Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN Rèn luyện kỹ năng đọc văn bản thơ cho học sinh góp phần nâng cao hiệu quả trong giờ dạy - học văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.14 KB, 15 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC VĂN BẢN THƠ CHO HỌC SINH
GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG GIỜ DẠY - HỌC
VĂN"
1
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nhà trường Trung học phổ thông, môn Ngữ văn cùng với các bộ môn khác
có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những hiểu biết, những kỹ năng nhất định. Việc tiếp
nhận văn chương của học sinh trong nhà trường không hoàn toàn giống với việc tiếp
nhận một tác phẩm văn chương đối với bạn đọc ngoài xã hôi.Bởi việc tiếp nhận một tác
phẩm văn chương trong nhà trường mang tính tập thể ( khác tính tự do, cá nhân của
việc tiếp nhận một tác phẩm văn chương ngoài xã hội) và có sự hướng dẫn trực tiếp của
giáo viên. Chính vì vậy, lao động của người giáo viên dạy Văn vừa mang tính nghệ thuật,
vừa mang tính sư phạm.
Đối với người giáo viên dạy Văn, việc dạy một tác phẩm văn chương trong nhà
trường là một trình tự chặt chẽ gồm nhiều thao tác thực hiện. Tất cả các thao tác đều phải
được đầu tư và thực hiện nghiêm túc, đặc biệt là thao tác đọc tác phẩm, nhất là thơ trữ
tình. Đọc để thâm nhập vào thế giới cuộc sống trong tác phẩm. Đọc khởi động tâm lý,
tiếp nhận, gợi tưởng tượng. Đọc tạo không khí
Trên thực tế, việc giảng dạy bộ môn Văn trong các trường phổ thông còn nhiều bất
cập. Hiện tượng học sinh xem nhẹ việc đọc tác phẩm còn nhiều dẫn đến thiếu niềm đam
mê, thậm chí hiểu sai văn bản.
Trong phạm vi thời gian ngắn ngủi của một tiết học, thời gian đọc tác phẩm không
nhiều. Vì vậy hướng dẫn học sinh cách đọc đúng ở mỗi thể loại thơ trữ tình là cần thiết.
Nếu đọc đúng học sinh sẽ rung động trước những gì tác phẩm gợi ra. Sự chuẩn bị tâm thế
để lĩnh hội cái hay, cái đẹp của văn chương ở học sinh vì vậy cũng chủ động hơn. Hiệu
quả một giờ dạy - học văn vì vậy cũng được nâng cao hơn.
Với những suy nghĩ như trên khiến tôi chọn đề tài "Rèn luyện kỹ năng đọc văn bản
thơ cho học sinh góp phần nâng cao hiệu quả trong giờ dạy - học văn".
2


Phần hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận:
"Văn học là một môn nghệ thuật ngôn từ". Mỗi tác phẩm văn học chân chính là kết
quả của sự lao động sáng tạo của tác giả. Tất cả các yếu tố nghệ thuật đều nằm trong
dụng ý của nhà thơ, nhà văn.
Có ai đó nói rằng: Thơ là tiếng lòng được ngân lên khi nó đụng chạm tới cuộc
sống. Thơ là tiếng nói của tâm hồn, tình cảm Để lắng nghe được những "tiếng lòng" ấy
thì việc đọc thơ là rất quan trọng.
Thông thường quá trình đến với ý nghĩa của câu thơ người đọc phải đọc đi đọc lại,
đọc to, đọc thầm, có khi đọc ngân nga để lắng nghe thử xem nó gợi ra cho mình cái gì là
chính. Ngôn ngữ chỉ là ký hiệu chết cứng, phải thổi sự sống cho nó bằng giọng đọc.
Chính giọng đọc có khả năng gợi ra những cảm xúc mà bình thường nhìn bằng mắt, ngay
cả khi nghe bằng tâm tưởng có khi vẫn không hiểu được, không cảm nổi.
Âm lượng giọng đọc ở mỗi thể loại thơ trữ tình, thậm chí ở mỗi bài thơ, mỗi câu
thơ là không giống nhau. Một phần tạo nên âm lượng đọc là ở cách ngắt nhịp câu thơ.
II. Thực trạng đọc thơ trữ tình của học sinh Trung học phổ thông.
Thực tế giảng dạy tôi thấy rằng: Có rất nhiều học sinh chưa chú trọng nhiều đến
việc đọc tác phẩm thơ trữ tình. Đa số các em đọc các văn bản với giọng đều đều giống
nhau. Như thế sẽ không nắm bắt được tinh thần, giọng điệu văn bản, cảm xúc của thi
nhân. Để có giọng lên bổng, xuống trầm phù hợp cần thiết phải đọc đúng nhịp điệu của
câu thơ.
3
Điều đáng nói là khi ngắt nhịp không đúng sẽ dẫn đến cách hiểu ý thơ nông cạn,
hời hợt, thậm chí hiểu sai ý đồ nghệ thuật của tác giả.
III. Giải pháp
1. Thể thơ lục bát:
Thơ lục bát thường được ngắt nhịp chẵn: 2/2/2; 2/4/2; hoặc 4/4 Điều cơ bản mà
nhịp thơ lục bát gợi ra là sự thiết tha ngọt ngào. Chẳng hạn khi dạy bài "Ca dao yêu
thương, tình nghĩa" cần phải đọc đúng nhịp để gợi ra được sự thiết tha trong tình cảm của
những chàng trai, cô gái:

1. Ước gì / sông rộng một gang
Bắc cầu / dải yếm / để chàng / sang chơi.
2. Ước gì / anh hoá ra gương
Để cho / em cứ / ngày thường / em soi.
Ước gì / anh hoá ra cơi
Để cho / em đựng / cau tươi / trầu vàng.
Tuy nhiên không phải lúc nào ở thể thơ này cũng được ngắt nhịp chẵn thông
thường đó. Ở một số câu nằm trong dụng ý nghệ thuật của tác giả, cần lưu ý học sinh đọc
đúng.
Chẳng hạn câu:
Người lên ngựa / kẻ chia bào
Rừng phong / thu đã nhuốm màu quan san.
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
4
Nhiều em học sinh đã đọc sai, ngắt nhịp sai. Ở đây là khung cảnh chia li giữa Thuý
Kiều - Thúc Sinh. Câu lục cũng như bị bẻ gãy làm đôi 3/3 thể hiện rõ sự chia biệt đó. Nếu
học sinh đọc 2/2/2 là không đúng. Nhưng câu bát lại không thể ngắt nhịp 3/3/2 mà phải là
2/6. Nếu ngắt 3/3/2 dẫn đến cách hiểu "thu" không còn là chủ thể nữa mà trở thành định
ngữ cho "rừng phong".
Hay đoạn thơ diễn tả tâm trạng Thuý Kiều trong đêm trao duyên cho em là Thuý
Vân:
Cậy em / em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy / rồi sẽ thưa
Giữa đường / đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa / mặc em.
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
Sự ngắt nhịp ở đây cũng không còn đều đặn 2/2/2 như đặc trưng thể loại nữa. Các
ngắt nhịp "cậy em" và "mặc em" đối lập 2/6 và 6/2 mà trọng tâm dồn vào để làm cho
nhịp thơ trĩu xuống. Giáo viên cần lưu ý cho học sinh nhấn mạnh và ngừng lâu ở các nhịp
này để tạo ra một không khí trang trọng và thiết bị thuận lợi cho việc khai thác từ ngữ sau

đó. Riêng dòng thơ sau phải hướng dẫn học sinh đọc cho đúng nhịp ngắt:
Ngồi lên cho chị lạy / rồi sẽ thưa.
Nhịp ngắt gây cảm giác không suôn sẻ nếu không muốn nói là hơi gượng gạo. Giá
trị độc đáo của câu thơ chính lại ở chỗ đó. Song đây cũng là lý do giải thích tại sao hầu
như không có học sinh nào đọc đúng nhịp ngắt này. Chính cái không bình thường ấy đã
nói được phần nào cái quằn quại, đau đớn trong tình cảnh hết sức trớ trêu: yêu tha thiết
5
mà vẫn buộc lòng phải khước từ tình yêu. Nhịp điệu không phải là tình cảm nhưng ngắt
nhịp đúng chính là "đọc" được tình cảm, tâm trạng của con người trong câu thơ, bài thơ.
Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu được làm theo thể lục bát. Tinh thần chính của toàn
bài là ngắt nhịp chẵn. Tình nghĩa thuỷ chung gắn bó giữa người cán bộ miền xuôi với
đồng bào Việt Bắc một phần được gợi ra bởi giai điệu da diết của bài thơ. Đây là một bài
thơ khá dài, vì vậy cách tốt nhất là cho học sinh đọc và phân tích từng đoạn. Ở đoạn thơ
diễn tả khung cảnh chia tay giữa Trung ương Đảng, Chính phủ với đồng bào Việt Bắc ,
câu cuối nhịp có khác:
Mình về / mình có nhớ ta /
Mười lăm năm ấy / thiết tha mặn nồng /
Mình về / mình có nhớ không /
Nhìn cây nhớ núi, / nhìn sông nhớ nguồn? /
Tiếng ai / tha thiết bên cồn /
Bâng khuâng trong dạ, / bồn chồn bước đi /
Áo chàm / đưa buổi phân li /
Cầm tay nhau / biết nói gì / hôm nay
Câu "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay" nếu ngắt 2/6 hoặc 4/4 thì câu thơ sẽ trở
nên vô nghĩa. Trong buổi chia tay có nhiều điều muốn nói, nói sao cho thoả, đành dùng
ngôn ngữ đôi bàn tay. Vì vậy khi ngắt nhịp 3/3/2 (cầm tay nhau/ biết nói gì / hôm nay) sẽ
hiện lên sự ngập ngừng, dùng dằng, quyến luyến, bịn rịn giữa người đi - kẻ ở.
Hay như đoạn thơ sau, ta lại bắt gặp câu thơ có sự biến đổi nhịp 2/4 sang nhịp 3/3:
Ta với mình / mình với ta.
6

Câu thơ được chia tách làm hai vế. Hai đại từ mình - ta được đảo vị trí cho nhau
tưởng rằng chia xa nhưng rất xoắn xuýt. Sự thay đổi nhịp điệu ở câu thơ này thể hiện rất
rõ, rất dễ nhận ra.
2. Thơ Đường luật:
Thơ Đường luật thường được làm theo một quy luật rất chặt chẽ: Có niêm, có luật,
có đối rất chỉnh Những bài thơ như "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến, "Thu hứng" của
Đỗ Phủ, "Thương vợ" của Trần Tế Xương giọng đọc phù hợp nhất ở đây là sự vừa độ,
đều đặn, đặc biệt phải tạo được chỗ ngừng nghỉ cuối mỗi dòng thơ tương đương nhau về
mặt thời gian.
Nhưng bài "Mời trầu" của Hồ Xuân Hương lại khác. Khi dạy bài này tôi thấy đa số
học sinh đọc với nhịp 4/3 và ngừng nhịp rất dài sau mỗi dòng thơ. Theo tôi khi đọc bài
thơ này cần đọc nhanh qua dòng thơ 1, 3 và ngừng nghỉ lâu hơn ở dòng 2, 4. Câu 2 nhịp
đã có biến đổi , không còn nhịp 4/3 thông thường mà là nhịp 1/3/3:
Mời trầu
Quả cau nho nhỏ / miếng trầu hôi /
Này / của Xuân Hương / mới quệt rồi //
Có phải duyên nhau / thì thắm lại /
Đừng xanh như lá / bạc như vôi //
(Hồ Xuân Hương)
Xuân Hương được xem như là một "hiện tượng" trong làng thơ Trung đại Việt
Nam. Đây là một hồn thơ luôn phá cách: phá cách trong ý tưởng và phá cách trong lối thể
hiện. Cá tính mà người phụ nữ muốn khẳng định một phần được thể hiện ở nhịp thơ
ngắn, mạnh và quả quyết: "Này". Nếu đọc ngắt nhịp 4/3 sẽ không thấy được điều ấy. Mặt
7
khác chính xu thế cắt dòng như được "duỗi" ra ấy là để dung hoà giữa cái nhỏ mọn và
thách thức, bình dị mà lớn lao trong tính cách Xuân Hương.
Tương tự ở bài "Tự tình" (bài II) của nữ sĩ Xuân Hương cũng cần lưu ý cách ngắt
nhịp ở câu thơ thứ 2, thứ 3, thứ 4:
Tự tình
(Bài II)

Đêm khuya văng vẳng / trống canh dồn /
Trơ / cái hồng nhan / với nước non //
Chén rượu hương đưa / say / lại tỉnh /
Vầng trăng bóng xế / khuyết chưa tròn //
Xiên ngang mặt đất, / rêu từng đám /
Đâm toạc chân mây / đá mấy hòn //
Ngán nỗi xuân đi / xuân lại lại, /
Mảnh tình san sẻ / tí con con !
(Xuân Hương)
Tâm trạng Xuân Hương được đặt trong cảnh ngộ hết sức éo le: một mình trơ trọi,
phòng không gối chiếc trong đêm khuya thanh vắng. Ở câu thơ thứ 2, nhà thơ có dụng ý
đảo từ "trơ" lên đầu câu để hiện rõ cái cô đơn, trơ trọi đó. Bởi thế theo tôi cần phải ngắt
nhịp sau từ" trơ" để thấy được cái uất ức trong lòng thi nhân. Ở câu 3 cần ngắt nhịp sau từ
"say" để được sống với nhân vật trữ tình. Nữ thi sĩ muốn nhờ rượu để say, để quên đi tất
cả. Nhưng rút cuộc vẫn không. "Say" rồi lại "tỉnh". Rõ ràng thi nhân rất bức bối mà
không giải toả nổi.
8
3. Thơ tự do:
Thơ tự do là thể thơ không qui định niêm, luật, đối giống thơ Đường luật nên cần
một sự linh hoạt uyển chuyển giọng điệu khi đọc.
Nói rằng thơ mới là thơ tự do nhưng không có nghĩa là gặp bài thơ nào cũng đọc
liên tục ào ạt mà không quan tâm đến đặc trưng của dòng thơ. Xin gợi ý một cách đọc
của đoạn thơ cuối bài "Vội vàng" như sau:
Ta muốn ôm /
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn //
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn /
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu /
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều /
Và non nước / và cây và cỏ rạng /
Cho chếnh choáng mùi thơm / cho đã đầy ánh sáng /

Cho no nê thanh sắc của thời tươi /
Hỡi xuân hồng / ta muốn cắn vào ngươi.
Bài thơ "Vội vàng" chính là minh chứng tiêu biểu cho sự chuyển đổi nhịp điệu,
giọng điệu trong một bài thơ: Nhanh, dồn dập - dàn trải, suy tư - hối hả, vồ vập. Đoạn
cuối, cảm xúc thi nhân được đẩy lên cao trào. Đọc đúng nhịp điệu là phần nào đã gợi ra
được tâm trạng vội vàng, cuống quýt của nhà thơ. Câu cuối phải ngắt nhịp 3/5 nhấn mạnh
để thấy sự mạnh mẽ, táo bạo cả trong ý tưởng và trong xúc cảm của nhà thơ.
9
Bài "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử là một bài thơ xuất sắc trong phong trào thơ
mới. Tiếng thơ đau thương phần nào cũng được thể hiện qua nhịp điệu thiết tha, khắc
khoải:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? /
Nhìn nắng hàng cau / nằng mới lên /
Vườn ai mướt quá / xanh như ngọc /
Lá trúc che ngang mặt chữ điền /
Gió theo lối gió, / mây đường mây /
Dòng nước buồn thiu / hoa bắp lay /
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó /
Có chở trăng về kịp tối nay ?/
Mơ khách đường xa / khách đường xa /
Áo em trắng quá / nhìn không ra /
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh /
Ai biết tình ai / có đậm đà ?
Cõi thực và cõi mộng cứ đan cài vào nhau. Cái thực tại và ảo giác chập chờn khiến
thi nhân đau đớn. Khát vọng sống, khát vọng về một tình yêu trong trắng, tinh khôi mong
manh, chấp chới khi cái chết đã liền kề. Mặc cảm chia lìa để lại dấu ấn qua cách ngắt
nhịp như bẻ gãy cả câu thơ: Gió theo lối gió / mây đường mây; Mơ khách đường xa, /
khách đường xa.
10
"Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử là bài thơ chất đầy tâm trạng. Có nhiều học sinh

đọc bài thơ với giọng đều đều, chỉ ngắt nhịp ở cuối mỗi câu thơ. Như thế sẽ không thấy
được cảm xúc đứt nối nhưng liền mạch trong tâm trạng thi nhân. Phải đọc đúng tiết tấu
thơ để sống với nhân vật trữ tình trong bài thơ. Thậm chí với bài thơ này có thể cho học
sinh ngâm để cảm nhận sâu sắc hơn nội tâm nhân vật trữ tình.
Cũng như "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử, "Tiếng hát con tàu" của Chế Lan
Viên có rất nhiều câu hỏi tu từ được cất lên. Mỗi câu thơ có hình thức hỏi là điểm nhấn.
Giáo viên cần lưu ý học sinh cách đọc để xoáy sâu vào những trăn trở của người viết.
Ngay khổ thơ đề từ đã mang cảm xúc chung của cả bài thơ. Sau khổ thơ đề từ, mạch thơ
cứ thế tuôn chảy.
Xin trích đọc khổ thơ đề từ như sau:
Tây Bắc ư? / có riêng gì Tây Bắc /
Khi lòng ta đã hoá những con tàu /
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát /
Tâm hồn ta là Tây Bắc, / chứ còn đâu.
Toàn bài thơ có những câu được ngắt nhịp 3/5, có những câu đến cuối dòng mới
ngừng nghỉ Chất trữ tình - triết luận trong hồn thơ Chế Lan Viên đem đến giai điệu lúc
hối thúc, lúc dàn trải như thế. Qua cách đọc cũng sẽ giúp học sinh cảm được cái hay, cái
đẹp trong hình tượng thơ Chế Lan Viên.
11
Còn đối với những bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn như "Sóng" của Xuân
Quỳnh thì phương pháp đọc hiệu quả nhất là ngắt nhịp cuối mỗi dòng thơ và sự ngừng
nghỉ cuối mỗi dòng phải nhanh, cuối mỗi khổ thì lâu hơn. Cụ thể như sau:
Dữ dội và dịu êm /
Ồn ào và lặng lẽ /
Sông không hiểu nổi mình /
Sóng tìm ra tận bể //
Ôi con sóng ngày xưa /
Và ngày sau vẫn thế /
Nỗi khát vọng tình yêu /
Bồi hồi trong ngực trẻ //

(Sóng-Xuân Quỳnh)
Khi ngắt nhịp đúng đặc trưng của thể loại như thế sẽ giúp ta hình dung hết lớp sóng
nọ đến lớp sóng kia cuồn cuộn, ào ạt. Đó cũng chính là con sóng lòng trào dâng nỗi khát
khao hạnh phúc của người phụ nữ trong tình yêu.Ngay nhan đề bài thơ đã gợi ấn tượng
về những con sóng.Hai hình tượng "Sóng" và "Em"lúc song hành, lúc hoà nhập vào với
nhau .Nhịp thơ càng về cuối càng dồn dập,thể hiện nỗi khát khao càng lớn.
4. Kiểm nghiệm:
Mục đích của thử nghiệm ở đây là khảo sát khả năng biết đọc đúng nhịp điệu
thơ trữ tình trước và sau khi có định hướng của giáo viên. Trong quá trình giảng dạy, tôi
12
đã lưu tâm đến thao tác đọc của học sinh, từ đó điều chỉnh kịp thời. Vì điều kiện thời gian
nên mỗi lớp tôi chỉ khảo sát giọng đọc của 10 học sinh.
Đoạn thơ đưa ra thử nghiệm được ngắt nhịp như sau:
Cậy em / em có chịu lời /
Ngồi lên cho chị lạy / rồi sẽ thưa /
Giữa đường đứt gánh tương tư /
Keo loan chắp mối tơ thừa / mặc em.
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
Sau đây là kết quả thử nghiệm:
Kết quả học sinh đọc khi chưa có định hướng đọc của giáo viên:
Lớp Số HS tham
gia
Đọc đúng Đọc sai Tỉ lệ đọc đúng
C4 10 2 8 20 %
C8 10 2 8 20 %
C10 10 4 6 40 %
Kết quả học sinh đọc sau nhận xét và đọc mẫu của giáo viên:
Lớp Số HS tham
gia
Đọc đúng Đọc sai Tỉ lệ đọc đúng

C4 10 10 0 100 %
C8 10 10 0 100 %
13
C10 10 10 0 100 %
Khảo sát sự tiếp nhận văn bản ở học sinh sau đọc - hiểu là: 100% học sinh đạt yêu
cầu.
Phần III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Giảng dạy một tiết văn thành công đòi hỏi rất nhiều yếu tố. Người giáo viên dạy
Văn không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức, kỹ năng mà còn góp phần bồi
dưỡng tâm hồn cho học sinh. Muốn vậy cả thầy và trò đều phải "sống" với tác phẩm, thực
sự say mê, hứng thú trên con đường khám phá cái hay cái đẹp của văn chương. Đọc đúng
văn bản thơ không phải là chìa khoá vạn năng nhưng theo tôi, nó sẽ góp phần không nhỏ
vào hiệu quả của một giờ giảng văn.
Tinh thần chung của đọc thơ là đọc theo đặc trưng của thể loại. Song cần linh hoạt
ở mỗi bài thơ, câu thơ. Có những câu thơ được ngắt nhịp khác thường nằm trong dụng ý
nghệ thuật của tác giả, giáo viên cần lưu ý học sinh đọc đúng mới hiểu hết được ý nghĩa
của câu thơ. Đọc đúng chính là "bước đi" đầu tiên trong hành trình khám phá cái hay, cái
đẹp của văn chương.
Trên đây là một vài phương pháp tiếp cận để đọc đúng văn bản thơ trữ tình của bản
thân được đúc rút từ quá trình giảng dạy, tìm tòi và học hỏi. Thực tế giảng dạy cho thấy:
nâng cao khả năng đọc đúng văn bản thơ trữ tình cho học sinh đã mang lại hiệu quả nhất
định. Tuy nhiên vấn đề đưa ra chắc còn nhiều điều cần bổ sung. Rất mong được sự đóng
góp ý kiến của đồng nghiệp để có được hiệu quả cao nhất trong giảng dạy bộ môn này.
Với nhiều trăn trở của bản thân, tôi có một số đề xuất như sau:
14
Nên tổ chức nhiều hơn các buổi ngoại khoá để tạo hứng thú cho học sinh học văn.
Giáo viên giảng dạy trên lớp đánh giá cao sự chuẩn bị đọc tác phẩm ở nhà của học
sinh cũng như nhận xét, định hướng kịp thời cách đọc cho học sinh ở trên lớp.
15

×