Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

SKKN Đóng góp của tự lực văn đoàn cho văn xuôi lãng mạn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.35 KB, 38 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN CHO VĂN XUÔI LÃNG
MẠN VIỆT NAM"
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tự lực văn đoàn ra đời vào thập kỉ ba mươi của nước ta, là kết quả của sự vận động
xã hội ở Việt Nam, từ khi xã hội thuộc địa nửa phong kiến xuất hiện một giai tầng mới là
tầng lớp thị dân và trí thức. Nó ảnh hưởng nhất định đến nền văn xuôi hiện đại Việt nam.
Qua học tập và qua thực tế giảng dạy nhiều năm cho thấy: Khi giảng một tác phẩm
nào đó, người thầy cần phải có một kiến thức rộng thì mới có cách khai thác để hiểu đúng
nội dung tác phẩm, mới tìm được một phương pháp thích hợp, nhằm nâng cao trình độ
nhận thức của học sinh.
Với ý nghĩa đó, những người viết sáng kiến kinh nghiệm này muốn cung cấp một số
kiến thức cơ bản về những đóng góp của nhóm Tự lực văn đoàn cho nền văn xuôi hiện
đại Việt Nam. Và khảo sát điều đó qua một tác phẩm cụ thể của một thành viên nhóm
“Tự lực văn đoàn” đó là truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Nội dung bài viết này không có tham vọng đi sâu, tỉ mỉ vào các đóng góp của TLVĐ,
mà chủ yếu đi một cách khái quát về những đóng góp cơ bản của tổ chức văn học này cho
văn chương nước nhà và sự ảnh hưởng của nó trong việc cách tân nền văn học nước nhà.
Từ đó đi sâu tìm hiểu một tác phẩm cụ thể: truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam,
một thành viên chủ chốt của nhóm “ Tự lực văn đoàn” để chứng minh cho những cách
tân nghệ thuật và quan điểm về sự cách tân văn học, cũng như đóng góp của nó cho văn
xuôi hiện đại Việt Nam. Từ đó có tính định hướng cho giáo viên và học sinh trong quá
2
trình dạy và học có thêm những kiến thức cơ bản và cách khai thác tiếp nhận tác phẩm
văn học của Thạch Lam.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đóng góp của TLVĐ đối với quá trình hiện đại hoá của văn học Việt nam. Phương


pháp lãng mạn trong sáng tác văn học và ảnh hưởng của nó đối với Việt nam trong ba
thập kỉ đầu của thế kỉ 20.
Nhà văn Thạch Lam và truyện ngắn “ Hai đứa trẻ”
4. GIỚI HẠN PHẠM VI NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Bài viết này nghiên cứu trong phạm vi của văn học Việt nam trong các giai đoạn
phát triển. Đặc biệt đi sâu vào phần văn học giai đoạn từ đầu thế kỉ 20 đến cách mạng
tháng Tám 1945. Đi một cách khái quát đại cương về vai trò của nhóm “ Tự lực văn
đoàn” đóng góp cho văn xuôi hiện đại Việt Nam và nhà văn Thạch Lam cùng truyện
ngắn “ Hai đứa trẻ” trong chương trình ngữ văn lớp 11 hiện hành.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về tính lí luận, tính khoa học và sự phát triển có tính qui luật của văn
học hiện đại Việt Nam, trong đó đi sâu trọng tâm vào phần kiến thức vai trò cách tân
nghệ thuật của nhóm “ Tự lực văn đoàn” cho văn xuôi hiện đại Việt Nam thập kỉ 30 của
thế kỉ XX. Đặc biệt đi sâu tìm hiểu cách khai thác và tiếp nhận tinh thần cách tân đó qua
một tác phẩm cụ thể đó là chất hiện thực và trữ tình lãng mạn trong truyện ngắn “ Hai
đứa trẻ” của Thạch Lam.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đọc và tự nghiên cứu qua các tài liệu tham khảo của các giáo sư đầu ngành về lĩnh
vực văn học Việt Nam.
3
Qua thực tiễn giảng dạy nhiều năm để rút ra những đánh giá có tính tổng quát.
Qua việc tham khảo trắc nghiệm đối với học sinh trong nhận thức vấn đề từ khái quát
đại cương đến tiếp nhận một tác phẩm cụ thể.
7. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Năm học 2009- 2010 và năm học 2010 -2011.

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Các khái niệm được nói tới trong đề tài
- Chủ nghĩa lãng mạn: Chủ nghĩa lãng mạn là một khái niệm, một thuật ngữ văn học nhằm

chỉ một trường phái sáng tác văn học xuất hiện ở châu âu thế kỉ thứ XIX. Đó là trường phái
nghệ thuật hình thành và phát triển trong hoàn cảnh của chủ nghĩa tư bản phát triển, có
nguyên tác sáng tác riêng, nhằm giải phóng cái tôi cá nhân trong trí tưởng tượng lãng mạn
bay bổng của nghệ thuật, thoả mãn được giãi bày chân thực cái tôi nội cảm của nhà văn.
Chủ nghĩa lãng mạn nhanh chóng ảnh hưởng hầu khắp các nước trên thế giới, trong đó có
Việt Nam- đó là khi lịch sử nhân loại đã sang trang của thời kì hiện đại: sự thắng thế của tinh
thần dân chủ trong xã hội tư bản khi chế độ quân chủ phong kiến nhanh chóng bị chôn vùi
bởi các cuộc cách mạng tư sản trên thế giới.
- Tự lực văn đoàn: Là một tổ chức văn học công khai theo trường phái lãng mạn của văn
học Việt Nam ra đời từ 1939 đến cách mạng tháng tám 1945. Nhóm này hoạt động mạnh
nhất, có nhà xuất bản riêng( Nhà xuất bản đời mới) kinh doanh phát đạt.
4
- Phong cách nghệ thuật: Phong cách nghệ thuật là cá tính sáng tạo riêng của mỗi nhà
văn. Phong cách nghệ thuật được hình thành từ quan điểm thẩm mĩ nghệ thuật, tư tưởng
nghệ thuật và biệt tài ngôn ngữ riêng cùng những cảm hứng sáng tác riêng, đề tài quen
thuộc của mỗi nhà văn. Phong cách nghệ thuật cá nhân còn ảnh hưởng bởi phong cách
nghệ thuật thời đại như: Trường phái văn học, phương pháp sáng tác…
- Truyện ngắn hiện đại: Truyện ngắn hiện đại là truyện được ra đời và phát triển ở thời kì
văn học đã có sự cách tân nghệ thuật theo xu hướng hiện đại. Nó có đặc điểm khác biệt
so với truyện ngắn cổ điển ở chỗ: tính sáng tạo riêng biệt theo phong cách nghệ thuật của
mỗi nhà văn,nó không bị ảnh hưởng bởi những tính ước lệ qui phạm về nội dung cũng
như hình thức nghệ thuật. Nó được viết theo thể văn xuôi, những câu văn xuôi co duỗi
nhịp nhàng theo điệu của cảm xúc tâm trạng nhân vật. Đặc biệt nó đi sâu khai thác tâm lí
nhân vật, với những rung động mong manh tinh tế nhẹ nhàng nhất, hoặc bi đát đau khổ
quằn quại nhất…
- Chất hiện thực trong một tác phẩm văn học: Là những yếu tố hiện thực đời sống được
nhà văn đưa vào tác phẩm, tái hiện nó một cách chính xác tinh vi nhất, bản chất nhất và
khaí quát nhất, điển hình nhất.
- Chất lãng mạn trong một tác phẩm nghệ thuật: Là yếu tố của cảm xúc nghệ thuật được
thăng hoa bay bổng. được biểu hiện chủ yếu là hiện thực của tâm trạng nhân vật với

những rung động tinh tế nhẹ nhàng, hay mơ hồ, hay say đắm mãnh liệt, thiết tha hoặc khổ
đau quằn quại…Nó chính là hiện thực của thế giới nội tâm vô cùng tinh tế sâu sắc của
con người. Đây cũng là nét nổi bật của yếu tố lãng mạn của chủ nghĩa lãng mạn: Nhà
văn lãng mạn thông qua hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm của mình mà nhằm giãi
bày cái tôi nội cảm của mình một cách tài hoa nhất, riêng biệt nhất.
2. Kết luận
5
Với những khái niệm trên đây, hi vọng sẽ giúp các bạn đồng nghiệp có điều kiện để
tiếp nhận một cách đầy đủ, chính xác kiến thức mà chúng tôi trình bày trong bài viết này
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI
Đóng góp của Tự lực văn đoàn cho văn xuôi hiện đại Việt Nam
Khi đọc hiểu một văn bản văn học, người đọc văn cần có kiến thức sâu rộng về vấn
đề đó như: Yếu tố lịch sử tác động như thế nào đến sự phát triển của hiện tượng văn học,
bản chất của hiện tượng văn học đó đã tồn tại và phát triển như thế nào trong quá trình
phát triển của lịch sử văn học dân tộc? Bản chất nội dung và nghệ thuật cùng những qui
tắc nghệ thuật của hiện tượng văn học hoặc trào lưu văn học…Từ sự hiểu đó mới có cơ
sở đi sâu khám phá tác phẩm cụ thể của một nhà văn cụ thể. Tiếp nhận văn học có nhiều
cấp độ, song để hiểu sâu sắc tác phẩm văn học ở góc độ lí luận khoa học thì nhất thiết
người đọc văn phải có kiến thức cơ bản về cội nguồn nảy sinh ra nó, đó là trào lưu sáng
tác và yếu tố văn hoá lịch sử tác động trực tiếp tới tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Khai
thác tác phẩm văn học phải dựa trên cơ sở lí luận đó mới mong có sự tiếp nhận đúng đắn,
sâu sắc.
1. Yêu cầu của lịch sử đối với cuộc cách tân văn học.
Hiện thực đời sống xã hội không chỉ là đối tượng phản ánh của một nền văn học nhất
định, mà còn là một nhân tố làm nảy sinh chính nền văn học ấy. tronh mối quan hệ biện
chứng này, ở đầu thế kỉ 20 ở nước ta đã xuất hiện đầy đủ tiền đề cho một nền văn học
hiện đại ra đời.
Đầu thập kỉ 20 của thế kỉ 20, thực dân Pháp đã thực hiện ở Việt Nam hai cuộc khai
thác thuộc địa để bù đắp vào lỗ hổng kinh tế trong nước do cuộc đại chiến thế giới thứ hai
6

gây ra. Xã hội Việt Nam do đó cũng biến đổi theo. Giai cấp tư sản Việt Nam tuy còn yếu
ớt, hình thành từ cuộc khai thác lần thứ nhất, đến giữa thập kỉ 20 bắt đầu hoạt động khá
mạnh. Một số đơn vị kinh doanh nổi tiếng xuất hiện ở ba miền Nam, Trung, Bắc. Các đô
thị mọc lên rất nhanh theo đà phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Việc buôn bán
cũng bắt đầu sôi động ở các thành phố lớn. Bộ máy viên chức của thực dân và phong kiến
đã có một qui mô hoàn chỉnh. Một tầng lớp tiểu tư sản đến đầu thập kỉ 30 đã chiếm một tỉ
lệ không nhỏ trong dân số đô thị. tầng lớp này bao gồm các tiểu thương, tiểu chủ, viên
chức, giáo viên, học sinh, sinh viên, những người làm nghề tự do ( luật sư, nhà báo, nhà
văn ) lên tới 35 vạn người. Hầu hết các tầng lớp và giai cấp trên đây đều sống ở đô thị.
Một lối sống tư sản hoá được gọi là “ văn minh thành thị” lan tràn trong tầng lớp tư sản
và tiểu tư sản trên.
Năm 1915 Thực dân Pháp bắt buộc bãi bỏ khoa thi Hương ở Bắc kì, năm 1919 khoa
thi hội cuối cùng cũng bác bỏ ở Huế, kết thúc một khoa cử nặng nề thối nát. Từ đây trong
các trường học người ta say sưa học tiếng Pháp, văn học pháp
Sự tiếp xúc văn hoá trên đây đã đem đến cho tầng lớp thanh niên tiểu tư sản những tình
cảm mới, rung động mới họ yêu đương mơ mộng, vui buồn không giống các cụ ngày xưa.
Điều mà ông Lưu Trọng Lư nêu lên công khai trong buổi diễn thuyết tại nhà học Qui Nhơn
hồi tháng 6 năm 1943 : “ Các cụ ta ưa các màu đỏ choét, ta thì ưa các màu xanh nhạt. Nhìn
một cô gái ngây thơ xinh đẹp , các cụ cho là tội lỗi, ta thì như dược đứng trước một cánh
đồng xanh mát mẻ. Cái ái tình của các cụ chỉ là hôn nhân, ta thì đủ muôn hình vạn trạng:
Cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây lát, cái tình ngàn thu ”.
Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây và lối sống đô thị hoá cũng làm cho ý thức cá
nhân nảy nở và phát triển khá nhanh lấn át ý thức cộng đồng xưa cũ. Họ muốn khẳng
định cái tôi cá nhân trong gia đình và ngoài xã hội, và muốn khẳng định điều đó trong
7
văn chương. Họ có quan điểm hoàn toàn khác với thế hệ trước về cái đẹp, về đạo đức
nhân sinh, đặc biệt là về văn học nghệ thuật. Họ cho rằng những qui phạm chặt chẽ của
nền văn học cổ đã là vật cản trên chặng đường tự do dân chủ hoá nền văn học nước nhà.
Họ lên tiếng chống lại sự trói buộc của thi pháp cổ mang tính phi ngã một thời đã là mẫu
mực của văn học nghệ thuật. Họ đòi hỏi phải cách tân để thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ mới,

và kích thích cá tính sáng tạo trong văn học nghệ thuật.
2. Vai trò của Tự lực văn đoàn trong cuộc cánh tân văn học Việt Nam.
2.1 Tinh thần chung
Tự lực văn đoàn là một tổ chức văn học ra đời năm 1939, và tồn tại cho đến trước
cách mạng tháng Tám. Trụ sở đặt tại 80 đường Quán Thánh Hà Nội. Số thành viên gồm:
Nguyễn Tường Tam( Nhất Linh ; Bảo Sơn: Truyện ngắn; Đông Sơn: vẽ ; Tân Việt: thơ)
Nguyễn Tường Long( Hoàng Đạo, Tứ Li) Nguyễn Tường Lân ( Thạch lam), Trần Khánh
Dư (Khái Hưng, Nhị linh), Hồ trọng Hiếu (Tú Mỡ), Nguyễn Thứ Lễ(Thế lữ, Lê Ta), về
sau thêm Ngô Xuân Diệu và Trần Tiêu.
Ngoài số thành viên này ra còn có sự cộng tác của nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng khác
như: Trần Phú Tứ, Thanh Tịnh, Huy Cận,Tô Ngọc Vân, Cát Tường
Tôn chỉ của tự lực văn đoàn gồm 10 điểm sau
1. Tự sức mình làm ra những giá trị văn chương chứ không phiên dịch sách nước
ngoài, mục đích làm giàu thêm văn hoá nước nhà.
2. Soạn hay dịch những sách có tư tưởng xã hội, chú ý làm cho con người và xã hội
ngày một hay hơn.
3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những sách có tính cách bình dân, và cổ động người
khác có tư tưởng bình dân.
8
4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối văn có tính cách An Nam.
5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.
6. Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nước ta mà có tính cách bình dân, khiến cho
người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân, không có tính cách trưởng giả quí
phái.
7. Trọng tự do cá nhân.
8. Làm cho người ta hiểu rằng đạo Khổng không hợp nữa.
9. Đem những phương pháp văn học Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam
10. Theo 1 trong 9 điều này cũng được, miễn là đừng trái với những điều khác.
Tôn chỉ của TLVĐ đã thể hiện hoài bão về văn hoá dân tộc. Đặc biệt là đề cao cá
tính sáng tạo và quyền tự do cá nhân. Trong lịch sử phát triển nhân loại, chủ nghĩa cá

nhân là một một bước tiến bộ trong quá trình con người giành quyền sống.
Đa sầu, đa cảm trở thành cái mốt trong sáng tác thơ văn: Không ốm mà rên, không
đau cũng khóc, người ta gọi đó là căn bệnh thời đại. Chủ trương của TLVĐ là nhằm xua
tan căn bệnh đó.
Chủ trương của TLVĐ phấn đấu cho sự tiến bộ của văn học.
- Cổ vũ phong trào Thơ Mới:
Nhà làm thơ cũ cân nhắc từng chữ, cốt ý để câu văn được chuẩn, đọc lên nghe cho
kêu, có những chữ đối chọi thần tình, khéo léo. Nhà làm thơ mới cân nhắc từng chữ xem
chữ nào diễn dạt được cái cảm của mình, tả được cái ý của mình đúng hơn hết xem phải
cần đến chữ nào, câu thơ mới có điệu khả dĩ tả được sự rung động của linh hồn.
9
Thơ cũ chưa bao giờ tả được như thơ mới những cảnh vui hay buồn, âm thầm hay
lộng lẫy, những nỗi yêu thương nhớ tiếc hay lo sợ, những tính tình trong lòng người, cao
hơn nữa những sự nhiệm màu huyền bí của đời người, của vũ trụ. Những bài thơ của Thế
lữ đã chứng tỏ rằng thơ mới đã vượt qua sự chật hẹp của thơ cũ mà đi vào con đường
khác rộng rãi tốt đẹp hơn.
Trong một bài viết Lê Ta đã thẳng thắn bênh vực thơ mới: “ Các ông không biết
rằng thơ bao giờ cũng phải có luật không phải cái luật hẹp hòi, hạn câu, chọn chữ là
một lối rất tiện cho những người khúm múm thi thố cái tiểu xảo của mình. Nhưng thơ
phải có luật cao siêu hơn, thiêng liêng hơn: Mình biểu lộ tâm trạng mình một cách êm ái
hay tha thiết, hùng tráng du dương theo cái bản lĩnh của riêng mình, không bao giờ chịu
theo tư tưởng tình cảm của người khác”
2.2. Những đóng góp về nội dung tư tưởng của văn xuôi Tự lực văn đoàn.
a. Đấu tranh nhằm giải phóng cái tôi cá nhân ra khỏi sự ràng buộc của lễ giáo và chế độ
đại gia đình phong kiến.
Phẩm chất tư tưởng nổi bật trong tiểu thuyết của TLVĐ là chống lễ giáo phong kiến
khẳng định bản ngã xã hội. Phần lớn các tác phẩm của Khái hưng, Nhất linh đều nhằm
khẳng định cái tôi cá nhân của những con người hấp thụ nền văn minh Âu hoá. Đòi tự do
yêu đương, tự do kết hôn, chống lại sự can thiệp thô bạo của lễ giáo đại gia đình phong
kiến.

Thực ra, ý thức cá nhân từ trước đã xuất hiện trong lớp nhà Nho tài tử phóng khoáng.
Đó là loại Nho sĩ quí trọng tài tình, sắc đẹp hơn phúc ấm công danh. Mong ước gặp giai
nhân hơn cả minh quân lương tướng. Chính “những đứa con hư” của giai cấp phong kiến đó
đã sáng tác ra những khúc ngâm chứa chan tình cảm, những truyện nôm ca tụng tình yêu,
những bài ca trù phóng khoáng.
10
Trong thực tế, lễ giáo phong kiến tồn tại bao đời bám rễ rất sâu vào ý thức của nhiều
thế hệ thời đại gia đình phong kiến, vẫn còn là lực cản của ý thức cá nhân. Điều này đã
được phản ánh trong Tố Tâm của Hoàng Ngọc phách. Đạm Thuỷ và Tố Tâm yêu nhau
nồng nàn say đắm tưởng có thể vượt qua được lễ giáo phong kiến để tiến đến cái đích
cuối cùng của tình yêu. Nhưng họ đã bị lễ giáo phong kiến chặn đứng. ý thức cá nhân hồi
đầu thế kỉ 20 chưa đủ mạnh để bắt lễ giáo khuất phục. Cuối cùng Đạm Thuỷ đã khuyên
Tố Tâm đầu hàng. Tố Tâm phải miễn cưỡng xuất giá lấy người chồng mà nàng không
yêu. Sau đó ốm tương tư mà chết.
Đến vai trò của TLVĐ, mở màn cho cuộc đấu tranh này là Khái Hưng với “Hồn
bướm mơ tiên”. Là câu chuyện tình lãng mạn của đôi trai gái. Lan là một thiếu nữ xinh
đẹp, mồ côi cha mẹ từ bé, phải ở với người chú. Ông này bắt Lan phải lấy con một nhà
giàu trong làng. Nàng không chịu nên đã đi tu ở chùa Long giáng. Tại đây, Lan gặp
Ngọc, là cháu của sư cụ trụ trì ngôi chùa này. hai người yêu nhau và chỉ nguyện yêu nhau
trong tâm ttưởng. Một tình yêu thoát tục nấp dưới bóng của từ bi phật tổ. Tiếp truyện này
Khái Hưng viết tiếp “ Nửa chừng xuân” với nhân vật cô Mai, đã khẳng định ý thức cá
nhân rất rõ rệt, một tinh thần đấu tranh chống lễ giáo phong kiến tương đối quyết liệt.
Mai và Lộc yêu nhau, lúc đầu họ bất chấp sự ngăn cản của bà Phán- mẹ Lộc. Mai có thai,
bà Phán đã tìm cách chia rẽ đôi tình nhân bằng cách mạo một bức thư tình của một chàng
trai khác viết cho Mai và cố tình để cho Lộc nhìn thấy. Lộc ghen, hiểu lầm Mai. Mai
cùng em trai bỏ lên Phú Thọ sinh sống. Bà Phán bắt Lộc lấy vợ khác, đáng tiếc vợ Lộc lại
vô sinh. Khi biết Mai có con trai với Lộc, bà Phán đã lên Phú Thọ định bắt cháu nội về.
Mai kiên quyết không cho bà Phán bắt. Lộc hiểu ra vấn đề, đau khổ có ý nối lại duyên
tình với Mai, song cô kiên quýêt từ chối. Mai nói với Lộc lời chia tay vĩnh viễn “ Hai ta
tuy ở hai nơi, nhưng tâm hồn luôn nhớ về nhau là được rồi”. Qua nhân vật Mai ta thấy

truyện của Khái Hưng đã đề cao tinh thần tự do yêu đương, dám yêu và dám vượt lễ giáo
11
phong kiến để thoả mãn nhu cầu hạnh phúc lứa đôi không còn thuần tuý trong tâm tưởng
mà đã vượt rào phong kiến để hưởng thụ hạnh phúc đích thực cả về tâm hồn lẫn thể xác.
Một mặt ta thấy ý thức về cái tôi cá nhân của Mai rất cao. Mai dám làm dám chịu, Mai
không cam chịu làm vợ bé như bao người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến.
Tiểu thuyết “Lạnh lùng” và “Đoạn tuyệt” của Nhất Linh được xem là bản tuyên
ngôn của lớp thanh niên mới chống chế độ đại gia đình phong kiến lúc bấy giờ. Một số
cuốn tiểu thuyết của tự lực văn đoàn như “Nửa chừng xuân”, “Đoạn tuyệt”, “Lạnh
lùng” một mặt đã phản ánh khát vọng cháy bỏng được tự do trong tình yêu và hôn nhân
của tuổi trẻ, mặt khác cổ vũ họ trong cuộc đấu tranh đòi bản ngã và quyền sống. Vì vậy
một số tác phẩm của Tự lực văn đoàn vừa có tính chiến đấu, tính hiện thực và tinh thần
nhân văn.
b. Những biểu hiện của tinh thần dân tộc.
Tinh thần dân tộc là một trong những vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam.Tinh thần ấy được
phản ánh trong nghệ thuật, là nét đặc trưng nghệ thuật nổi bật của văn học chân chính từ
trước đến nay. Đó là niềm tự hào về đất nước Việt Nam tươi đẹp, về truyền thống văn
hoá độc đáo, là lòng thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống sản xuất và chiến
đấu, là ý thức tự chủ tự cường, ý chí bất khuất trước kẻ thù xâm lược Những yếu tố trên
đây của tinh thần dân tộc ít nhiều đều tìm thấy trong tác phẩm của TLVĐ.
Thực ra trước khi TLVĐ ra đời, Nguyễn Tường Tam đã bộc lộ thái độ phê phán gay
gắt đối với chế độ thuộc địa đương thời qua truyện ngắn “Người quay tơ”và “nô lệ”. Đó
là câu chuyện về một thanh niên trí thức tham gia phong trào yêu nước bị thực dân Pháp
bắt đầy ra Côn Đảo. Người vợ ở nhà quay tơ dệt lụa nuôi dưỡng mẹ chồng. Mẹ mất, nàng
xin nhà nước ra Côn Đảo với chồng và sinh được một đứa con trai. Nghe lời khuyên của
chồng, nàng đưa con về quê, ít lâu sau được tin chồng tự tử, rồi tiếp đến con chết, nàng
12
quá đau khổ hoá điên. Tác phẩm là lời lên án chế độ thực dân đương thời. Tất nhiên, dưới
sự kiểm duyệt gắt gao của thực dân, nên nhà văn chỉ dùng cách nói ám chỉ.
Tinh thần dân tộc cũng dễ dàng nhận thấy ở những trang phóng sự của Hoàng Đạo

trong “ Trước vành móng ngựa”. Đây là tập phóng sự vừa có tính hài biếm, vừa có giọng
điệu bi thương. Sau khi tốt nghiệp cử nhân luật, Hoàng Đạo được bổ làm tham tán lục sự
ở toà án. Có lẽ trong thời gian này ông đã thu thập được nhiều điều tai nghe mắt thấy ở
các phiên toà để dựng nên phóng sự này.Những trang viết của ông đề cập đến nhiều vấn
đề xã hội đương thời: Từ tội ác của thực dân đầu độc và bần cùng hoá nhân dân, cho đến
nỗi thống khổ mà nhân dân lao động phải chịu.
Chỉ điểm qua một vài tác phẩm ta cùng thấy rõ tiếng nói yêu nước, tinh thần dân tộc
của văn xuôi TLVĐ.
2.3. Những cách tân trong nghệ thuật văn xuôi.
a. Một bước tổng hợp mới giữa ảnh hưởng của văn hoá Đông, Tây và truyền thống văn
học dân tộc.
Trong cuốn “ Thi nhân Việt Nam” Hoài Thanh đã viết: Sự gặp gỡ với các nước
phương Tây là một cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam trong mấy mươi thế
kỉ”.
Các nhà tiểu thuyết Việt Nam tiếp thu được những tư tưởng tiến bộ của các nhà tư
tưởng Pháp. Học tập được ở các nhà văn lớn của pháp cách tiếp cận hiện thực, cách kết cấu
tác phẩm cho đến cách xây dựng nhân vật, ngôn ngữ diễn tả. Họ hướng đề tài vào tất cả
các lĩnh vực trong đời sống xã hội, quan tâm tới từng số phận của mỗi cá nhân trong cộng
đồng. Kết cấu tiểu thuyết hiện đại đã xa rời với lối tiểu thuyết chương hồi thời phong kiến.
Thời gian nghệ thuật không tuân theo trình tự vật lí mà đan xen, phức tạp. Tiểu thuyết
hiện đại quan tâm dựng tính cách nhân vật nhiều hơn là mô tả các sự kiện xã hội. Đi sâu
13
vào miêu tả tâm lí nhiều hơn là nói về các mối quan hệ đơn thuần.Ngôn ngữ gần gũi với
đời sống hàng ngày trong cuộc sống thực. Cách diễn đạt trong sáng, không còn lối văn
biền ngẫu, những ước lệ qui phạm nặng nề.
b. Một bước tiến mới trong nghệ thuật miêu tả nhân vật và thiên nhiên.
Với tiểu thuyết, nhân vật là phương tiện chủ yếu để nhà văn khái quát cuộc sống, là
yếu tố cơ bản để thể hiện tư tưởng chủ đề.
- Tiểu thuyết của TLVĐ đã cách tân trong việc miêu tả nhân vật ở nhiều phương
diện.

- Tả vẻ đẹp thể chất- Ngoại hình nhân vật thường đẹp dù nhân vật đó là loại người
nào trong xã hội.
- Đi sâu tả thế giới nội tâm nhân vật, với những biến thái tinh tế của cảm xúc, suy
nghĩ.
- Miêu tả thiên nhiên trong mối quan hệ hoà hợp với con người.
c. Sự đổi mới cốt truyện và kết cấu trong các thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn.
Cốt truyện là một chuỗi các sự kiện liên quan với nhau một cách nghệ thuật, phản
ánh cuộc sống và các xung đột xã hội. Qua đó tính cách được hình thành và phát triển
trong các mối quan hệ qua lại nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm
Kết cấu của văn xuôi TLVĐ chú ý tới từng chi tiết của tính cách nhân vật để góp
phần bộc lộ rõ nhất tính cách nhân vật.
d. Sự đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu văn xuôi.
Ngay từ khi thành lập TLVĐ đã chủ trương mộ lối văn bình dân, có tính cách An
Nam. Câu văn xuôi co xuỗi nhịp nhàng theo điệu của cảm xúc và tính cách nhân vật, chứ
14
không khuôn mẫu cứng nhắc như văn học cổ. Ngôn ngữ là lời ăn tiếng nói của cuộc sống
đời thực.
Kết luận.
Những kiến thức khái lược trên đây sẽ gợi ý cho học sinh và giáo viên có cách tiếp
cận tốt hơn với văn xuôi lãng mạn Việt nam một thời đã làm say đắm bao trái tim độc giả
và cho đến ngày nay nó vẫn còn nguyên giá trị.
Việc áp dụng những kiến thức văn học trên đây đã đem lại cho giáo viên khi giảng
dạy có một độ thoáng nhất định trong quá trình hướng dẫn học sinh tiếp cận các tác phẩm
trong chương trình học. Bản thân học sinh cảm thấy hứng thú khi tiếp xúc với những kiến
thức mới, tạo được độ gợi mở trong tư duy nghệ thuật. Đặc biệt là với đối tượng học sinh
khá giỏi. Các em sẽ có một cái nhìn tổng quát về một vấn đề văn học. Do vậy việc nghiên
cứu trên đây không chỉ bổ ích cho thầy dạy mà còn có ích cho học sinh trong quá trình
học tập và thi cử.
CHƯƠNG III: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
THỨ NHẤT: TÌM HIỂU YẾU TỐ HIỆN THỰC VÀ CHẤT TRỮ TÌNH LÃNG

MẠN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA THẠCH LAM
Để rõ hơn cho đóng góp của Tự lực văn đoàn đối với văn xuôi Việt Nam hiện đại,
phần tiếp theo chúng ta sẽ xét một truyện ngắn xuất sắc của một thành viên của nhóm-
nhà văn Thạch Lam với truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Bài viết không tham vọng đi sâu làm rõ cho những vấn đề như : cách tân về nghệ
thuật; những biểu hiện của tinh thần dân tộc; vấn đề đấu tranh giải phóng cái tôi cá nhân
ra khỏi lễ giáo phong kiến Biết rằng đây là những đóng góp lớn của Tự lực văn đoàn và
15
cũng là của trào lưu văn học lãng mạn 30 – 45 nói chung đối với văn xuôi Việt Nam hiện
đại. Song trong khuôn khổ của một bài tập nhỏ, hơn nữa tính thiết thực cho việc giảng
dạy ở nhà trường phổ thông là cần thiết.Vì thế bài viết này, tập trung đi sâu tìm hiểu và
làm rõ : “Yếu tố hiện thực và chất trữ tình lãng mạn trong một truyện ngắn của Thạch
Lam”. Đây cũng là nét riêng mới mẻ góp phần làm nên diện mạo chung phong phú cho
nền văn xuôi Việt Nam hiện đại mà nhóm Tự lực văn đoàn đã đưa lại. Hơn nữa, vấn đề
đưa ra để tìm hiểu trong bài viết này cũng là một trong những định hướng quan
trọng,đúng đắn và thiết thực cho việc thiết kế bài giảng về truyện ngắn Hai đứa trẻ trong
chương trình giảng dạy lớp 11 ở cả chuẩn và nâng cao.
1. Nhà văn Thạch Lam
Thạch Lam ( 1909 – 1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh sau đổi thành Nguyễn
Tường Lân, quê nội làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam. Quê ngoại Cẩm Giàng, Hải
Dương. Thuở nhỏ, Thạch Lam sống với gia đình ở quê ngoại, sau đó theo cha chuyển
sang Thái Bình tiếp tục bậc tiểu học. Lớn lên, ông cùng gia đình chuyển ra Hà Nội, học
trường Canh nông. Thạch Lam bắt đầu hoạt động văn học từ 1932, thành viên của nhóm
Tự lực văn đoàn. Ông tham gia biên tập các tờ tuần báo Phong hoá, ngày nay. Thạch Lam
mất vì bệnh lao tại Hà Nội.
Tác phẩm chính: Các tập truyện ngắn Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938)
Sợi tóc (1942), tiểu thuyết Ngày mới ( 1939) tập tiểu luận Theo dòng ( 1941)
Văn chương của Thạch Lam là những trang đẹp. Cho đến nay nó càng lôi cuốn tâm
hồn những con người đương đại, những con người đã trải qua hai cuộc chiến có và lửa
thảm khốc. Thoát ra khỏi không gian, thời gian của

“ Vầng trăng quầng lửa”. Con người hôm nay tìm về Thạch Lam như nhu cầu tìm về một
cõi hiền hoà, yên tĩnh, dịu dàng… về một cõi mình có thể lắng nghe mình, về thời gian
16
của “ Gió đầu mùa” Về không gian của “ Nắng trong vườn”, hương vị của “ Hà Nội băm
sáu phố phường”
Văn chương của Thạch Lam là những trang hiện thực thoáng qua, những dấu ấn còn
lại trong cảm nhận của ta sau một cơn gió nhẹ…dấu ấn miên man. đó là chủ nghĩa hiện
thực không tả thực, một chủ nghĩa hiện thực mĩ thuật. ở đây không có rùng rợn và bão
tố, không có sần sùi gồ ghề kịch tính…tất cả chỉ đẹp và tinh tế; Những “ Dưới bóng
hoàng lan” “ Đứa con đầu lòng”…đi nhẹ vào tâm thức ta, sâu lắng, khó quên.
Thời văn học Việt Nam thập kỉ 30- 40, các tư tưởng nghệ thuật dẫu đứng phía nào, ở
nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh, ở chủ nghĩa hiện thực hay chủ nghĩa
lãng mạn…cũng đều ở trình độ giản đơn. Các nhà tư tưởng nghệ thuật thuở ấy mang cấu
trúc tư duy tam đoạn luận. Do vậy tính biện chứng bị vắng bóng. Họ chưa thấy được
nghệ thuật và văn chương là hoạt động nhiều chiều và có khi chúng ngược nhau, đan dệt
vào nhau. Cho nên các cuộc tranh cãi bất phân thắng bại.
Trong bối cảnh ấy, Thạch Lam xuất hiện như một tư tưởng về sứ mệnh của văn
chương. Thạch Lam đặt văn chương đối diện với một sứ mệnh toàn vẹn. Trong lời tựa “
Gió đầu mùa” ông viết: “ Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người
đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là thứ khí giới thanh cao đắc lực mà
chúng ta có, để và tố cáo và thay đổi một cái thế giới đầy giả dối và tàn ác,vừa làm cho
lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn…” So với thời đại của mình, tư tưởng
nghệ thuật này của Thạch Lam tỏ ra hiểu văn chương hơn cả. Thạch Lam sống và làm
việc với những ngưòi bạn chí thân trong “ Tự lực văn đoàn”, những Thế Lữ (tôi chỉ là
người bộ hành phiêu lãng, đường trần gian xuôi ngược thú vui chơi) những Xuân
Diệu( tôi là con chim, đến từ núi lạ, ngứa cổ hót chơi…) thế mà ông vẫn cứ lắc đầu!
17
Trong một cảm nhận thú vị và khâm phục về thơ mới, nhà phê bình Hoài Thanh đã
viết: “ Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên
cuồng cùng với Hàn MặcTử – Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động

tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ… ta ngẩn ngơ
buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận” ( thi nhân Việt Nam) Thoát li và quên lãng, xét cho
cùng cũng là một thái độ phản kháng thực tại. Nhưng nó không nhập cuộc, Thạch Lam
muốn có một cái thế nhập cuộc của văn chương. Văn chương, với Thạch Lam phải là một
thứ khí giới.
Con người sinh ra văn chương, mong muốn nó trở thành một công cụ chiêbs đấu cho
hạnh phúc của con người. Văn chương Thạch Lam là thứ khí giới thanh cao, vì nó đến
nơi thanh cao của tâm hồn con người mà trú ngụ.
Không như nhiều nhà văn lãng mạn thời đó mải mê với những ước vọng cải lương về
một “ con đường sáng” hoặc say cảnh “hồn bướm mơ tiên” thoát ly thực tế,Thạch Lam
hướng ngòi bút của mìnhvào hiện thực đời sống để phát hiện “Những cảnh ngộ nghịch
trái, đồng thời cũng là để đi sâu vào những tâm trạng, tâm tình, cảm xúc, cảm giác”
(Nguyễn Tuân). Bằng các sáng tác như : Gió lạnh đầu mùa; Nhà mẹ Lê; Cô hàng xén và
Hai đứa trẻ Thạch Lam đã chứng minh cho quan niệm văn chương rất đỗi lành mạnh và
tiến bộ của mình “Đối với tôi, văn chương không là một cách đem đến cho người đọc sự
thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực, mà
chúng ta có được để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho
người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Sở trường của Thạch Lam là truyện ngắn, nhưng là truyện dường như không có
chuyện – là loại truyện tâm tình, nhà văn chú trọng khai thác thế giới nội tâm nhân vật
với những tình cảm, cảm xúc, cảm giác mơ hồ mong manh trong cuộc sống thường ngày.
18
Mỗi truyện của Thạch Lam như một bài thơ trữ tình, giọng điệu nhỏ nhẹ, điềm đạm, lời
văn trong sáng giản dị mà thâm trầm sâu sắc. trong mỗi trang viết đều chứa đựng tình
cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm của nhà văn đối với con người và cuộc đời.
Trong rất nhiều truyện ngắn của ông, ta thấy có sự hoà quyện giữa hai yếu tố hiện thực và
trữ tình lãng mạn.
Yếu tố hiện thực : trước hết là sự định hướng rõ ràng của ngòi bút - viết về những
người lao động nghèo. Đó là những công chức, thị dân, nông dân có số phận cơ cực bởi
gánh nặng cơm áo, hoặc quanh quẩn mỏi mòn trước cảnh đời vô nghĩa; không gian của

truyện thường là nơi phố huyện nhỏ tiêu điều, hoặc một xóm ngoại ô nghèo.
Yếu tố lãng mạn trữ tình : trong truyện của mình, Thạch Lam chú ý khai thác thế
giới nội tâm con người, nhưng ít chú ý đến đời sống tâm lý(đ/s duy lý), khía cạnh này ta
thường gặp trong các tác phẩm văn xuôi hiện thực phê phán; còn truyện ngắn của Thạch
Lam xem xét nhiều hơn ở đời sống tâm hồn(đ/s duy cảm), với tất cả những biến thái tinh
vi, mơ hồ mong manh nhất của nó, mà ta thường thấy trong thơ lãng mạn như thơ Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử Do đó hiện thực trong văn Thạch lam là hiện thực của tâm
hồn, hiện thực thấm đẫm cảm xúc cá nhân. Đó cũng là một trong những lý do khiến cho
văn Thạch Lam rất giàu chất thơ.
2. Yếu tố hiện thực và chất lãng mạn trữ tình trong truyện ngắn " Hai đứa trẻ" của
Thạch Lam.
“Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn đặc sắc và cũng rất tiêu biểu cho văn
phong Thạch Lam, in ở tập truyện Nắng trong vườn (xuất bản 1938). Cũng như nhiều
truyện ngắn khác của ông, truyện ngắn Hai đứa trẻ có sự hoà quyện của hai yếu tố hiện
thực và lãng mạn trữ tình.
19
2.1. Yếu tố Hiện thực đời sống được phản ánh trong truyện là cảnh đời đơn điệu, hiu
hắt, những kiếp người tàn tạ ở một phố huyện nhỏ vào lúc hoàng hôn, đêm và đêm
khuya. Với ba thời khắc ấy, tác giả đã tạo nên ba bức tranh nhỏ về phố huyện được ghép
lại liên hoàn với nhau:
- Phố huyện lúc hoàng hôn
- Phố huyện lúc đêm
- Phố huyện lúc đêm khuya
Ba bức tranh đều được xây cất từ chất liệu đời sống, bằng những chi tiết chân thực.
Song, ở đây ta xét sẽ yếu tố hiện thực của thiên truyện ở hai khía cạnh sau:
a. Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện vào thời khắc của ngày tàn tới đêm khuya,
trước hết:
- Về thời gian: nhà văn chọn khung cảnh buổi chiều tàn, mở đầu là tiếng trống thu không
gọi buổi chiều, những đám mây hồng ở phương tây ánh lên như hòn than sắp tàn rồi kết
thúc bằng đêm khuya, cả phố huyện yên tĩnh đầy bóng tối.

- Về không gian: đó là buổi chiều và đêm khuya của một ngày hè nơi phố huyện, có âm
thanh, ánh sáng, có gió nhẹ, có cánh đồng và con đường mấp mô những hòn đá nhỏ, có
các cửa hàng hai dãy phố, một vòm trời đêm mượt như nhung với hàng ngàn sao lấp lánh.
Tả cảnh chiều tàn nhất là đêm khuya Thạch Lam đã chọn và đặc tả hai chi tiết:
+ Âm thanh: “tiếng trống thu không, từng tiếng vang xa để gọi buổi chiều ”;văng vẳng
tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, tiếng người nói năng, trò truyện nhỏ nhẹ. Đêm khuya,
khi mọi người đã buồn ngủ thì tiếng trống cầm canh “đánh tung lên một tiếng khô
khan”.Và liền sau đó, đoàn tàu từ Hà Nội chạy qua phố huyện “tiếng bánh xe rít mạnh
20
vào ghi đoàn tàu rầm rộ đi tới”. Nhưng chỉ chốc lát, toàn phố huyện chỉ còn đêm khuya,
tiếng trống cầm canh, tiếng chó sủa xa xa, kết thúc là đêm yên tĩnh tịch mịch.
+ ánh sáng: ngày tàn –phương tây đỏ rực như lửa cháy, những đám mây hồng như hòn
than sắp tàn. màn đêm buông xuống là ánh sáng của ngàn sao lấp lánh, lẫn với vệt sáng
của những con đom đóm bay là là trên mặt đất. Dưới đất toả ra những quầng sáng nhỏ
nhoi nhưng thân mật, thân mật của gánh phở bác Siêu, ngọn đèn con hàng nước của chị
Tí Nửa đêm, phố huyện bừng lên những vầng sáng mới của ánh đèn sáng trưng trên các
toa tàu, kền và cửa kính lấp lánh, hoà với những âm thanh rộn rã, những quầng sáng này
đã làm bừng dậy trong lòng người niềm vui và nuôi dưỡng những hy vọng, tuy mơ hồ
nhưng trong trẻo.
Tóm lại: Đó là bức tranh quê bình dị, yên ả quen thuộc như bao miền quê thôn dã
của đất Việt, tuy buồn nhưng thơ mộng. Bức tranh gợi ra cái hồn của làng quê xưa.
b. Bức tranh về đời sống con người nơi phố huyện có lựa chọn, chân thực, ở những
thời điểm khác nhau:
- Lúc cảnh chợ phiên đã tàn: trên bãi đất trống không chỉ còn lại “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ
thị, lá mía, lá nhãn cùng với mùi nồng ngái bốc lên từ đất”. Những đứa trẻ con nhà
nghèo đang “lom khom” đi lại tìm kiếm nhặt nhạnh Những người đi chợ đang xỏ gánh,
nói nốt với nhau những câu cuối cùng, rồi đi dần vào những ngõ quê đang ngập đầy bóng
tối. Chị em Liên không bán được gì, ngoài vài thứ lặt vặt nhỏ mọn. Đó là hình ảnh một
vùng quê nghèo xơ xác với những kiếp người lam lũ.
- Lúc trời “nhá nhem”, những con người nơi phố huyện lại hiện ra với những công việc

của họ mà hôm qua, hôm nay, ngày mai họ đã làm, lại làm và sẽ làm: mẹ con chị Tý hàng
nước, bác Siêu với gánh phở rong, gia đình bác xẩm và bà cụ Thi điên Đó là cuộc sống
tù đọng nhợt nhạt, nhàm chán và vô vị.
21
- Đêm tối lại về : cả phố huyện chìm nghỉm trong bóng tối. Người ta chỉ nhận ra cuộc
sống phố huyện qua những đốm sáng leo lét: hột, khe ,chấm, đặc biệt là ngọn đèn con
của chị Tý hàng nước “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”được lặp lại nhiều lần trong
trang truyện đầy dụng ý. Những con người nơi đây mỗi người một cảnh ngộ, một niềm
khao khát khác nhau, nhưng đều giống nhau là đợi chuyến tàu đêm từ Hà Nội đi qua rồi
mới đi ngủ. Bằng ầy con người trong bóng tối vẫn kiên trì hy vọng: “mong đợi một cái gì
tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.
Tóm lại: Dựng lên bức tranh phố huyện nghèo với những chi tiết về thời gian, không
gian, cuộc sống con người như thế ngòi bút Thạch Lam đậm chất hiện thực. Cái phố
huyện ấy đang mất dần sinh khí, sự sống như đang đuối dần. Đó là cái không khí lụi tàn
mòn mỏi từ thời gian tới không gian, từ con người tới đồ vật, từ giọng điệu tới nhịp
điệu
2.2. Yêú tố lãng mạn trữ tình của thiên truyện được thể hiện tập trung qua việc miêu tả
nội tâm nhân vật Liên – một cô bé mới lớn, đã có thời gian sống ở đất Hà Thành hoa lệ.
Tuy gia cảnh khó khăn, nhưng có tấm lòng nhân hậu, nhạy cảm, những trạng thái cảm
xúc, cảm giác buồn xót thương cho mình, cho những kiếp người tàn tạ không hạnh phúc,
tương lai và không nguôi khao khát nhớ thương chờ đợi, hy vọng vào một ngày mai tươi
sáng.
- Được mẹ giao trông coi cái cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu giữa phố huyện nghèo thưa
vắng, số tiền thu được là nguồn thu phụ của gia đình, kể từ ngày bố Liên mất việc làm.
Giữa cảnh đời hiu hắt, nhưng chị vẫn yêu cuộc sống bằng cả tâm hồn thuần phác đôn hậu.
Trước thời khắc ngày tàn “ đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều
quê thấm thía vào tâm hồn thơ ngây của chị”. Liên thấy lòng buồn man mác, vì thời khắc
của ngày tàn gợi ra cái hữu hạn của đời người trước cái vô hạn, vô tận của thời gian mà
22
cảm nhận xót xa cho sự vô danh, vô nghĩa của kiếp người. Liên không chỉ buồn trước

cảnh sắc của ngày tàn mà còn xót xa trước cảnh nhân thế tàn tạ: Nỗi vất vả của mẹ con
chị Tý hàng nước, sự nghèo khổ của những em bé nhặt rác,bà cụ Thi điên Tất cả những
mảnh đời ấy, khiến chị động lòng thương. Điều đáng quí ở Liên, chị không thu mình lại
trong nỗi cô đơn tuyệt vọng, trái lại mở hồn để quan sát cảm nhận mọi sự vật, con người
xung quanh bằng những rung động tinh tế giàu yêu thương. Buổi chiều tàn, qua tâm hồn
thơ ngây của Liên, ta thấy đậm đà tình người. Dường như tình cảm sâu nặng đối với quê
hương, tình yêu thương đối với con người của nhà văn đã hoà vào nhân vật. Khi cảm
nhận về nhân vật Liên, có người đã nhận xét: “Đằng sau hình ảnh cô bé Liên đầy thương
mến kia, tôi thấy thấp thoáng hình ảnh của chính Thạch Lam với một thế giới tâm hồn
mơ màng, dịu ngọt và vô cùng trong trẻo hồn Thạch Lam đã nhập vào Liên như một sự
“lên đồng” để tìm và thắp sáng những hoài niệm ấu thơ đầy day dứt. Phải chăng đây
chính là cái bản ngã tinh vi, sâu kín trong hành trình sáng tạo truyện ngắn này của Thạch
Lam”.
- Là thành viên của Tự lực văn đoàn, nhưng phong cách Thạch Lam khác hẳn : không
ảo tưởng, không thoát ly cuộc sống. Yếu tố lăng mạn trong văn Thạch Lam chỉ là một chút
mơ màng dịu nhẹ, một chút vượt thoát mơ hồ để đến một thế giới ao ước. Và, một chút
lãng mạn ấy cũng vẫn vấn vương hiện thực, vẫn gắn với đời sống bằng những sợi tơ mảnh
mai nhưng vô cùng bền chặt.
Tâm trạng đợi tàu của chị em Liên chỉ có thể xuất hiện trong nhịp sống u trầm nơi
phố huyện ấy. Nó có một cái nền vững chắc từ niềm khao khát của tất cả mọi người đang
sống xung quanh như mẹ con chị tý, bác phở Siêu, gia đình bác Xẩm “Chừng ấy con
người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày
của họ”. Đó là chất hiện thực xù xì, thô nhám. Nhưng thật kỳ lạ, ngay chính trong cái nền
23
hiện thực ấy, Thạch Lam vẫn thăng hoa, lãng mạn được. Liên và An không chờ tàu vì lẽ
mưu sinh như nhiều người đợi tàu kia. Vì bán hàng thêm nữa cũng chẳng đáng là bao.
Như vậy chị em Liên đợi tàu là vì nhu cầu tinh thần. Liên và An khao khát dù chỉ trong
chốc lát được tiếp xúc với một thế giới khác – một thế giới lộng lẫy, tràn đầy ánh sáng,
khác hẳn với nhịp sống thường ngày nơi phố huyện. Sau một ngày dài buồn tẻ, họ muốn
vượt thoát khỏi cái nhịp đời tàn tạ. Chính sự khác hẳn, vượt thoát ấy đã đem đến cho

thiên truyện ngắn hương vị mộng mơ đẫm chất lãng mạn.
Tất nhiên không chỉ có thế, đằng sau tâm trạng đợi tàu của chị em Liên, là ý nghĩ sâu
kín của nhà văn. Thạch Lam muốn lay gọi thức tỉnh cuộc đời, và mỗi chúng ta bằng một
lời chân thành cảm động : Đừng để cái nhịp đời buồn tẻ nhàm chán nhấn chìm mình! Hãy
biết khao khát và ước mơ! Hãy biết vươn tới những thế giới mới nhiều niềm vui và ánh
sáng! Dù khao khát có nhỏ bé, ước mơ có mong manh, thì cũng hãy gìn giữ nâng niu và
trân trọng và hâm nóng nó, đừng để nguội lạnh, đừng để tuột mất đi, đừng để nó tan
loãng vào cuộc mưu sinh vật chất đời thường, thậm chí tầm thường. Đó là ý nghĩa nhân
văn vô cùng sâu sắc mà Thạch Lam đã gửi đến cho bạn đọc.
Chính điều đó đã làm nên một Thạch Lam vừa hiện thực vừa lãng mạn. và đây cũng
là điểm mấu chốt trong nhiều tác phẩm của nhà văn trong đó có truyện ngắn Hai đứa trẻ
đã khiến cho nhiều người phải tranh cãi lâu nay khi bàn về khuynh hướng sáng tác của
ông – là nhà văn hiện thực hay nhà văn lãng mạn? nhưng dù là lãng mạn hay hiện thực,
thì ta vẫn thấy ở Thạch Lam tiếng lòng thì thầm sâu thẳm mà ông gửi gắm trong tác phẩm
đã làm rung động sâu sắc hàng triệu triệu trái tim bạn đọc.
Kết luận:
- Với sự kết hợp của hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình đã khiến cho truyện của
Thạch Lam nhất là truyện ngắn Hai đứa trẻ mang vẻ đẹp riêng. Bức tranh triên nhiên nơi
24
phố huyện lúc chiều tàn và đêm khuya chứa chất tâm trạng. Bức tranh về đời sống chân
thực nhưng không khô cứng, thô nhám mà mềm mại, ý nhị giàu chất thơ.
- Mặt khác nữa là việc tìm hiểu một khía cạnh nhỏ trong văn phong Thạch Lam ở phương
diện này,còn giúp ta nhận ra một điều: văn Thạch Lam rất giàu hình ảnh, cảm giác nhưng
không khoe khoang mà kín đáo, ý nhị, ấm áp tình người và đậm đà bản sắc dân tộc.
- Với bản sắc rất riêng trong bút pháp, nhà văn Thạch Lam đã đưa truyện ngắn đến trình
độ cao, cùng với Tự lực văn đoàn nói riêng và trào lưu văn học lãng mạn 30 - 45 nói
chung đã góp phần làm cho văn xuôi Việt Nam hiện đại thêm phong phú, đa dạng.
THỨ HAI: THIẾT KẾ BÀI GIẢNG” HAI ĐỨA TRẺ”
Thạch Lam
A. Mục tiêu bài dạy: ( 2 tiết)

- Kiến thức:
+ Bức tranh phố huyện với cảnh ngày tàn, chợ tàn, những kiếp ngưòi tàn tạ qua cảm nhận
của hai đứa trẻ
+ Niềm xót xa, thương cảm của nhà văn trước cuộc sống quẩn quanh, tù đọng của những
người lao động nghèo nơi phố huyện và sự trân trọng nâng niu những khát vọng nhỏ bé
nhưng tươi sáng của họ
+ Tác phẩm đạm đà yếu tố hiện thực vừa phảng phất chất lãng mạn, chất thơ
- Kĩ năng
+ Đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại
+ Phân tích tâm trạng nhân vật trong tác phẩm tự sự
25

×