Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

SKKN Những biện pháp tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT Cầm Bá Thước trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.26 KB, 35 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"NHỮNG BIỆN PHÁP TỔ CHỨC BỒI DƯỠNG HỌC
SINH GIỎI Ở TRƯỜNG THPT CẦM BÁ
THƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY"
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước
về công tác giáo dục trong các nhà trường, đáp ứng yêu cầu của xã hội
trong giai đoạn hiện nay. Góp phần vào sự thành công của công việc đó
thì công tác tổ chức và bồi dưỡng học sinh giỏi đóng vai trò hết sức
quan trọng, vì đây là một trong những công tác mũi nhọn nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
cho địa phương nói riêng và cho xã hội nói chung.
Ý thức sâu sắc được công việc này trong những năm gần đây trường
THPT Cầm Bá Thước, huyện Thường Xuân đã xác định rõ vai trò của
công tác tổ chức giảng dạy và bồi dưỡng HSG ở các khối lớp, nhà
trường đã xây dựng kế hoạch và phân công cụ thể giáo viên giảng dạy
ngay từ đầu năm học.
Cần phải khẳng định rằng việc bồi dưỡng HSG là một công việc
khó khăn và lâu dài, đòi hỏi nhiều công sức của thầy và trò. Cũng như
các nhà trường, trường THPT Cầm Bá Thước cũng không nằm ngoài
lệ, trong công tác tổ chức bồi dưỡng HSG của nhà trường hiện nay
thường gặp những hạn chế về kết quả, điều đó xuất phát từ những
nguyên nhân chủ yếu như sau: Nội dung bồi dưỡng, vì không phải là
trường chuyên nên không có chương trình dành cho lớp chuyên, thiếu
định hướng và thiếu tính liên thông trong hệ thống chương trình, tất cả
các giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn, tự nghiên cứu và tự sưu
tầm tài liệu còn học sinh thì một số không yên tâm khi được chọn theo
một số lớp bồi dưỡng HSG, đặc biệt học sinh thi các môn như: Vật lý,
Hoá học, Sinh gặp khó khăn vì thi đại học, cao đằng thi theo hình thức


trắc nghiệm còn thi HSG lại thi theo hình thức tự luận và các môn
không thi đại học như môn GDCD, QPAN vì thế HS phải mất nhiều
thời gian, ảnh hưởng đến sức khỏe và kết quả học tập chung. Mặt khác
giáo viên dạy bồi dưỡng trong các nhà trường THPT không chuyên
vẫn phải hoàn thành công tác giảng dạy như các giáo viên khác, đôi khi
họ còn kiêm nhiệm công việc như: Chủ nhiệm, Tổ trưởng bộ môn,
Công đoàn, Đoàn thanh niên do yêu cầu thực tế đòi hỏi nên BGH lúc
nào cũng muốn giao công việc cho những giáo viên tốt, giỏi, có uy tín.
Chính vì lý do đó mà việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng HSG của GV
cũng có phần bị hạn chế.
Tuy có những khó khăn nhất định trong việc tổ chức bồi dưỡng
HSG nhưng trong những năm gần đây, qua các kỳ thi HSG cấp tỉnh
trường THPT Cầm Bá Thước mặc dù là trường miền núi cao nhưng
cũng đã gặt hái được những thành công nhất định ( trường luôn xếp
hạng ở nửa trên của các trường THPT trong tỉnh và xếp tốp đầu của các
trường THPT của 11 huyện miền núi Thanh hoá) .
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên tôi luôn trăn
trở để tìm ra các biện pháp hữu hiệu để tổ chức tốt công tác bồi dưỡng
HSG nhằm đáp ứng phần nào yêu cầu xã hội nói chung và của nhân
dân các dân tộc huyện Thường Xuân nói riêng.
Vì vậy, Tôi chọn đề tài “ Những biện pháp tổ chức bồi dưỡng
học sinh giỏi ở trường THPT Cầm Bá Thước trong giai đoạn hiện
nay ”.
2.Mục đích nghiên cứu
Đề xuất những biện pháp tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở
trường THPT Cầm Bá Thước trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng , phương pháp nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT Cầm
Bá Thước từ năm học 2008-2009 đến nay.

3.3. Phương pháp nghiên cứu
Tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu thực tiễn, toạ đàm, trao đổi,
phân tích, tổng hợp.
4.Nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.1. Xác định cơ sở lý luận của việc bồi dưỡng học sinh giỏi ở
trường THPT.
4.1.2. Phân tích thực trạng việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở
trường THPT Cầm Bá Thước từ năm học 2008-2009 đến nay.
4.1.3. Đề xuất những biện pháp việc tổ chức bồi dưỡng học sinh
giỏi ở trường THPT Cầm Bá Thước .
5.Ý nghĩa của đề tài:
Góp phần vào việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở các trường
THPT nói chung và đặc biệt là các trường THPT miền núi nói riêng.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Cơ sở lý luận.
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “Đảng và Nhà nước ta
phải luôn coi trọng việc chăm lo cho giáo dục, đặc biệt là việc phát hiện
và bồi dưỡng tài năng của thế hệ trẻ, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ được
phát huy tài năng, sức lực của mình vào sự nghiệp cách mạng của dân
tộc”.
Trong bài viết của mình đăng trên báo Cứu quốc, ngày 20-11-
1946 bác Hồ đã cho rằng: “Chính phủ và mọi người cần phải trọng
dụng người hiền năng…. Nơi nào có người tài đức, những việc ích
nước lợi dân thì phải báo ngay cho Chính phủ biết”.
Đồng chí Lê Khả Phiêu nguyên Tổng bí thư Trung ương Đảng
đã từng nói về nhân tài “ Một mặt phải tìm được những cách thích hợp

để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, đồng thời cũng cần lưu ý là nhân tài
sẽ có điều kiện xuất hiện trên một nền dân trí rộng và trên cơ sở việc tổ
chức đào tạo nhân lực tốt và nhân tài là người có trí tuệ sắc bén và
những người có bàn tay vàng có những kỹ năng đặc biệt " .
Nghị quyết Trung ương 2, khoá VIII đã nêu rõ: “Cùng với khoa
học và công nghệ, giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
1.2. Một số khái niệm cơ bản.
1.2.1 Năng lực : là những đặc điểm tâm lý cá biệt ở mỗi con
người tạo thành chiều sâu cường độ lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ
năng, kỹ xảo để đáp ứng yêu cầu và hoàn thành xuất sắc một hoạt động
nhất định .
1.2.2 Trình độ cao của năng lực:
Chính là tài năng ở trình độ tột đỉnh là thiên tài . Năng lực chỉ tồn
tại trong quá trình phát triển, vận động của một hoạt động tương ứng cụ
thể . Năng lực là sản phẩm của một hoạt động thực tiễn tích cực của
con người không tách rời hoàn cảnh xã hội và tham gia phục vụ cho sự
phát triển xã hội. Vậy trình độ cao của năng lực vừa là trí (trí khôn ,
thông minh ) là tâm đức thống nhất trong một cấu trúc thích ứng .
1.2.3. Năng khiếu
Là mầm mống của tài năng tương lai . Nếu được phát hiện bồi
dưỡng kịp thời có phương pháp và hệ thống thì năng khiếu được phát
triển và đạt tới đỉnh cao của năng lực, ngược lại thì năng khiếu sẽ bị
thui chột. Người có năng lực, năng khiếu thì thị giác thính giác xúc giác
vị giác khứu giác, tri giác có những cảm giác đặc biệt.
1.3. Quan niệm về học sinh giỏi- học sinh năng khiếu
Học sinh giỏi, học sinh năng khiếu thường quy tụ ở các tiêu
chuẩn sau:
1.3.1. Thông tuệ:
Những học sinh năng khiếu thường thông minh, trí tuệ phát triển,

có năng lực tư duy tốt, tiếp thu vấn đề nhanh, nhớ lâu và hệ số IQ cao.
1.3.2. Sáng tạo
Có bộ óc tư duy độc lập, có óc phê phán, có khả năng dự báo, ưa
thích khám phá cái mới, không suy theo đường mòn mà đi sâu vào tìm
hiểu bản chất, tìm ra quy luật, sự kiện, hiện tượng.
1.3.3. Có các phẩm chất nổi bật
Thường xuyên say mê tìm tòi cái mới, tò mò, trung thực, kiên trì,
kiên định, giàu lòng vị tha và tính nhân văn, tinh thần tự chủ cao và có
ý chí phấn đấu vươn lên tự hiện, đạt đến Chân - Thiện - Mĩ.
1.4. Cơ sở pháp lý
Điều 35 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
nêu rõ : “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã
hội phát triển nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài”.
Luật giáo dục của nước ta cũng khẳng định: “Việc bồi dưỡng học
sinh đạt kết quả xuất sắc trong học tập nhằm phát triển năng khiếu của
các em về một số môn học trên cơ sở bảo đảm giáo dục phổ thông toàn
diện”.
Chiến lược phát triển giáo dục Việt nam trong giai đoạn từ nay
đến năm 2020 nêu rõ: “Đảm bảo cả yêu cầu về số lượng, chất lượng,
hiệu quả giáo dục. Đồng thời với việc nâng cao chất lượng toàn diện
học sinh, sinh viên diện đại trà, cần mở rộng diện đào tạo bồi dưỡng
học sinh, sinh viên tài năng để chuẩn bị đội ngũ nhân lực có trình độ
cao, thạo ngoại ngữ, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và thế giới ”.
Nhân tài, học sinh giỏi là yếu tố tiên quyết, không thể thiếu được
đối với bất kỳ một dân tộc, một quốc gia nào. Vì vậy quá trình phát
hiện và tổ chức bồi dưỡng nhân tài, bồi dưỡng học sinh giỏi đang được
đặt gia và tiến hành trong các nhà trường và trường THPT Cầm Bá
Thước cũng không nằm ngoài qui luật đó.
CHƯƠNG 2.

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC BỒI DƯỠNG HỌC
SINH GIỎI Ở TRƯỜNG THPT CẦM BÁ THƯỚC TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.
2.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, KT-XH huyện Thường Xuân
và lịch sử phát triển trường THPT Cầm Bá Thước.
2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, KT-XH huyện Thường
Xuân.
Thường Xuân là một trong 11 huyện miền núi phía tây của tỉnh
Thanh hoá, có biên giới phía bắc giáp với huyện Lang Chánh và
Ngọc Lặc, phía đông giáp với huyện Thọ Xuân và Triệu Sơn, phía
nam giáp huyện Như Xuân, phía Tây giáp với tỉnh Nghệ An và nước
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Tổng diện tích tự nhiên của huyện
là 1.110,4Km2, Đồi núi chiếm trên 75% diện tích . Tổng dân số toàn
huyện là 87101 người , trong đó dân tộc Thái chiếm 57,27 %, dân
tộc kinh chiếm 37,15%, dân tộc khác chiếm 5.58% 4852 người.
Thường Xuân có 17 xã, thị trấn và huyện thuộc một trong 62
huyện nghèo của cả nước, nền kinh tế xuất phát thấp, cơ sở hạ tầng
còn nhiều yếu kém, giao thông đi lại khó khăn chưa đáp ứng được
yêu cầu cho phát triển, giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các vùng
trong huyện cũng như đối với các địa phương trong và ngoài tỉnh.
Trình độ dân trí không đồng đều, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự
bao cấp của nhà nước còn phổ biến trong nhân dân và một bộ phận
cán bộ Đảng viên, tính năng động dám nghĩ, dám làm còn hạn chế.
Bên cạnh đó vẫn còn các tập tục lạc hậu ở một số địa phương trong
huyện như: ma chay, cưới xin…Với đặc điểm về địa lý và điều kiện
kinh tế khó khăn nó có tác động không nhỏ đến sự phát triển giáo
dục của địa phương. Vì vậy cho đến nay chất lượng giáo dục của
huyện còn kiêm tốn.
2.1.2. Sơ lược về lịch sử phát triển trường THPT Cầm Bá
Thước

Trường THPT Cầm Bá Thước đóng trên địa bàn huyện Thường
Xuân và được thành lập từ năm 1965 với tên gọi khi đó là trường
cấp 3 Thường Xuân nằm cách trung tâm huyện 10 Km về phía tây,
năm 1974 trường được chuyển về Thị trấn Thường Xuân (vị trí bây
giờ). Năm 1995 trường được đổi tên thành trường THPT Cầm Bá
Thước (mang tên vị lãnh tụ của phong trào Cần vương). Hiện tại
trường có hai cơ sở với tổng số 41 lớp với 1924 học sinh , trong đó
khối 12 có 12 lớp, khối 11 có 14 lớp và khối 10 có 15 lớp.
Cơ sở 1 có 35 lớp với 1686 học sinh và được đóng tại Thị trấn
huyện.
Cơ sở 2 có 06 lớp (3 lớp 10, 3 lớp 11) với 238 học sinh và được
đóng tại xã Vạn Xuân cách trung tâm huyện 20 km về phía tây.
- Số học sinh nữ toàn trường: 946 chiếm 49,16%
- Số học sinh là người dân tộc thiểu số: 932 chiếm 48,44%
-Tổng số CBGV-CNV:89,(GV 86, NVHC3) Số CBGV nữ: 52
chiếm 58,4%
- Cơ sở vật chất nhà trường: Nhà trường có đủ phòng học kiên cố
để học 1 ca, có 4 phòng máy tính với 100 máy (trong đó có một
phòng nối mạng Internet) dùng cho học thực hành tin học, có 02
phòng nghe nhìn, 05 phòng học lắp đặt máy chiếu Proerecter, 01
phòng thư viện, 02 phòng thí nghiệm. Ngoài ra trường còn có sân
chơi, bãy tập cho học sinh học tập theo qui định.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm lãnh chỉ đạo của các
cấp uỷ, chính quyền, của ngành giáo dục và sự quyết tâm của đội
ngũ các nhà giáo, chất lượng giáo dục của nhà trường đã gặt hái
được nhiều thành tựu, cơ sở vật chất nhà trường được tăng cường ,
công tác chuẩn hoá đội ngũ được thực hiện có hiệu quả. Đội ngũ
giáo viên của nhà trường không ngừng được bổ sung, đầy đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu. Kỷ cương nền nếp trong đội ngũ nhà giáo
được tăng cường . Đội ngũ nhà giáo của nhà trường đã từng bước

nâng cao được nhận thức vai trò của mình đối với công tác giáo dục
nói trung và đặc biệt là công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng.
2.2. Một số kết quả đạt được trong công tác tổ chức bồi dưỡng
học sinh giỏi của nhà trường.
2.2.1. Đối với giáo viên (Bảng phân loại chuyên môn nghiệp vụ)
Năm học Tổng
Thạc
sỹ
ĐH
Giáo viên giỏi
Cấp
trường
Cấp
cụm
Cấp tỉnh
2008 - 2009 85 9 76 17 17 12
2009 - 2010 82 8 74 19 18 12
2010 - 2011 80 9 71 20 21 14
2011-2012 86 12 74 25 21 14
Từ những số liệu trên cho thấy trong những năm gần đây, số
lượng và chất lượng giáo viên giỏi các cấp không ngừng tăng lên, hết
năm học 2011-2012 nhà trường có đội ngũ giáo viên giảng dạy có trình
độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ và tay nghề vững vàng, phẩm chất
đạo đức tốt, phù hợp với yêu cầu của ngành, yêu cầu nghề nghiệp và
có thể tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi.
2.2.2. Đối với học sinh (Bảng tổng hợp kết quả bồi dưỡng học
sinh giỏi)
2.2.2.1 Các môn văn hoá
H
S đạt

giải
Năm
học
HS giỏi
toàn
diện cấp
trường
HS
tiên
tiến
Đạt giải
cấp
trường
Cấp
tỉnh
Xếp hạng
trong khu
vực miền
núi (thi
cấp tỉnh)
Xếp hạng
toàn tỉnh (thi
cấp tỉnh)
2008-
2009
12 322 235 31 3 37
2009-
2010
14 419 299 24 4 45
2010-

2011
19 536 406 49 2 31
2011-
2012
24 528 479 52 3 27
Tính đến năm học 2011-2012 toàn tỉnh có 104 trường THPT và 11
huyện miền núi có 24 trường THPT tham gia dự thi kỳ thi HSG cấp
tỉnh.
2.2.2.2. Các môn TDTT- QPAN, Văn nghệ cấp tỉnh
H
S đạt giải
Năm học
HS gỏi
giải toán
bằng máy
tính cầm
tay
HS gỏi
TDTT
HS
Giỏi
QP-
AN
Văn nghệ Ghi chú
2008-
2009
15 1 10
Không tham
gia
2009-

2010
7
2
13 2
2010-
2011
9 4 10 2
01 HS tham gia thi
Giọng hát toàn
quốc
2011-
2012
11 4 14
Không tham
gia
01 HS tham gia
hội khoẻ PĐ toàn
quốc
2.2.2.3. Một vài thành tích khác:
Nhà trường đã xây dựng được nền nếp, ý thức của giáo viên và
học sinh. Đã xây dựng được chương trình bồi dưỡng dành cho Tổ -
Nhóm bộ môn.
- Gây dựng được niềm tin đối với Ban đại diện cha mẹ học sinh
và được ủng hộ, giúp đỡ cho công tác bồi dưỡng học sinh khá giỏi, ôn
luyện HS thi Đại học- Cao đẳng, vì thế số lượng học sinh thi đỗ Đại
học, Cao đẳng , TCCN ngày một tăng.
Học
sinh
Năm học
Đỗ Đại

học
Đỗ Cao
đẳng
Đỗ TCCN Ghi chú
2008-2009 97 41 36
2009-2010 129 37 33
2010-2011 156 48 39
- Trong năm học 2009-2010,2010-2011 trường đều có học sinh tham
gia dự thi Âm vang xứ Thanh và lọt vào vòng thi quí.
2.3. Những tồn tại trong trong công tác tổ chức bồi dưỡng học sinh
giỏi ở trường THPT Cầm Bá Thước.
Nhà trường có nhiều tồn tại hạn chế trong công tác tổ chức bồi
dưỡng học sinh khá giỏi đó là:
- Từ đặc điểm hoàn cảnh kinh tế xã hội của địa phương ảnh
hưởng lớn đến công tác tổ chức.
- GV dạy đội tuyển luôn có sự thay đổi (do thuyên chuyển công tác
và giáo viên đang nằm trong độ tuổi sinh nở nhiều), vì thế thời gian cho
GV tìm hiểu, nắm bắt đối tượng HS và lựa chọn HS vào đội tuyển còn
ít cho nên có những bộ môn chất lượng đội tuyển không cao.
- Do tuổi đời và tuổi nghề của CBGV còn trẻ nên kinh nghiệm
bồi dưỡng của phần lớn CBGV dạy bồi dưỡng còn ít, có những bộ môn
giáo viên lần đầu tham gia dạy bồi dưỡng .
- Giáo viên dạy các đội tuyển là những người năng động nên
thường được bố trí nhiều công việc kiêm nhiệm, do đó có những hạn
chế về mặt thời gian cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Do đặc thù bộ môn nên có những bộ môn rất khó trong việc
chọn HS để thành lập đội tuyển (môn GDCD).
- Việc tập trung HS luyện tập ở các bộ môn Thể dục, QP-AN khó
khăn vì HS đội tuyển dải rác ở nhiều khối, lớp.
- Nguồn kinh phí tổ chức cho hoạt động dạy bồi dưỡng và ý thức, nhận

thức của gia đình học sinh và cộng đồng xã hội còn nhiều hạn chế.
- Ban giám hiệu nhà trường và đội ngũ giáo viên hầu hết còn trẻ tuổi
đời bình quân 29 và đặc biệt có hơn 75% giáo viên từ miền xuôi lên
công tác và không ít trong đó chưa thực sự “An cư lạc nghiệp”, số GV
còn lại là người địa phương chủ yếu học cử tuyển Đại học, chuyên
môn nghiệp vụ và năng lực còn nhiều hạn chế. Đặc biệt trong những
năm gần đây do có sự chuyển đổi các trường bán công lên công lập số
lượng giáo viên thuyên chuyển nhiều (trong năm học 2010-2011, 2011-
2012 nhà trường có đến 14 giáo viên thuyên chuyển). Mặt khác do lịch
sử để lại nên các bộ môn trong nhà trường vẫn còn hiện tượng thừa
thiếu cục bộ nên có những bộ môn phải hợp đồng thêm giáo viên giảng
dạy.
- Chất lượng đầu vào rất thấp lại không đồng đều giữa các vùng miền
trong huyện. (HS thi không có điểm liệt là được tuyển vào học cấp 3)
- Công tác quản lý việc bồi dưỡng học sinh giỏi đã đi vào nề nếp nhưng
chế độ hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy còn thấp, nên nó có ảnh hưởng
đến hiệu quả cũng như tính chiến lược lâu dài của công tác này.
2.4. Một số vấn đề đặt ra trong việc tổ chức bồi dưỡng học sinh
giỏi ở trường THPT Cầm Bá Thước.
Trên cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và xuất phát từ những thực trạng
của công tác tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi, chúng tôi nhận thấy có
một số vấn đề đặt ra là:
-Tăng cường nâng cao nhận thức cho các cấp quản lý, giáo viên và
cha mẹ học sinh về việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Cần xây dựng một đội ngũ giáo viên dạy giỏi.
- Tổ chức các hình thức bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Tăng cường bảo quản sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học
- Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá và thi đua khen thưởng
Những vấn đề nêu trên được giải quyết trong chương 3.
CHƯƠNG 3

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC BỒI DƯỠNG HỌC SINH
GIỎI
Ở TRƯỜNG THPT CẦM BÁ THƯỚC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
3.1. Tăng cường nâng cao nhận thức cho các cấp quản lý,
giáo viên và cha mẹ học sinh về việc tổ chức bồi dưỡng học sinh
giỏi.
3.1.1. Nội dung nâng cao nhận thức:
Ban giám hiệu cần nắm vững và làm cho giáo viên, phụ huynh,
học sinh hiểu đúng về chính sách nhân tài của Đảng, hệ thống các văn
bản về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của Nhà nước của Bộ
GD&ĐT và các cơ quan chỉ đạo khác.
Ngoài ra cần nắm vững được các giai đoạn phát triển của năng
khiếu, tài năng cũng như các đặc trưng của người có năng khiếu, đặc
điểm tâm sinh lý của học sinh giỏi, học sinh năng khiếu, nhận thức
được vị trí, vai trò trách nhiệm của mình để có phương pháp bồi dưỡng,
định hướng cho học sinh phát triển tự nhiên, toàn diện.
3.1.2. Hình thức để nâng cao nhận thức:
Quán triệt hệ thống văn bản, chính sách của Đảng và nhà nước
cũng như những cơ sở lý luận của công tác tổ chức bồi dưỡng học sinh
giỏi “Bồi dưỡng nhân tài”.
Nhà trường định kỳ tổ chức các buổi sinh hoạt cho cha mẹ học
sinh để học trao đổi kinh nghiệm chăm lo dạy bảo con em trong thời
gian tự học ở nhà, đồng thời tạo được mối quan hệ tốt giữa nhà trường
– gia đình.
Phát động phong trào tự học, tự bồi dưỡng, tự hiểu để nâng cao
nhận thức về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi và coi đó là một trong
những tiêu chí để đánh giá xếp loại cán bộ quản lý và giáo viên .
Tổ chức cho giáo viên dạy học sinh giỏi học tập, giao lưu với
những trường có nhiều thành tích trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi.

3.2. Xây dựng đội ngũ giáo viên dạy giỏi
3.21. Tuyển chọn đội ngũ giáo viên dạy bồi dưỡng:
Hàng năm các tổ chuyên môn giới thiệu cho Ban giám hiệu các
cán bộ giáo viên tham gia dạy các đội tuyển để từ đó làm cơ sở cho
việc quyết định cử giáo viên dạy bồi dưỡng.
Tuyển chọn và phân công giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi là
việc quan trọng trong việc tổ chức của Ban giám hiệu . Để đảm bảo
tính khách quan và khoa học, việc tổ chức tuyển chọn phân công giáo
viên tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi cần phải căn cứ vào những tiêu
chí cụ thể sau:
- Nhiệt tình, yêu nghề, yêu trẻ, có tâm huyết với công việc có kỹ
năng thiết kế bài dạy, có ý thức tự học, tự bồi dưỡng.
- Có sức khỏe, tự tin, có kinh nghiệm, có năng lực giao tiếp và
hiểu học sinh.
- Giáo viên có học sinh giỏi các cấp.
- Giáo viên đạt danh hiệu và giờ dạy giỏi các cấp.
- Được giới thiệu từ nhóm, tổ bộ môn, có kinh nghiệm trong công
tác bồi dưỡng HSG .
- Thông qua kênh thông tin học sinh và các kênh khác.
3.2.2. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên dạy học sinh giỏi:
Đầu năm học, Hiệu trưởng nhà trường ra quyết định phân công
giáo viên dạy bồi dưỡng các bộ môn ở các khối lớp, và giao cho ban
chuyên môn phối hợp với tổ bộ môn, giáo viên cốt cán có trách nhiệm
soạn thảo kế hoạch và chương trình cho các lớp ôn luyện thi đại học và
bồi dưỡng học sinh giỏi.Việc tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên bằng
những công việc, hoạt động chủ yếu như sau:
- Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn các giáo viên dạy bồi
dưỡng phải thường xuyên trao đổi và thống nhất bổ sung, cập nhập
chương trình bồi dưỡng.
- Cập nhật tài liệu, thông tin về bồi dưỡng học sinh giỏi.

- Giao nhiệm vụ, khuyến khích tự xây dựng chương trình, tự bồi
dưỡng.
- Kiểm tra đánh giá chất lượng giảng dạy, bồi dưỡng, chất lượng
học sinh.
Ban giám hiệu cần tạo mọi điều kiện thuận lợi về mặt thời gian
để giáo viên dạy bồi dưỡng có thể tham gia các chuyên đề về bồi
dưỡng học sinh gỏi do Sở tổ chức cũng như có thời gian tự học, tự đọc
để cập nhật kiến thức.
-Tăng cường công tác thao giảng chọn giáo viên giỏi các cấp để
phát hiện và bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi các môn. Đồng thời qua thao
giảng dự giờ dạy bồi dưỡng Ban giám hiệu và đồng nghiệp có thể
trao đổi, góp ý và bổ sung kịp thời kiến thức còn thiếu hoặc chưa cập
nhật.
-Tổ chức viết sáng kiến kinh nghiệm và làm đồ dùng dạy học để
giáo viên có điều kiện thể hiện tài năng của mình và cũng là dịp để trao
đổi học hỏi lẫn nhau.
3.3. Tổ chức xây dựng hệ thống tiêu chuẩn dự tuyển, thực
hiện các qui trình phát triển tuyển chọn và các hình thức bồi
dưỡng học sinh giỏi.
3.3.1. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn dự tuyển học sinh giỏi
Do điều kiện về mặt kinh tế, xã hội, trình độ dân trí của địa
phương nơi trường THPT Cầm Bá Thước đóng (như đã nêu) chúng tôi
đã xây dựng hệ thống tiêu chuẩn dự tuyển học sinh giỏi tập trung trong
một số tiêu chí sau:
- Có các giải văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao bậc học THCS .
- Có thành tích học tập toàn diện hoặc từng môn, từng lĩnh vực
loại giỏi hoặc xuất sắc ở cấp dưới và lớp dưới.
- Giữ vững được thành tích học tập trong đội dự tuyển theo mức
độ yêu cầu của nhà trường và giáo viên phụ trách.
- Phẩm chất đạo đức tốt có ý chí vươn lên trong học tập vươn .

3.3.2 Xây dựng và tổ chức thực hiện các qui trình phát triển
tuyển chọn học sinh giỏi.
Với đặc thù của trường THPT Cầm Bá Thước, trong những năm
qua chúng tôi đã sử dụng phương pháp và cách thức phát hiện và tuyển
chọn học sinh giỏi, xuất phát từ nhiều luồng thông tin, kinh nghiệm,
cảm quan riêng của nghề nghiệp cho tất cả các bộ môn, cụ thể thông
qua các điểm sau:
- Thầy cô giáo cũ
- Các hình thức thi tuyển
- Giảng dạy trên lớp
- Qua các bài kiểm tra
- Kết quả học tập lớp dưới
- Trao đổi với gia đình, người thân, qua bạn bè học sinh
- Bằng cảm quan, kinh nghiệm của giáo viên
- Các kênh thông tin khác.
Sau đó chúng tôi tiến hành lập danh sách học sinh dự tuyển và
tiến hành thi tuyển theo đề thi của nhà trường. Dựa vào kết quả thi
tuyển nhà trường lập danh sách chính thức cho các đội tuyển (nếu lớp
12 sẽ tham gia các kỳ thi cấp tỉnh, nếu lớp 10 và lớp 11 sẽ được tiếp
tục bồi dưỡng tạo nguồn cho các năm học tiếp theo).
3.3.3. Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi:
Có nhiều hình thức bồi dưỡng học sinh giỏi, song theo chúng tôi,
cần kết hợp nhuần nhuyễn các hình thức, phương pháp:
- Bồi dưỡng thông qua học chính khoá.
- Bồi dưỡng thông qua học ngoại khoá
- Giao cho học sinh đọc và xử lý tài liệu, làm các bài tập thông
qua tài liệu, đồ dùng trực quan.
- Thành lập các lớp bồi dưỡng - đội tuyển theo môn.
- Thông qua các cuộc thi tìm hiểu kiến thức văn hoá và hiểu biết
xã hội.

- Giao cho 01 giáo viên phụ trách 01 môn/ khối kết hợp với phân
chia nhiều giáo viên cùng giảng dạy bồi dưỡng một môn (mỗi giáo viên
phụ trách một mảng vấn đề).
Ngoài ra giáo viên còn thực hiện việc bồi dưỡng học sinh giỏi
bằng cách khuyến khích học sinh suy nghĩ và phát triển lòng tự tin,
niềm say mê khoa học trong các giờ học như:
- Khích lệ học sinh đặt câu hỏi
- Tổ chức các cuộc thảo luận trong nhóm
- Tạo nên những tấm gương tốt cho học sinh noi theo.
- Động viên học sinh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hàng ngày.
Để giúp học sinh trở thành người tạo ra kiến thức, giáo viên nên sử
dụng những phương pháp sau:

×