Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN Vận dụng kỹ thuật đặt câu hỏi để nâng cao hiệu quả giờ dạy đọc hiểu văn bản Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.29 KB, 31 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"VẬN DỤNG KỸ THUẬT ĐẶT CÂU HỎI ĐỂ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIỜ DẠY ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN "ĐÂY THÔN VĨ DẠ" CỦA
HÀN MẶC TỬ"
A.ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Trong thời đại khoa học công nghệ thông tin bùng nổ, đứng trước yêu cầu về một
nguồn nhân lực năng động, sáng tạo, có kiến thức và kỹ năng chuyên nghiệp…nền giáo
dục của đất nước đã chú trọng đến sự đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích
cực. Nhiều phương pháp và kỹ thuật dạy học mới được nghiên cứu vận dụng nhằm phát
huy vai trò chủ thể của học sinh trong đó có kỹ thuật đặt câu hỏi. Đặt câu hỏi trong dạy
học (đặc biệt những câu hỏi có vấn đề - tình huống học tập) có ý nghĩa quan trọng trong
việc tổ chức, hướng dẫn quá trình nhận thức giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức một cách
có hệ thống và tạo không khí học tập sôi nổi. Giáo viên qua câu hỏi có thể đánh giá được
năng lực của học sinh, có được thông tin phản hồi làm cơ sở cho sự điều chỉnh, bổ sung
một cách phù hợp, kịp thời những đơn vị kiến thức, kỹ năng trong giờ dạy.
Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy nói chung, giảng dạy môn Ngữ văn nói riêng vẫn
tồn tại tình trạng đầu tư cho việc xây dựng câu hỏi chưa thật sự thỏa đáng. Phần nhiều
câu hỏi sa vào chi tiết vụn vặt, đơn điệu, nhàm chán hoặc trong câu hỏi đã bao hàm ý trả
lời hoặc mang tính chiếu lệ (hỏi cho có hỏi, hỏi để thể hiện rằng có sử dụng phương pháp
đổi mới trong giờ dạy), thiếu những câu hỏi mang tính chất gợi mở, không có những tình
huống gay cấn buộc học sinh phải suy nghĩ, trăn trở vì thế giờ học trôi đi tẻ nhạt, học sinh
không hứng thú, học qua loa cho xong để rồi đến các kì thi, thực tế đáng buồn lại tái diễn:
các em tìm chép tài liệu, sai kiến thức cơ bản, suy diễn nội dung tác phẩm một cách thô
thiển, tách rời nội dung và nghệ thuật của tác phẩm…
Đứng trước yêu cầu của xã hội, trước thực trạng dạy học môn Ngữ văn, tôi luôn trăn
trở, suy nghĩ làm thế nào để vận dụng một cách có hiệu quả những phương pháp, kỹ thuật
dạy học tích cực để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Trong quá trình giảng dạy,
nhận thấy vai trò quan trọng và ưu thế của kỹ thuật đặt câu hỏi nên tôi đã đầu tư xây dựng
hệ thống câu hỏi cho các giờ dạy, đặc biệt chú ý xây dựng những câu hỏi có vấn đề nhằm
khơi dậy hứng thú học văn của học sinh, kích thích sự phát triển trí tuệ và giúp các em


lưu giữ kiến thức lâu hơn.
2. Chọn “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử - SGK Ngữ văn 11(chương trình chuẩn và
nâng cao) - để trình bày sự vận dụng kỹ thuật đặt câu hỏi vì đây là thi phẩm tiêu biểu cho
hồn thơ Hàn Mặc Tử, chứa nhiều mâu thuẫn nghệ thuật đặc thù, không những thế “Đây
thôn Vĩ Dạ” còn được đánh giá là văn bản hay song học sinh khó tiếp cận.Với những đặc
điểm trên, có thể nói tác phẩm mở ra mảnh đất phì nhiêu để giáo viên xây dựng những
câu hỏi chứa đựng tình huống học tập. Tìm đến mảnh đất này để thử nghiệm kỹ thuật dạy
học mới tôi đã thu được kết quả nhất định. Xin được trình bày kinh nghiệm Vận dụng kỹ
thuật đặt câu hỏi để nâng cao hiệu quả giờ dạy đọc - hiểu văn bản“ Đây thôn Vĩ Dạ”
của Hàn Mặc Tử (chương trình ngữ văn 11) để các đồng nghiệp cùng góp ý.
B-GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I-Một số vấn đề chung:
1.Câu hỏi và câu hỏi có vấn đề (tình huống học tập) trong dạy học:
1.1.Câu hỏi là một dạng cấu trúc ngôn ngữ để diễn đạt một yêu cầu, một đòi hỏi, một
mệnh lệnh mà người học cần giải quyết.
1.2.Câu hỏi có vấn đề (tình huống học tập) là những câu hỏi chứa đựng tình huống nảy
sinh trong quá trình học tập, tình huống đó chứa đựng một mâu thuẫn buộc học sinh phải
suy nghĩ, tìm tòi phương hướng giải quyết. Do được hình thành từ một khó khăn trong lí
luận hay thực tiễn nên muốn giải quyết chúng người học phải có một sự nỗ lực, một cuộc
vân động trí tuệ thực sự.
1.3.Đặc trưng của câu hỏi và câu hỏi có vấn đề:
- Câu hỏi luôn chứa đựng một cái gì chưa biết khiến người học phải băn khoăn, trăn trở,
tìm hướng khắc phục khoảng trống của sự thiếu hiểu biết. Đồng thời chứa đựng một cái
gì đã biết làm cơ sở khắc phục những nghịch lí, thắc mắc, băn khoăn. Giữa cái chưa biết
và cái đã biết có quan hệ chặt chẽ với nhau - cái đã biết là tiền đề để tìm ra cái chưa biết,
cái chưa biết là cái đích cần đạt đến của điểm xuất phát là những dữ liệu đã cho.
- Đối với những câu hỏi có vấn đề (tình huống học tập) còn phải bao hàm trong bản
thân nó một yếu tố tâm lí nào đó thể hiện ở tính rõ ràng, mới lạ của sự kiện, ở tính bất
thường của bài tập nhận thức ( Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào- Tr
58(1978) I.F Khaz la môp)

2.Câu hỏi trong giờ dạy đọc- hiểu văn bản văn học và vai trò của câu hỏi trong giờ dạy
đọc- hiểu văn bản văn học:
2.1. Câu hỏi trong giờ dạy đọc- hiểu văn bản văn học:
Xuất phát từ đặc thù phân môn (vừa là môn khoa học vừa là môn nghệ thuật) nên câu
hỏi trong giờ dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chương cũng mang sắc thái riêng độc đáo thể
hiện qua hiệu quả tác động của nó: vừa phát triển tư duy khoa học, tư duy sáng tạo; vừa
kích thích được cảm xúc thẩm mĩ của người học. Vì vậy xây dựng câu hỏi trong giờ dạy
đọc hiểu văn bản văn học ngoài việc tuân thủ các quy trình, hướng đến các mục đích tìm
hiểu nội dung, nghệ thuật tác phẩm, phát triển trí tưởng tượng, sự sáng tạo, bộc lộ cảm
xúc còn phải chú ý phát hiện các mâu thuẫn: từ bản thân tác phẩm giảng dạy, từ tầm đón
nhận của học sinh, từ cách cảm nhận, lí giải, phân tích tác phẩm trái ngược nhau của ý
thức tiếp nhận đồng đại và lịch đại
2.2.Vai trò của câu hỏi trong giờ dạy đọc- hiểu văn bản văn học:
-Câu hỏi có vai trò định hướng, giúp học sinh xác định được nhiệm vụ nhận thức, buộc
các em phải huy động tri thức, vốn sống, kinh nghiệm một cách sáng tạo, chọn lọc lấy
những gì có liên quan đến vấn đề đã được biểu đạt. Giáo viên không đưa kiến thức đến
cho các em dưới dạng có sẵn, không rung cảm hộ mà với câu hỏi đưa ra giáo viên sẽ tổ
chức, hướng dẫn cho các em suy nghĩ, cắt nghĩa, thâm nhập vào tác phẩm. Các em tự
nắm bắt giọng điệu nhà văn, đối thoại với người sáng tác, hòa nhập vào khung cảnh của
tác phẩm Từ đó các em được bồi dưỡng năng lực cảm thụ, năng lực sáng tạo thẩm mĩ ;
quá trình tư duy của các em vận động không ngừng, các em sẽ lớn lên về kiến thức, hoàn
thiện về kỹ năng. Nói cách khác, các câu hỏi sẽ kích thích sự phát triển trí tuệ của học
sinh thông qua sự tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập.
-Với kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên, học sinh không chỉ hiểu mà còn lưu giữ, ghi
nhớ kiến thức lâu hơn bởi trong văn chương khi người đọc trải qua quá trình cảm thụ
bằng liên tưởng, tưởng tượng ; rung cảm bằng trái tim thì kiến thức ấy thâm nhập vào
máu tủy, xương thịt. Sự ghi nhớ ở đây sẽ trở thành tiền đề quan trọng để quá trình tư duy,
tưởng tượng đạt hiệu quả cao hơn.
-Khi xây dựng được câu hỏi có vấn đề (tình huống học tập), giáo viên sẽ gieo vào tâm
hồn các em sự háo hức, day dứt không yên do vậy các em sẽ không cảm thấy xa lạ trước

vấn đề giáo viên đặt ra, không thể lãnh đạm với tiếng nói tâm tình tha thiết của nhà văn.
Bởi chính bản thân các em từ bên trong có nhu cầu chiếm lĩnh tác phẩm chứ không phải
do áp lực tác động bên ngoài. Giáo viên sẽ đạt đến mục đích đánh thức niềm đam mê,
hứng thú học văn của học sinh.
Tóm lại, việc vận dụng kỹ thuật đặt câu hỏi vào giờ dạy đọc - hiểu tác phẩm văn
chương sẽ phát huy được vai trò chủ thể tích cực của học sinh, tạo ra bầu không khí cởi
mở, dân chủ giữa giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh, học sinh - nhà văn; thiết lập
được mối quan hệ đa chiều (giáo viên - học sinh - tác phẩm - nhà văn) và phát triển mối
quan hệ đó một cách cân đối hài hòa.
II-Vận dụng kỹ thuật đặt câu hỏi để nâng cao hiệu quả giờ dạy đọc-hiểu văn bản
“Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử)
1.Xác định yêu cầu cần đảm bảo khi xây dựng câu hỏi trong giờ dạy đọc- hiểu văn bản
“Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử):
Xây dựng câu hỏi trong giờ dạy đọc - hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ ”của Hàn Mặc Tử,
tôi xác định cần phải đạt đến các yêu cầu sau:
- Câu hỏi khai thác được đặc trưng thể loại văn bản thơ mới (tiếng nói của cái tôi cá
nhân, phá bỏ hệ thống ước lệ có tính chất vô ngã, phi ngã của thơ cổ điển để sáng tạo
những cách biểu hiện mới). Cụ thể : câu hỏi định hướng cho học sinh phát hiện cái tôi
riêng của Hàn Mặc Tử (lòng yêu đời, yêu cuộc sống đến thiết tha, đớn đau, đầy uẩn
khúc thể hiện qua cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, kết cấu mang đặc trưng độc đáo)
- Câu hỏi kích thích được sự tìm tòi, hứng thú của học sinh và phù hợp với khả năng
tiếp nhận của các em. Có nghĩa câu hỏi, tình huống học tập được xây dựng phải khai thác
cái mới từ tác phẩm, gợi liên tưởng nhiều chiều ở người học; có khả năng gõ vào sự đồng
cảm, trí tưởng tượng nhưng sau đó buộc các em nâng lên thành cấp độ cao hơn thuộc về
chiều sâu tư tưởng của tác phẩm ; câu hỏi xuất hiện đúng thời điểm, diễn đạt sao cho các
em có thể hiểu và suy nghĩ ngay vào vấn đề giáo viên đặt ra
- Câu hỏi phong phú đa dạng, có hệ thống hoàn chỉnh: Câu hỏi được xây dựng dưới các
hình thức khác nhau để tránh sự đơn điệu nhàm chán ; câu hỏi có mối liên hệ với nhau
nhằm đảm bảo hướng đến mục đích, yêu cầu nội dung học tập
2. Xây dựng câu hỏi, tình huống học tập trong giờ dạy đọc - hiểu văn bản “Đây thôn

Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử):
2.1.Xác định mục tiêu dạy học trong giờ đọc-hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc
Tử):
-Mức độ cần đạt:
+Cảm nhận được tình yêu đời, lòng ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc qua bức tranh
phong cảnh xứ Huế.
+Nhận biết được sự vận động của tứ thơ, tâm trạng của chủ thể trữ tình và bút pháp tài
hoa độc đáo của Hàn Mặc Tử.
-Trọng tâm kiến thức, kỹ năng:
+Kiến thức:
`Vẻ đẹp thơ mộng, đượm buồn của thôn Vĩ và nỗi buồn, cô đơn
trong cảnh ngộ bất hạnh của một con người tha thiết yêu thiên nhiên,
yêu sự sống.
`Phong cách thơ Hàn Mặc Tử: một hồn thơ luôn quằn quại yêu, đau;
trí tưởng tượng phong phú ; hình ảnh thơ có sự hòa quyện giữa thực
và ảo.
+Kĩ năng:
`Đọc – hiểu bài thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại
`Cảm thụ, phân tích tác phẩm thơ.
2.2.Xác định tri thức đã có của học sinh trong giờ đọc-hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ”
(Hàn Mặc Tử):
Có thể nói xác định tri thức đã có của học sinh trong một giờ đọc hiểu văn bản là cơ sở
quan trọng để xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp, phát huy được vai trò chủ thể tích cực
của học sinh. Với giờ dạy đọc - hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử), tri thức
đã có của các em được tôi xác định:
- Qua một số tiết đọc - hiểu về tác phẩm của Xuân Diệu, các phần tri thức đọc hiểu
( đối với học sinh học chương trình Ngữ văn 11 - nâng cao), thêm tiết đọc - hiểu tác
phẩm của Huy Cận (đối với học sinh học chương trình Ngữ văn 11- chuẩn) các em ít
nhiều đã nắm được : Đặc trưng thơ mới, cách khai thác một tác phẩm thơ mới.
-Từ sự định hướng của giáo viên cho các em chuẩn bị bài, học sinh phải tìm hiểu để có

kiến thức cơ bản nhất về tác giả Hàn Mặc Tử cùng một số cách tiếp cận văn bản “Đây
thôn Vĩ Dạ”.
2.3. Xác định đơn vị kiến thức có thể mã hóa thành câu hỏi tương ứng với các khâu trong
quá trình dạy đọc-hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử):
*1-Tiểu dẫn:
*1.1-Tác giả:
- Tên khai sinh là nguyễn Trọng Trí (1912 – 1940). Các bút danh khác : Phong Trần, Lệ
Thanh…
- Sinh ra ở Đồng Hới, nay là Quảng Bình trong gia đình công giáo nghèo.
- Bản thân:
+Là người mộ đạo
+Có cảnh ngộ bất hạnh
+ Là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt trong phong trào thơ mới; “ngôi
sao chổi trên bầu trời thơ Việt Nam” (Chế Lan Viên).
*1.2-Sự nghiệp:
-Các tác phẩm : Gái quê, thơ điên, thượng thanh khí, Cẩm Châu duyên…
-Hành trình sáng tác phức tạp (Cổ điển, lãng mạn, tượng trưng, siêu thực).Ông được xem
là hiện tượng kì lạ vào bậc nhất của phong trào thơ mới:Làm thơ như một trạng thái xuất
thần. Mỗi lần làm thơ là một lần trút thần. Cảm hứng đến như một cú sốc, ý thơ nhảy cóc,
phi logic, như một thể lỏng bất định. Trong thơ ông trăng, hoa, nhạc, hương chen lẫn với
hồn, máu, yêu ma…
*1.3.Bài thơ:
- Hoàn cảnh ra đời: Hồi còn làm ở sở Đạc điền Bình Định, Hàn Mặc Tử thầm yêu Hoàng
Thị Kim Cúc là con ông chủ sở. Sau đó Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo, Kim Cúc về
Huế với cha. Khi biết tin Hàn Mặc Tử bị bệnh, Kim Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử một bức
bưu thiếp in hình cô gái đang chèo thuyền, bên dưới có cành trúc lòa xòa, phía xa là ráng
trời, đằng sau ghi vài lời hỏi thăm. Tấm thiếp đã tác động rất mạnh đến hồn thơ Hàn Mặc
Tử: ấn tượng về xứ Huế thức dậy cùng niềm yêu đời vô bờ khiến tác giả viết bài thơ.
- Xuất xứ: in trong tập thơ Điên (1938) sau đổi thành Đau thương.Tập thơ thể hiện đặc
trưng lối thơ điên của Hàn Mặc Tử:

+Điệu cảm xúc đặc thù là đau thương
+Hình tượng chủ thể là cái tôi li hợp bất định(vừa là mình, vừa phân thân ra cùng một lúc
nhiều mình khác nữa).
+Kênh hình ảnh đặc thù là những hình ảnh kì dị, kinh dị.
+Mạch liên kết trong thơ điên là dòng tâm tư bất định với những đứt nối đầy bất ngờ,
khiến cho mạch thơ thường có vẻ đầu Ngô mình Sở.
+Lớp ngôn từ nổi bật là lớp từ cực tả (có thiên hướng biểu tả ở mức cực điểm)
->“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ trong trẻo chưa có những đặc trưng đầy đủ của lối
thơ điên nhưng dạng cảm xúc ở đây là nỗi khát khao đã nhuốm màu đau thương với
những uẩn khúc của nó, rồi mạch liên kết đầy đứt nối, cùng những ngôn từ thơ có thiên
hướng biểu tả ở mức cực điểm rải rác trong thi phẩm cho thấy không phải vô cớ tác giả
xếp nó vào Đau thương.
*2 §äc hiÓu v¨n b¶n:
Văn bản có hình thức bề ngoài không liên kết nhưng thực chất có mạch ngầm cảm xúc
xuyên suốt ba khổ thơ.
*2.1.S ơ đ ồ cấu trúc văn bản:
Đây thôn Vĩ Dạ
Khổ 1 Khổ 2 Khổ 3
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới
lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

* 2.2 . Kiến thức cơ bản:
Khæ 1:
Bức tranh thôn Vĩ buổi
mai trong trẻo, tinh
khôi, đơn sơ mà thanh
tú-> Cảnh nghiêng về
cõi thực.
Bức tranh sông nước
buồn bã, ảm đạm; thơ
mộng, huyền ảo ->
Cảnh có sự nhập mờ
giữa đôi bờ hư- thực.
Hình bóng khách
đường xa và chốn khói
sương mông lung ->
Cảnh chìm trong mộng
ảo.
Mạch ngầm:
Diễn biến tâm trạng của thi nhân:ao ước, đắm say khi nhớ về cảnh cũ, người
xưa; tiếc nuối khi nhận ra cơ hội trở về không còn ->Buồn bã, trống trải, mặc
cảm về thân phận bị bỏ rơi; hi vọng, phấp phỏng->Mơ tưởng, băn khoăn,
hoài nghi =>Các cung bậc khác nhau của mối u hoài, cốt lõi của mối u hoài,
của tâm tư đầy uẩn khúc là niềm khát khao gắn bó khôn nguôi, yêu đời đến
thiết tha, đớn đau, khắc khoải.
- Câu 1: hình thức câu hỏi tu từ mang nhiều sắc thái ý nghĩa: vừa hỏi han, vừa nhắc nhớ,
vừa trách móc giận hờn mát mẻ, vừa mời mọc ngọt ngào, tha thiết đồng thời cũng là lời
tự vấn lòng mình đầy day dứt của nhà thơ. Sự phân thân và những sắc thái phức tạp đan
xen trong cùng một câu hỏi đã cho thấy nỗi ước ao trở về thôn Vĩ vừa mãnh liệt, vừa uẩn

khúc, không dễ bày tỏ.
- Câu 2- 4: Bức tranh thôn Vĩ buổi mai hiện về trong quầng sáng kí ức của thi nhân có
ánh nắng thanh khiết tinh khôi; Có khoảng xanh vườn tược đậm màu quê kiểng, tươi tắn,
tràn đầy sức sống; Có lá trúc mảnh mai điểm xuyết tô đậm thêm vẻ đẹp thanh tú của khu
vườn ; Có hình ảnh con người mang vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, phúc hậu. Đó là thiên
đường đã tuột khỏi tầm tay nên trở thành một niềm ước ao, một hạnh phúc quá tầm để lại
niềm tiếc nuối vô bờ cho thi sĩ.
Khæ 2:
-Bức tranh sông nước buồn bã, ảm đạm mang chở mặc cảm chia lìa: cặp sóng đôi “gió”,
“mây” bị tách biệt ; dòng nước như ngưng đọng, buồn lặng, quạnh quẽ ; hoa bắp sầu tủi
vì không thể nhấc mình lưu chuyển được thể hiện qua nghệ thuật nhân hóa, thủ pháp lấy
“động” gợi “tĩnh”.
-Bằng trí tưởng tượng phong phú, hình ảnh sáng tạo, hình thức câu hỏi tu từ, tác giả khắc
họa bức tranh sông nước trong đêm trăng thơ mộng, huyền ảo đánh thức niềm hi vọng
mang chứa nhiều bi kịch:
+Ánh trăng sáng chiếu xuống dòng sông làm cả dòng sông và bãi bồi lung linh, huyền
ảo ; dòng nước buồn thiu đã hóa thành dòng sông trăng thơ mộng, con thuyền chở khách
đã hóa thành truyền chở trăng. Cảnh có sự nhập mờ giữa đôi bờ hư - thực.
+Đằng sau cảnh là tâm trạng vừa đau đớn, khắc khoải vừa khát khao cháy bỏng của nhà
thơ.
Khæ 3:
- Hình ảnh con người xuất hiện trong giấc mơ mông lung, xa vời:
+ “Khách đường xa”: bóng hình đến rồi đi bất chợt làm tăng thêm sự khắc khoải, bồn
chồn của lòng người đa cảm.
+sắc áo trắng thanh khiết, tinh khôi được tô đậm đến tận cùng, bị biến thành ảo giác chỉ
còn là một ấn tượng càng làm cho sự hụt hẫng lên tới cao độ.
-Tâm trạng của thi nhân khi trở về lãnh cung chia lìa: Băn khoăn, nghi ngại cất lên câu
hỏi hoài nghi về sự đậm đà trong tình cảm của “ai” kia (“khách đường xa”, tình người
trong cõi trần ai). Trong tâm trạng đó bao hàm cả một hi vọng sâu kín, chan chứa niềm
thiết tha với cuộc đời nhưng cũng đầy mặc cảm.

Câu hỏi kết thúc bài thơ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời chất vấn hướng đến sự giãi
bày mong ước tìm kiếm những hồn tri âm đồng điệu đồng thời có thể coi là câu trả lời
cho câu hỏi mở đầu văn bản tạo nên kết cấu chặt chẽ thể hiện nhất quán tình yêu dành
cho cuộc sống của nhà thơ.
*3-Tổng kết, củng cố kiến thức:
-Bài thơ thể hiện niềm tha thiết với cuộc sống nhưng đầy uẩn khúc của thi sĩ.
-Cảnh sắc thiên nhiên là sự giao chuyển nhiều cảnh theo lối bất định không tuân thủ theo
tính liên tục của thời gian và tính duy nhất của không gian.
-Hình ảnh sáng tạo, ngôn ngữ thơ cực tả mà luôn trong sáng, thủ pháp nghệ thuật lấy
động gợi tĩnh…
=>Từ kiến thức về văn bản có thể thấy: Muốn đọc thơ Hàn Mặc Tử phải chú ý đến
mạch ngầm cảm xúc trong cõi tâm hồn của con người mang lòng yêu đời yêu cuộc
sống đến thiết tha nhưng cũng đầy đớn đau, khắc khoải.
2.4. Mã hóa nội dung kiến thức thành câu hỏi, tình huống học tập trong giờ dạy đọc -
hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử):
Công đoạn xây dựng câu hỏi, tình huống học tập đòi hỏi giáo viên phải chú ý đến nhiều
yếu tố (đặc trưng tài liệu giảng dạy, đối tượng giảng dạy, tâm lí học sinh trước đơn vị
kiến thức cần tìm hiểu…) để có cơ cơ sở định hướng cho việc hình thành câu hỏi, tình
huống học tập đáp ứng yêu cầu.
2.4.1. Một điều hết sức quan trọng đối với việc vận dụng kỹ thuật đặt câu hỏi trong giờ
dạy “Đây thôn Vĩ Dạ” là: Giáo viên phải xây dựng được tình huống học tập trung tâm
trên cơ sở phát hiện mâu thuẫn nghệ thuật đặc thù của văn bản (mâu thuẫn thuộc cấp độ
hình thức, tập trung làm sáng tỏ nội dung tư tưởng của tác phẩm). Tình huống học tập
trung tâm này sẽ là điểm tựa để giáo viên phát triển thêm các tình huống, câu hỏi hướng
dẫn học sinh tiếp cận văn bản đúng hướng, có trọng tâm.
Với “Đây thôn Vĩ Dạ”, tình huống học tập trung tâm được tôi xác định là :Bài thơ
được tạo nên từ ba khổ thơ, mỗi khổ thơ đề cập đến một hình ảnh không có sự gắn bó.
Phải chăng “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự chắp nối vụng về, rời rạc giữa ba đoạn ? Có dòng
chảy nào xuyên suốt các khổ thơ? (Tình huống xuất hiện cuối giờ học).
Tình huống học tập trên được xây dựng từ việc phát hiện mâu thuẫn nghệ thuật đặc thù

của “Đây thôn Vĩ Dạ”: sự vận động lạc hướng của tiến trình sự kiện với những xác định
dứt khoát ban đầu của tác giả hay là sự thiếu ăn khớp giữa nhan đề tác phẩm với câu
chuyện được nói tới trong văn bản. Cụ thể: Nhan đề bài thơ chuẩn bị cho người đọc tâm
thế chuẩn bị tiếp nhận cảnh sắc thôn Vĩ và người đọc đã không bị phụ lòng, trước mắt họ
hiện lên một bức tranh thiên nhiên trong trẻo, tuyệt đẹp ( Khổ 1). Nhưng độc giả đang
trên đà say theo cảnh thì bị chững lại bởi hình ảnh thiên nhiên chia lìa, tan tác, có sự nhập
mờ giữa đôi bờ hư-thực (Khổ 2). Đến khổ thơ thứ 3 thì cõi thực bị đẩy lùi nhường chỗ
cho cõi mộng với hình ảnh trung tâm là hình bóng con người.
Xác định được tình huống trung tâm, tôi nhìn ra hướng đi và cái đích mình cần tới
trong giờ dạy đọc hiểu “Đây thôn Vĩ Dạ” là xây dựng các câu hỏi, tình huống học tập có
tính chất phụ trợ để hướng dẫn học sinh tìm ra sự vận động của mạch cảm xúc thể hiện
trong tác phẩm.
2.4.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi, câu hỏi có vấn đề làm rõ tình huống học tập trung
tâm:
*Tình huống tạo không khí đầu giờ (khi giới thiệu hoàn cảnh ra đời bài thơ):
Để phá bỏ đập chắn tâm lí “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ khó đọc – hiểu, đồng thời
nhằm khơi dậy sự chú ý từ học sinh để các em hào hứng, có sẵn tâm thế háo hức muốn
khám phá thi phẩm, tôi kể nhanh cho học sinh nghe câu chuyện tình giữa Hàn Mặc Tử và
Hoàng Cúc. Kết thúc câu chuyện kể, tôi đưa ra tình huống mang tính dẫn dắt (không cần
trả lời): Bài thơ không thể không liên quan đến hoàn cảnh ấy nhưng có nên cột chặt ý
nghĩa của nó vào câu chuyện riêng tư cũng như vào một địa danh hẹp là chốn Vĩ Dạ,
sông Hương?
Tình huống làm nảy sinh tâm lí băn khoăn, thắc mắc, đưa các em vào tâm thế chuẩn bị
huy động kiến thức để giải quyết vấn đề được nêu.
*Tình huống học tập hướng học sinh tiếp cận bài thơ theo hướng hợp lí :
Nhằm tạo mối liên kết bên trong với tình huống trung tâm và giúp học sinh xác định
hướng tiếp cận thi phẩm, tôi nêu tình huống: Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ từng có
nhiều cách cảm nhận khác nhau. Có người cho đây là bài thơ tả cảnh, người lại cho
bài thơ nói về tình yêu thầm kín của Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc.Theo anh(chị) cách
hiểu ấy có thỏa đáng không? Vì sao?

Từ thực tế phần lớn các em đồng tình với một trong hai cách cảm nhận trên, giáo viên
có thể tạo tình huống bằng lời nhận xét: Giả sử ý kiến của anh(chị ) là đúng, ta cùng
nhìn lại văn bản, đọc một số câu thơ “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”, “Có chở
trăng về kịp tối nay?”…anh(chị ) thấy cách hiểu của mình như thế đã hợp lí chưa?
Ở đây giáo viên phải dẫn dắt, phân tích để học sinh đi đến phủ định hai cách hiểu về
văn bản nói trên: Thi phẩm không đơn thuần tả cảnh vì nhức nhối , ám ảnh trong chúng ta
là những câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”, “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó /
Có chở trăng về kịp tối nay?”, “Ai biết tình ai có đậm đà?”; hơn nữa cách hiểu này đã bỏ
qua phong cách thơ Hàn Mặc Tử “luôn có khuynh hướng quay vào nội tâm, rất ít tả, ít kể
theo cái nhìn của con mắt” (Vũ Quần Phương). Nếu cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ
viết về tình yêu đơn phương thì người đọc mới chỉ dựa vào hoàn cảnh sáng tác mà bỏ qua
căn cứ quan trọng là văn bản ngôn từ.
Tiếp đến, giáo viên phải định hướng cho các em : Đằng sau bức tranh thiên nhiên
thơ mộng, đằng sau mối tình thầm kín của nhà thơ với Hoàng Cúc còn có một nỗi
niềm gì đó sâu xa, kín đáo, khó tiếp cận. Lời định hướng thực chất là sự hé mở cho các
em thấy tầng sâu của bài thơ là thế giới tâm trạng của thi nhân – “cái mạch trữ tình vừa
thắm đượm hồn người vừa thể hiện bằng một thiên bẩm tài hoa” (Giáo viên nhân dân- số
đặc biệt, tháng 11/1989). Đối với học sinh có năng lực nhạy bén, lời định hướng của giáo
viên lại trở thành dữ kiện để các em khắc phục tình huống xuất hiện cuối giờ “Có dòng
chảy nào xuyên suốt các khổ thơ?
*Câu hỏi, tình huống học tập hướng dẫn học sinh đọc- hiểu khổ thơ thứ nhất:
Dựa trên cơ sở sự phát hiện về hình thức độc đáo của câu thơ “Sao anh không về chơi
thôn Vĩ?”, tôi xây dựng một câu hỏi chứa đựng tình huống học tập có hình thức hấp dẫn
dưới dạng một câu đố vừa quen vừa lạ khiến học sinh thích thú từ đó kích thích sự tìm
tòi, khám phá của các em: Nhan đề bài thơ giống như một lời giới thiệu, mời chào :
Đây tôi sẽ tả cho các bạn xem thôn Vĩ và nhà thơ bắt đầu. Nhưng lẽ ra phải bắt đầu
bằng một câu tả như thường lệ thì Hàn Mặc Tử lại bắt đầu bằng câu hỏi . Tại sao
vậy? Câu hỏi ở đây có ý nghĩa gì? Tình huống được nêu có mối liên hệ chặt chẽ với tình
huống cuối giờ học góp phần triển khai mâu thuẫn nghệ thuật đặc thù của tác phẩm . Tuy
nhiên ở đây, mâu thuẫn nghệ thuật đặc thù được khai thác từ một chi tiết nghệ thuật thú

vị: hình thức bất thường của câu thơ - một câu hỏi tu từ.
Từ việc gợi ý cho học sinh khai thác những nét đặc sắc của câu hỏi mở đầu thi phẩm,
tôi đã dẫn dắt để các em tìm ra ý nghĩa câu thơ: Câu thơ có sáu tiếng đầu mang thanh
bằng tạo nên giọng điệu êm ru mang đậm phong cách Huế, cách sử dụng đại từ nhân
xưng “anh” tạo sự cởi mở thân tình trong quan hệ giao tiếp, thủ pháp nghệ thuật phân
thân đem đến cho câu thơ mở đầu nhiều sắc thái ý nghĩa: vừa hỏi han, vừa nhắc nhớ,
vừa trách móc giận hờn mát mẻ, vừa mời mọc ngọt ngào, tha thiết đồng thời cũng là lời
tự vấn lòng mình đầy day dứt của nhà thơ. …Câu thơ ngay từ đầu đã gieo vào lòng
người đọc như một cảm ứng đặc biệt tựa nỗi ám ảnh về thôn Vĩ.
“Nỗi ám ảnh” do hình thức một câu thơ tạo nên là cơ sở để tình huống học tập sau xuất
hiện: Vậy thôn Vĩ có đặc điểm gì mà có sức ám ảnh lòng người đến thế? Học sinh giải
quyết được tình huống này, giáo viên có cơ sở để xây dựng tình huống trung tâm xuất
hiện cuối giờ học bởi vẻ đẹp thôn Vĩ Dạ được tạo nên từ hình ảnh thơ gợi cảm, trong trẻo
khác hẳn khung cảnh trong hai khổ thơ còn lại. Cảm nhận được sâu sắc bức tranh thôn
Vĩ, học sinh mới có thể nhận ra dòng chảy tâm trạng của thi nhân ( khi liên hệ đến cảnh
ngộ hiện tại Hàn Mặc Tử đang trải qua), từ đó giải thích được thực chất sự vi phạm cái
lỗi không logic của nhà thơ. Do vậy, sau khi hướng dẫn các em tiếp cận bức tranh thôn Vĩ
bằng các câu hỏi phụ trợ : Thôn Vĩ hiện lên trong quầng sáng kí ức của nhà thơ qua
hình ảnh nào? Cảm nhận về cách khắc họa các hình đó? Có tài liệu cho rằng “mặt
chữ điền” là gương mặt của đàn ông, có người hiểu đó là gương mặt người phụ nữ.
Cách hiểu của anh(chị)? Nhận xét về bức tranh thôn Vĩ hiện về trong kí ức nhà thơ?
Và khi các em cảm nhận được vẻ đẹp thôn Vĩ qua các hình thơ:
+Ánh nắng: được khắc họa qua cái nhìn cận cảnh. Hai chữ “nắng” trong câu thơ tạo
nên tiết tấu khác thường - có cái gì như cái náo nức, e ấp, rạo rực ,xốn xang trong lòng
khi ánh mắt bắt gặp ánh nắng đầu tiên của một ngày. Cách nói giản dị đầy sức gợi đưa
đến cảm giác về các cấp độ của ánh sáng: ban đầu là thứ ánh sáng được nhìn từ cái nhìn
chủ động, định hướng tự nhiên, sau đó vươn lên một góc nhìn tập trung để đón nhận sắc
nắng tinh khôi, thuần khiết và thanh thoát mà chỉ hàng cau vào lúc ban mai mới có. Ánh
nắng trinh nguyên của buổi mai như rải những vệt sáng lấp lóa trên những tàu cau còn
ướt sương đêm. Ta như cảm được hương thơm của nắng tỏa xuống không gian, thứ

hương rất nhẹ của hoa cau mới nở. Sắc nắng, vị nắng trộn hòa vào cảnh vật vừa vút lên
trong cái tầm thanh thoát của hàng cau xứ Huế lại vừa chợt ùa xuống, tỏa rộng, tràn lên
tất cả.
+Vườn thôn Vĩ: Thuộc về chủ thể phiếm chỉ “ai”. Hai tính từ chỉ cùng một gam màu
nhưng sắc thái khác nhau “mướt”, “xanh” cùng phép so sánh cụ thể hóa đặc điểm của
khung cảnh, giúp người đọc hình dung khoảng xanh vườn tược với vẻ đẹp mượt mà, mỡ
màng, tràn đầy sức sống ; vẻ đẹp trong sáng, tao nhã, quý phái…giống như một viên
ngọc rời rợi sắc xanh và đang tỏa vào ban mai cả những ánh xanh. Thiếu đi cái ánh sắc
ấy, mảnh vườn đơn sơ bình dị khó lòng có được vẻ thanh tú, cao sang. Từ chỉ mức độ
“quá” chứa đựng cảm nhận về vẻ đẹp ở mức tột bậc và cả niềm thiết tha ở mức đau
thương khiến câu thơ cứ như là buột miệng, như không kìm nổi lòng mình phải reo lên,
phải thốt lên sự ngạc nhiên đến thẫn thờ.
+Lá trúc: mảnh mai, thon dài như nét điểm xuyết làm tôn lên vẻ thanh tú của khung cảnh
thiên nhiên.
+Con người: xuất hiện thấp thoáng sau lá trúc với gương mặt “chữ điền”(có thể là
gương mặt của người phụ nữ mang vẻ đẹp phúc hậu, kín đáo, duyên dáng; có thể là
gương mặt của người đàn ông( trở về thôn Vĩ) đang say ngắm cảnh vật).Ở đây hình ảnh
thơ được miêu tả theo hướng cách điệu hóa gợi lên vẻ đẹp của con người chứ không cụ
thể hóa.
-> cảnh sắc thôn Vĩ qua lăng kính của con người mang mặc cảm chia lìa nên mang đặc
trưng đơn sơ nhưng tươi sáng, trong trẻo, gợi cảm, tràn đầy sức sống và vô cùng lộng
lẫy.
Tôi định hướng cho học sinh đọc - hiểu cảm xúc của thi nhân qua câu hỏi tình huống:
Đặt bức tranh thôn Vĩ buổi mai trong nỗi niềm của con người tha thiết hướng về xứ
Huế nhưng cơ hội trở về không còn, anh (chị) hình dung tâm trạng của nhà thơ như
thế nào? Với tình huống học tập này, để giải quyết được các em phải đặt mình vào hoàn
cảnh của nhà thơ, phải huy động trí tưởng tượng, phải thực sự đồng cảm với tác giả sẽ
phát hiện được: Nỗi khát khao trở về thôn Vĩ mãnh liệt và niềm tiếc nuối đến day dứt, xót
xa của hồn thơ yêu đời nhưng buộc lòng phải xa cách cuộc đời mình yêu mến. Như thế
cũng có nghĩa các em được trao quyền chủ động phát huy khả năng sáng tạo, trí tưởng

tượng, được rung cảm cùng người sáng tác …
*Câu hỏi, tình huống học tập hướng dẫn học sinh đọc- hiểu khổ thơ thứ hai:
Rất dễ nhận ra mâu thuẫn xuất hiện trên bề mặt giữa khổ thơ 1 và khổ 2: khổ 1, cảnh
đẹp, tươi tắn, tràn đầy sức sống ; khổ 2, cảnh ảm đạm, buồn bã, có sự nhập mờ giữa đôi
bờ hư – thực. Đó là cơ sở để giáo viên tạo tình huống học tập: Bức tranh thôn Vĩ mang
nét đặc trưng của xứ Huế vừa mới đó đẹp là thế, tại sao khi tầm nhìn của nhà thơ mở
rộng bao quát cả không gian sông nước, mây trời lại có sự đổi thay? Có mối liên hệ
nào giữa tâm trạng được thể hiện ở khổ 1 với đặc điểm của cảnh trong khổ 2?
Học sinh từ điều đã biết (qua đọc – hiểu khổ 1) sẽ lí giải được: Niềm đau, tiếc nuối
khiến nhà thơ có cái nhìn cảnh vật đổi khác. Bằng tư duy logic các em còn nêu được lí do
thứ hai: cảnh đẹp (trong khổ 1) dễ khiến thi nhân ý thức sâu sắc hơn về cảnh ngộ hiện tại
(vì căn bệnh quái ác phải tách biệt với thế giới mình yêu mến) nên đã mượn cảnh thiên
nhiên để nói về cảnh ngộ của chính mình.
Khi học sinh giải quyết được mâu thuẫn vừa nêu, tôi bắt lấy đơn vị kiến thức vừa
được các em phát hiện để đưa câu hỏi : Vậy cảnh ngộ đó là gì? Hãy phân tích những
tín hiệu nghệ thuật trong 2 câu thơ “Gió theo lối gió mây đường mây/ Dòng nước
buồn thiu hoa bắp lay” để làm rõ? Và gợi ý cho các em: để trả lời câu hỏi trên, trước hết
cần chỉ ra những hình ảnh thơ tạo nên khung cảnh? Nghệ thuật được sử dụng? Tác
dụng? ; sau đó xác định: Qua cảnh cho thấy cảnh ngộ thi nhân phải gánh chịu như
thế nào?
Ở đây, giáo viên cần dẫn dắt để học sinh phát hiện đủ dấu hiệu nghệ thuật (lặp từ, nhịp
ngắt 4/3, nghệ thuật nhân hóa, từ có giá trị biểu cảm) đồng thời xác định được các hình
ảnh thiên nhiên với sự vận động đặc biệt qua tài sử dụng ngôn từ của thi sĩ. Cụ thể:
+Gió, mây: cặp sóng đôi vận động không theo quy luật “gió theo lối gió mây đường
mây”. Cách lặp từ “gió”, “mây” khiến khoảng cách giữa hai sự vật vốn dĩ không thể
chia lìa mỗi lúc càng như nới rộng thêm. Nhịp thơ 4/3 cắt đôi câu thơ làm nổi bật sự chia
phôi ngang trái như rạch vào nỗi đau thân phận của kẻ bị chia lìa.
+Dòng nước : ngưng đọng, buồn lặng, quạnh quẽ chất chứa nỗi niềm sâu kín khó bề giải
tỏa. Nghệ thuật nhân hóa biến dòng nước vô tri thành sinh thể có linh hồn “dòng nước
buồn thiu”- buồn thiu vì mang sẵn trong lòng tâm trạng buồn hay sự li tán, chia phôi từ

mây, gió đã bỏ buồn cho dòng nước?
+Hoa bắp: màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói khẽ “lay” trong nỗi buồn xa vắng.
“Động thái “lay” tự nó không vui, không buồn. Sao trong cảnh này lại buồn đến vậy?
Nó là nét buồn phụ họa với gió, mây, sông nước hay nỗi buồn sông nước đã lây nhiễm,
xâm chiếm vào hồn hoa bắp phất phơ này? Hàn Mặc Tử nhìn hoa bắp lay” nhận ra sự
phiêu tán, sự ra đi. Cả mây gió, cả dòng nước cứ lìa bỏ nhau và đều lìa bỏ chốn này mà
đi hết cả. Chỉ riêng hoa bắp là tĩnh tại, không thể nhấc mình lên mà lưu chuyển. Bị bỏ
rơi lại bên bờ, động thái “lay” kia có phải là một níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng
của kẻ bị chia lìa? Nhà thơ dường như thấy hoa bắp côi cút bên sông như vận vào mình.
Mặc cảm chia lìa đã khiến thi nhân nhìn ra cái thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng
của mình trong dáng lay sầu tủi của hoa bắp.” (Chu Văn Sơn)
Trên cơ sở phân tích các tín hiệu nghệ thuật, các em đi đến đơn vị kiến thức cần
chiếm lĩnh: ngoại cảnh cũng chính là tâm cảnh, đằng sau bức tranh thiên nhiên kia
chính là hình bóng của con người cô đơn, sầu tủi mang nỗi đau thân phận, mặc cảm của
kẻ bị chia lìa, bị bỏ rơi dưới trời quên lãng.
Tri thức được các em chiếm lĩnh giúp tôi có cơ sở để dẫn dắt đến một tình huống học
tập mới. Tình huống nảy sinh từ nội dung đối lập giữa hai câu thơ: một câu , gửi gắm
niềm hi vọng chứa chan – con thuyền đang sẵn đậu ở bến bờ hạnh phúc ; một câu , khắc
khoải sự ngóng đợi, phấp phỏng lo âu – liệu con thuyền chở trăng có kịp về trong thời
gian gấp vội “tối nay”?: Mang nỗi đau thân phận của kẻ bị chia lìa, niềm yêu sống thôi
thúc nhà thơ nuôi dưỡng niềm mong ước “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở
trăng về kịp tối nay?”. Nhưng vì sao nói : nghe kĩ hai câu thơ dường như chất chứa
trong niềm mong ước là biết bao uẩn khúc, bi kịch?
Để hướng dẫn học sinh giải quyết tình huống học tập trên, tôi xây dựng các tình huống
học tập mang tính chất phụ trợ như:
-Giữa thế giới phiêu tán, hiu hắt, ảm đạm bất chợt xuất hiện hình ảnh vầng trăng,
trong ca dao và thơ văn xưa, nay “trăng” cùng với “thuyền”, “bến” là những ẩn dụ
nghệ thuật. Hãy cho biết ý nghĩa ẩn dụ của các hình ảnh này trong câu thơ của Hàn
Mặc Tử? Từ vốn hiểu biết về hồn thơ Hàn Mặc Tử, học sinh chỉ ra ý nghĩa biểu tượng
của các hình ảnh: “sông trăng”- thế giới hạnh phúc, sự thanh khiết, vẻ đẹp con người mà

tác giả mơ ước ; “bến sông trăng”- bến đỗ hạnh phúc ; “thuyền”( chở trăng)- sợi dây
kết nối giữa nhà thơ và thế giới hạnh phúc.
-Trên cơ sở kiến thức các em vừa phát hiện, giáo viên chốt lại và đưa tình huống học tập :
Như vậy có thể nói, trăng chính là vương quốc bá quyền trong thơ Hàn Mặc Tử, là
biểu tượng cho khát vọng hạnh phúc. Phải chăng sự xuất hiện của dòng sông trăng và
con thuyền chở trăng là tín hiệu giúp thi nhân thoát khỏi mặc cảm chia lìa, nỗi đau
thân phận? Từ cách cảm nhận về nghệ thuật sử dụng ngôn từ, âm hưởng 2 câu thơ
cho biết ý kiến của anh (chị)?
Với mục đích tạo điều kiện để học sinh có được một bầu không khí dân chủ, tôi khuyến
khích các em đưa ra những chính kiến của mình trên cơ sở cách lí giải hợp lí. Sau đó,
phân tích để các em thấy ý kiến, cách lí giải hợp lí nhất là: sự xuất hiện của khung cảnh
thơ mộng, huyền ảo, có sự nhập mờ giữa đôi bờ hư- thực càng đẩy nhà thơ chìm sâu vào
bi kịch bởi muốn chạy đua với thời gian để tận hưởng tối thiểu niềm hạnh phúc ở đời
cũng không được. Cơ sở của cách lí giải này dựa trên các tín hiệu ngôn từ: một chữ “ai”
trong kết hợp từ “thuyền ai” gợi lên bao bâng khuâng, ngỡ ngàng ; một chữ “kịp” lặng
lẽ, khiêm nhường chứa đựng sự gấp gáp, niềm mong mỏi đến khắc khoải, khẩn thiết, hé
mở mặc cảm về cuộc sống ngắn ngủi; từ chỉ thời gian “tối nay”vừa cụ thể, vừa khó xác
định gợi khoảng thời gian ít ỏi còn lại dành cho sự đợi chờ ;hình thức câu hỏi tu từ toát
lên niềm hi vọng đồng thời biểu hiện niềm lo của một số phận không có tương lai.
Chiếm lĩnh được các tri thức trên học sinh sẽ giải quyết được tình huống học tập: Vì
sao nói : nghe kĩ hai câu thơ “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp
tối nay?” dường như chất chứa trong niềm mong ước là biết bao uẩn khúc, bi kịch? -
Đặt vào “trăng “ tất cả niềm hi vọng, Hàn Mặc Tử khẩn cầu, ước vọng đến thiết tha: con
thuyền chở trăng sẽ kịp về với mình – một thân phận mang mặc cảm chia lìa. Qua giọng
điệu khắc khoải và chữ “kịp”, người đọc cảm giác nếu con thuyền chở trăng không về
kịp trong khoảng thời gian gấp gáp thì nhà thơ sẽ hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, vĩnh
viễn đau thương. Cảm biết quỹ thời gian đang vơi đi từng khắc, cuộc chia lìa vĩnh viễn
đã sát gần, thi nhân cố gắng tận dụng khoảng thời gian còn lại để giãi bày ước nguyện
hòa nhập, gắn bó với cuộc đời song vẫn không tránh khỏi niềm lo âu khắc khoải- ước
mong tối thiểu (được sống không thôi cũng hạnh phúc lắm rồi) cũng không thành hiện

thực. Vì thế có thể nói trong niềm ước vọng của nhà thơ ẩn chứa nhiều uẩn khúc, bi kịch.
*Câu hỏi, tình huống học tập hướng dẫn học sinh đọc- hiểu khổ thơ thứ ba:
Nhận biết thế giới hiện thực đang tuột khỏi tầm tay, nhà thơ hướng hẳn vào cõi mộng
gửi gắm niềm mơ tưởng. Trong giấc mơ mông lung thi nhân dành mối quan tâm đặc
biệt cho đối tượng nào? Cảm nhận của anh (chị) về đối tượng ấy?
Từ sự so sánh với hai khổ thơ đầu, học sinh dễ phát hiện được: đối tượng trung tâm
trong khổ 3 là hình ảnh con người xuất hiện trong niềm mơ tưởng được định danh bằng
cụm danh từ “khách đường xa”- hình bóng đến rồi đi bất chợt, cách trở, xa xôi, chập
chờn, hư ảo khiến lòng người đa cảm thêm khắc khoải, bồn chồn.
Ngoài đặc điểm cách trở, xa xôi, hình ảnh con người còn được cảm nhận với đặc điểm
“Áo em trắng quá nhìn không ra”. Có cách hiểu khác nhau về câu thơ: do áo lẫn vào
sương khói nên nhìn không rõ (1) ; ca tụng sắc áo trắng đến lạ lùng (2). Ý kiến của
anh (chị)?
Ở tình huống học tập này, tôi hướng học sinh căn cứ vào đặc điểm hồn thơ Hàn Mặc Tử
và các em phân tích, đưa được ý kiến:
- Cách hiểu thứ nhất không thật phù hợp vì chỉ dựa vào những căn cứ bề ngoài (như
bị ám ảnh và ngộ nhận vì màn sương khói – trắng quá nhìn không ra chứ đâu phải mờ
quá nhìn không ra, hay chỉ dựa thuần túy vào nghĩa sơ khai của cụm từ “nhìn không ra”),
nên khó nhìn thỏa đáng được hình ảnh thơ trong mối liên hệ với những khía cạnh sâu xa
thuộc về phong cách ngôn ngữ, cấu trúc hình tượng trong văn bản và tư tưởng của Hàn
Mặc Tử.
- Cách hiểu thứ hai phù hợp hơn vì: câu thơ thể hiện phong cách ngôn ngữ đặc thù
của tác giả “Đau thương” là cực tả ; trong hệ thống hình ảnh của thi phẩm ánh nắng,
thuyền trăng, áo trắng tất cả đều ánh lên sắc thái lạ lùng. Chúng hợp thành diện mạo một
cõi trần gian tuyệt đẹp mà thi sĩ càng mang nặng mặc cảm chia lìa bao nhiêu càng thiết
tha gắn bó hơn bao giờ hết. Thêm nữa, trong quan niệm của Hàn Mặc Tử, trinh bạch,
thanh khiết là vẻ đẹp lí tưởng mà ông say mê và khao khát. Trong thơ ông, vẻ đẹp ấy
thường hiện ra trong sắc trắng lạ lùng. Sắc áo trắng tinh khôi lóa sáng đó của người thiếu
nữ - “khách đường xa” mà ông đang khát khao mơ tưởng ấy - chính là một hiện thân của
vẻ đẹp kia. Nó là lí do khiến thi sĩ thèm được sống mãi với cõi đời này. Nói cách khác,

câu thơ cực tả sắc trắng tinh khôi khiến nhà thơ không còn tin vào trực giác gợi vẻ đẹp
trinh nguyên của đối tượng mà tác giả mải mê theo đuổi.
Đang mải mê theo đuổi bóng hình mơ tưởng, bước chân thi nhân lại chợt ngập
ngừng để rồi buột ra câu hỏi: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Khoảng chững lại ấy thể
hiện tâm tư gì của thi sĩ? . Bằng tư duy lo gic, bằng sự đồng cảm với thi nhân học sinh
nhận ra: Hiện thực hư ảo, mờ nhòe, cảm nhận rõ nét khoảng cách xa xôi giữa thế giới
ngoài kia kì diệu với thế giới trong này ảm đạm khiến nhà thơ băn khoăn, nghi ngại: sợi
dây duy nhất níu buộc mình với cuộc đời chính là cái tình của “ai” kia, ấy thế mà cái
tình kia cũng mong manh thì nhà thơ tránh sao khỏi niềm đau.
Câu trả lời của các em giúp tôi có cơ sở xây dựng tình huống học tập nhằm khai thác
sâu hơn ý nghĩa câu hỏi kết thúc bài thơ: Có ý kiến cho rằng: câu hỏi hoài nghi chứa
đựng lòng yêu đời, yêu cuộc sống đến thiết tha. Anh(chị)có đồng ý với ý kiến đó
không?Vì sao?
Bằng sự phân tích câu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà?”, các em khẳng định: Lời ướm hỏi,
thăm dò cho thấy thi nhân không dám tin vào sự đậm đà của “ai” kia. Trong tâm trạng
đó bao hàm cả một hi vọng sâu kín, chỉ không biết mình có thể tin và có quyền được tin
như thế không thôi. Nghĩa là hoài nghi của một người yêu đời, yêu sống, khát vọng về
một cuộc sống tình hơn, hoàn thiện hơn nhưng cũng đầy mặc cảm.
Sau khi định hướng cho học sinh đọc – hiểu ba khổ thơ, tôi đưa tình huống học tập
trung tâm đã được xác định: Như vậy, bài thơ được tạo nên từ ba khổ thơ, mỗi khổ thơ
đề cập đến một hình ảnh không có sự gắn bó. Phải chăng “Đây thôn Vĩ Dạ”là sự chắp
nối vụng về, rời rạc giữa ba đoạn? Có dòng chảy nào xuyên suốt các khổ thơ?. Đến
đây, với kiến thức đã có khi đọc –hiểu 3 khổ thơ, những học sinh có năng lực tư duy
logic phát hiện được: 3 khổ thơ, 3 bức tranh cảnh vật với đặc điểm khác nhau (cảnh thực

×