nhận là án lệ thì nó sẽ được lấy làm khuôn mẫu cho các vụ việc có tính chất tương
tự và sẽ được sử dụng nhiều lần.
Án lệ có tính bắt buộc, nghĩa là nếu bản án được đem ra sử dụng cho vụ việc
có tính chất tương tự nhưng chỉ để tham khảo thì không được coi là án lệ mà bản án
đó phải là khuôn mẫu buộc các thẩm phán phải áp dụng đối với các vụ án tương tự
sau này.
1.3. Ưu, nhược điểm của án lệ
Ưu điểm
Án lệ thường phong phú và đa dạng hơn so với pháp luật thành văn do án lệ đề
cập đến những vụ việc đã xảy ra trong thực tế mà không phải là những giả thuyết có
tính lý luận về những tình huống có thể xảy ra trong tương lai.
Án lệ góp phần bổ sung cho những thiếu sót, lỗ hổng của pháp luật thành văn
và khắc phục được tình trạng thiếu pháp luật.
Án lệ góp phần giải thích và vận dụng pháp luật trong từng trường hợp cụ thể.
Với sự trợ giúp của án lệ, các vụ việc được giải quyết nhanh chóng hơn khi chưa có
pháp luật thành văn điều chỉnh.
Án lệ tạo sự thống nhất trong công tác xét xử giữa các cấp tòa án đồng thời
3
nâng cao trình độ của các thẩm phán, luật sư do đòi hỏi của việc xét xử và tranh

tụng nên họ phải tìm hiểu rất nhiều về án lệ.
Án lệ là biện pháp hữu hiệu để phòng chống tham nhũng trong ngành tư pháp.
Đối với các vụ án tương tự nhau hoặc giống nhau thì thẩm phán không thể ưu đãi
cho một bên được.
Nhược điểm
Tính nghiêm ngặt trong việc áp dụng án lệ đã trở thành rào cản đối với sự sáng
tạo của các Thẩm phán khi xét xử.
Nguy cơ của việc so sánh tùy tiện, không logic giữa vụ án lệ đang xét xử với
án lệ để tránh ap dụng án lệ cho vụ đang xét xử.
Khối lượng án lệ lớn và sự phức tạp của chúng là khó khắn lớn đối với các
thẩm phán và luật sư.
4
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH ÁN LỆ
2.1. Tóm tắt vụ việc
Nguyên đơn: Công ty Bao De Li
Bị đơn: Công ty xuất nhập khẩu Guangdong Trung Quốc
Ngày 16 tháng 10 năm 2000, công ty Bao De Li (bên mua) và công ty xuất
nhập khẩu Guangdong Trung Quốc (bên bán) đã ký hợp đồng mua bán gừng tươi
với các quy định:
- Tổng chi phí 16,579 USD
- Điểm đến: New York
- Thời gian vận chuyển: lượt thứ nhất vào cuối tháng 11 năm 2000, lượt thứ
hai trong vòng một tuần sau lượt thứ nhất
- Thanh toán: Bên mua đặt cọc 30% tổng chi phí sau khi ký hợp đồng và trả số
tiền còn lại trong 7 ngày sau khi hàng hóa được kiểm tra tại điểm đến.
- Tài liệu: Bên bán sẽ cung cấp: vận đơn đường biển hoặc chứng từ vận tải
khác , danh sách đóng gói và hóa đơn
- Chất lượng: đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, để miếng lớn, không
thối, không để miếng nhỏ hơn 100g hoặc nảy mầm.
Ngày 28 tháng 11 năm 2000, Thanh tra và Kiểm dịch xuất nhập cảnh của

Trung Quốc kết luận gừng đảm bảo yêu cầu. Khi đến New York qua hai lận vận
chuyển vào ngày 6 và ngày 13 tháng 12 năm 2000, kiểm tra gừng mềm thối 0-33%
và khô thối 15-90%, gừng bị nảy mầm, lên men và khô, có nếp nhăn. Ngày 17 tháng
1 năm 2001, kiểm tra lần 2 cho thấy hầu hết gừng không đạt yêu cầu và phải hủy bỏ
toàn bộ.
Ngày 5 tháng 8 năm 2003, tư vấn của bên mua gửi thư của luật sư đến bên
bán, cáo buộc bên bán vi phạm hợp đồng và phải chịu trách nhiệm. Ngoài ra, bên
mua đã đặt cọc 30% và bên bán đã đưa cho bên mua hai hóa đơn trong mỗi lần vận
chuyển mà không có con dấu của bên bán.
Ngày 16 tháng 11 năm 2000, sau khi ký hợp đồng, bên mua đã trả cho bên bán
tổng chi phí trong hợp đồng. Tuy nhiên, gừng không phù hợp với các tiêu chuẩn
nên bên mua phải trả lệ phí rác thải và các khoản phí khác, tổng cộng US $ 13,236
5
2.2. Tranh luận của hai bên:
- Yêu cầu bồi thường của bên mua:
1.Bên bán phải hoàn trả cho bên mua tổng chi phí trong hợp đồng và cộng thêm lãi
suất khoảng 2.400USD
2.Bên bán phải bồi thường cho bên mua chi phí xử lí rác và các chi phí khác là
13.226 USD, cộng thêm lãi suất 2.000 USD
3.Các [Người bán] phải nộp tổng lệ phí là 2.493,36 USD
- Tranh luận của bên bán:
1.Bên mua không cung cấp một phiên bản tiếng Anh của hợp đồng và bản dịch điều
10 trong hợp đồng. Đồng thời bên mua đơn phương thêm điều 10 mà không có sự
ký xác nhận của bên bán. Vì vậy bên bán yêu cầu Tòa án buộc tội bên mua về việc
giả mạo bằng chứng.
2.Bên mua chỉ đặt cọc 30% của tổng chi phí, nên bên bán yêu cầu bên mua phải trả
hết số tiền còn lại là 11.605,44 USD
3.Bên bán đã giao gừng đảm bảo đủ tiêu chuẩn theo kết luận của thanh tra và kiểm
dịch xuất khẩu Trung Quốc và được xác nhận bởi người mua.
4.Theo INCOTERMS 2000, rủi ro đã chuyển sang cho bên mua tại cảng bốc hàng,

do đó, bên bán không có trách nhiệm nữa.
5.Theo Điều 39 của Công ước Liên Hiệp Quốc về hợp đồng bán hàng hóa quốc tế,
thời gian nộp đơn khiếu nại là trong vòng hai năm sau khi nhận được hàng hóa.
Nhưng bên mua nhận hàng vào ngày 6 và ngày 13 tháng 12 năm 2000 nhưng đến
ngày 5 tháng 8 năm 2003 mới nộp đơn khiếu nại. Do đó bên mua không được bảo
vệ về mặt pháp lý nữa và mất quyền đòi bồi thường thiệt hại.
6.Tất cả các bằng chứng của bên mua đã ra khỏi Trung Quốc và không có công
chứng hoặc chứng thực của Đai sứ quán, do đó không được chấp nhận.
7.Bên mua không có chứng cứ chứng minh gừng có khuyết tật.
Lập luận của bên mua:
1.Bên mua đã trả đầy đủ tổng giá trị trong hợp đồng
2.Thời hiệu đã hết hạn cho bên bán nộp đơn khiếu nại
6
2.3. Phán quyết của Tòa án:
Vì hợp đồng không quy định tòa án tranh chấp nênm theo Điều 24 của Bộ luật
tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nếu một vụ kiện được nộp
dựa trên một tranh chấp theo hợp đồng , Toà án nhân dân nơi cư trú Bị cáo hoặc
hợp đồng được thực hiện, có thẩm quyền. Do đó Tòa án quyết định rằng luật pháp
của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nơi bị đơn cư trú và hợp đồng được thực
hiện sẽ áp dụng cho trường hợp này. Hơn nữa cả Mỹ và Trung Quốc là những nước
ký kết CISG (Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế)
nên sẽ được áp dụng Điều 2, Điều 3 của CISG trong trường hợp này theo Điều 142
khoản 2 của các nguyên tắc chung của Luật dân sự Trung Quốc.
Hợp đồng được ký kết bởi hai bên, không vi phạm pháp luật Trung Quốc và
các quy định hành chính nên hợp đồng có hiệu lực.
Không có bằng chứng cho thấy nguyên đơn đã thông báo cho bi đơn về chất
lượng hàng hóa trước khi thư của luật sư được gửi đi
Theo Điều 39 của CISG, nguyên đơn đã mất quyền khiếu nại về chất lượng
của hàng hóa vì không đưa ra thông báo cho bị đơn một cách kịp thời, điều này
được xem là nguyên đơn đã chấp nhận hàng hóa theo hợp đồng. Do đó Tòa án

không xác nhận yêu cầu bồi thường của nguyên đơn
Hai hóa đơn do bị đơn đưa cho nguyên đơn trước khi vận chuyển hàng hóa
không được bi đơn đóng dấu nên bằng chứng này không có hiệu lực là giấy chứng
nhận thanh toán được quy định trong Luật quốc gia của Trung Quốc, ngoài ra
nguyên đơn không nộp bất kỳ bằng chứng nào khác để chứng minh họ đã thực hiện
đầy đủ các khoản thanh toán. Do đó Tòa xác nhận các phản tố của bị đơn.
Hợp đồng quy định việc thanh toán phải được thực hiện trong thời hạn 7 ngày
kể từ ngày hàng hóa đến nơi và được kiểm tra (ngày 1 và ngày 17 tháng 1 năm
2001). Theo Điều 129 của Luật Hợp đồng của Trung Quốc, thời hiệu đối với tranh
chấp về hợp đồng bán hàng hóa quốc tế là bốn năm. Bị đơn đã nộp phản tố vào
ngày 8 Tháng 1 năm 2005, không vượt quá thời hiệu, do đó Tòa án không xác nhận
biện hộ này của nguyên đơn.
7
Theo Điều 39 của CISG , Điều 109 , Điều 129 , Điều 126 và Điều 159 của
Luật Hợp đồng của Trung Quốc, và Điều 24 của Bộ luật tố tụng dân sự của Trung
Quốc, Tòa án đã xử lý như sau:
1.Nguyên đơn phải nộp cho bị đơn 70% còn lại, tức là 11.605,44 USD trong thời
hạn mười ngày kể từ khi quyết định này được đưa ra
2.Những yêu cầu bồi thường của nguyên đơn bị bác bỏ.
Sau khi đưa ra bản án sơ thẩm đầu tiên này, không bên nào kháng cáo , vì vậy
bản án sơ thẩm đã có hiệu lực.

CHƯƠNG 3: BÀI HỌC RÚT RA TỪ ÁN LỆ
8
Đối với người mua
Khi hợp đồng có bất kì điều chỉnh hay bổ sung thì phải được thống nhất rõ
ràng, đầy đủ thủ tục pháp lý theo qui định của pháp luật.
Khi phát hiện hàng hóa bị hư hỏng, không phù hợp với yêu cầu về chất lượng
theo như hợp đồng đã kí, người mua phải đưa ra thông báo cho người bán trong thời
hạn theo qui định kể từ ngày hàng hóa đó đã thực sự được bàn giao cho người mua,

sau thời hạn này, người mua sẽ mất quyền lợi nếu như không có phản hồi và xem
như người mua đã chấp nhận hàng hóa theo hợp đồng. Trong trường hợp của án lệ
này, áp dụng theo qui định tại điều 39 của CISG, thời hạn là hai năm, nhưng thông
báo của người mua mà đến lúc người bán nhận được đã quá 2 năm, nên người mất
quyền đòì người bán hoàn trả giá hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại.
Hóa đơn giữa người bán và người mua phải có chứng thực, đóng dấu của các
bên và đầy đủ thủ tục pháp lí. Ở dây, người mua đã không có bằng chứng nào khác
để chứng minh họ đã thực hiện các khoản thanh toán ngoài hai hóa đơn không có
đóng dấu của người bán.
Nhìn chung với những hợp đồng mang tính chất quốc tế, người mua phải có sự
tìm hiểu rõ pháp luật để áp dụng một cách chính xác, đảm bảo quyền lợi cho mình.
Đối với người bán:
Để bảo vệ quyền lợi và tránh sự thiệt thòi cho mình, người bán nên tìm kiếm
và chuẩn bị những bằng chứng xác đáng về chất lượng hàng hóa của mình cũng như
tìm hiểu rõ các qui định của pháp luật để tránh không bị kiện oan. Chính việc áp
dụng theo qui định tại điều 129 Luật hợp đồng của Trung Quốc, người bán đã đòi
được khoản hợp đồng còn lại từ người mua.
Người bán nên thường xuyên kiểm tra chất lượng hàng hóa của mình, được
xác nhận bởi các tổ chức giám định chuyên môn, từ đó tránh các rắc rối từ các vụ
kiện tụng và nguy cơ giảm uy tín
TÀI LIỆU THAM KHÀO
9
Danh mục các website tham khảo

/> khi-mua-ban-nha-
2660967.html

CHƯƠNG 3
BÀI HỌC RÚT RA TỪ ÁN LỆ
Qua án lệ này, ta rút ra được những bài học cần thiết trong việc mua bán hàng

hóa cả trong và ngoài nước:
Đối với người mua
Khi hợp đồng có bất kì điều chỉnh hay bổ sung thì phải được thống nhất, xác
nhận rõ ràng, đầy đủ thủ tục pháp lý theo quy định của pháp luật.
Khi phát hiện hàng hóa bị hư hỏng, không đảm bảo yêu cầu về chất lượng theo
10
quy định của hợp đồng, người mua phải đưa ra thông báo cho người bán trong thời
hạn theo qui định kể từ ngày hàng hóa thực sự được bàn giao cho người mua, sau
thời hạn này, người mua sẽ mất quyền lợi nếu như không có phản hồi và xem như
đã chấp nhận hàng hóa theo hợp đồng.
Hóa đơn giữa người bán và người mua phải đảm bảo có sự ký kết, xác nhận
của nhau, tránh trường hợp phải chịu tổn thất vì không có bằng chứng xác thực
Nhìn chung với những hợp đồng mang tính chất quốc tế, người mua phải có sự
tìm hiểu rõ pháp luật cả trong vả ngoài nước để áp dụng một cách chính xác, đảm
bảo quyền lợi cho mình.
Đối với người bán:
Để bảo vệ quyền lợi và tránh sự thiệt thòi cho mình, người bán nên tìm kiếm
và chuẩn bị những bằng chứng xác đáng về chất lượng hàng hóa của mình cũng như
tìm hiểu rõ các qui định của pháp luật để tránh không bị kiện oan.
Người bán nên thường xuyên kiểm tra chất lượng hàng hóa của mình, được
xác nhận bởi các tổ chức giám định chuyên môn, từ đó tránh các rắc rối từ các vụ
kiện tụng và nguy cơ giảm uy tín.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

×