Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Hiệu quả hoạt động của chính phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.57 KB, 12 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiệu quả hoạt động của chính phủ được bảo đảm bằng hiệu quả hoạt
động của tập thể chính phủ, của thủ tướng chính phủ và từng thành viên Chính
phủ được quy định tại Điều 6 Luật tổ chức Chính Phủ năm 2001 đã quy định
khẳng định hiệu quả hoạt động thực tế của Chính phủ phải được thể hiện ở ba
hình thức là thông qua phiên họp Chính phủ, thông qua hoạt động của của Thủ
tướng Chính phủ và thông qua hoạt động của thành viên Chính phủ.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thông qua phiên họp Chính phủ
Các phiên họp của Chính phủ là hình thức hoạt động tập thể chủ yếu,
quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ hoạt động của Chính phủ. Vì
vậy, Điều 32 Luật tổ chức chính phủ năm 2011 quy định: “Chính phủ làm việc
theo chế độ kết hợp trách nhiệm của tập thể với việc đề cao quyền hạn và trách
nhiệm cá nhân của Thủ tướng và của mỗi thành viên Chính phủ”. Có thể hiểu,
phiên họp là nơi tập trung trí tuệ của cả tập thể Chính phủ với sự tham gia ý
kiến của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội để giải quyết phần lớn
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ Việt Nam.
1.1 Thời gian, thành phần phiên họp
Theo pháp luật hiện hành, Chính phủ họp thường kỳ mỗi tháng một lần.
Ngoài ra có thể họp bất thường theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc
theo yêu cầu của ít nhất 1/3 tổng số thành viên Chính phủ.
Về thành phần phiên họp: Thành viên Chính phủ chịu trách nhiện tham
dự đầy đủ các phiên họp, nếu vắng mặt trong phiên họp thì phải có sự đồng ý
của Thủ tướng, Thủ tướng có thể cho phép thành viên vắng mặt được cử người
phó của mình dự phiên họp Chính phủ. Ngoài các thành viên Chính phủ, Chủ
tịch nước có quyền tham dự phiên họp Chính phủ khi xét thấy cần thiết. Chủ
tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và
1
người đứng đầu các tổ chức đoàn thể khác có thể được mời tham dự các phiên
họp của Chính phủ khi bàn về vấn đề có liên quan. Khi cần thiết, Chính phủ có


thể mời thủ trưởng Cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Tỉnh,
Thành phố trực thuộc Trung ương tham dự phiên họp của Chính phủ. Các đại
biểu được mời dự họp không phải là thành viên của Chính phủ có quyền phát
biểu ý kiến nhưng không có quyền biểu quyết. Thủ tướng Chính phủ chủ tọa
các phiên họp Chính phủ, nếu được Thủ tướng ủy quyền, một Phó Thủ tướng có
thể chủ tọa phiên họp.
Với thành phần này phiên họp Chính phủ vừa tập trung được trí tuệ tập
thể các thành viên Chính phủ, vừa tham khảo được ý kiến của các đại biểu được
mời, từ đó góp phần làm cho quyết định của phiên họp sát với thực tế, toàn diện
hơn, đồng thời cũng đề cao trách nhiệm của thành viên Chính phủ trong quá
trình biểu quyết.
1.2 Nội dung của phiên họp
Tại phiên họp, Chính phủ thảo luận và quyết định những vấn đề quan
trọng thuộc nhiệm vụ, quyền hạn như: Chương trình hoạt động hàng năm của
Chính phủ; Các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trình Quốc hội và Ủy
ban thường vụ Quốc hội; dự án chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
ngắn hạn và dài hạn, các công trình quan trọng, dự án ngân sách nhà nước; Các
chính sách cụ thể phát triển kinh tế-xã hội, tài chính, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại; Các đề án trình quốc hội về cơ cầu tổ chức các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
điều chỉnh địa giới hành chính cấp tỉnh, quyết định cơ cấu thuộc Chính phủ, các
báo cáo trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước; quyết
định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan thuộc Chính phủ. Tại phiên họp
của Chính phủ sẽ quyết định những nội dung quan trọng đó góp đảm bảo cho
việc hoàn thành nhiệm vụ của Chính phủ-cơ quan hành pháp trong bộ máy nhà
nước.
1.3 Nghị quyết của phiên họp
2
Theo pháp luật hiện hành, Nghị quyết phiên họp của Chính phủ phải
được quá nửa tổng số thành viên Chính phủ biểu quyết tán thành, trường hợp
biểu quyết ngang nhau, thực hiện theo ý kiến mà Thủ tướng đã biểu quyết (Điều

35 Luật tổ chức Chính phủ). Quy định này đã thể hiện sự kết hợp chặt chẽ chế
độ trách nhiệm cá nhân với tập thể, đề cao vai trò tập thể của Chính phủ trong
việc quyết định những vấn đề quan trọng, và đặc biệt đề cao vai trò của Thủ
tướng chính phủ. Phiên họp chính phủ quyết định phần lớn các nhiện vụ, quyền
hạn quan trọng trên cơ sở bàn bạc dân chủ, công khai. Nghị quyết của phiên
họp vừa thể hiện nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời đề cao vai
trò của cá nhân Thủ tướng Chính phủ. Đây được xem như là điểm mới phù hợp
với quan niệm xây dựng Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1992.
2. Thông qua hoạt động của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ là người đứng Chính phủ, người lãnh đạo, điều
hành và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Chính phủ. Khắc phục những
hạn chế trong quy định về quyền hạn của người đứng đầu Chính phủ mà Hiến
pháp 1983 đã quy định, Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001
đã đưa ra những quy định nhằm tăng cường vai trò của người đứng đầu Chính
phủ. Với những quy định này, quyền hạn đã được phân định rõ ràng hơn giữa
tập thể Chính phủ với cá nhân Thủ tướng. Quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ
được quy định khá cụ thể, rõ ràng và có phần mở rộng, nhiều quyền hạn trước
đây giao cho tập thể Hội đồng Bộ trưởng này giao cho cá nhân Thủ tướng.
Theo quy định tại Điều 114 Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức chính
phủ năm 2001, Thủ tướng Chính phủ có những quyền hạn sau:
Triệu tập, chủ tọa phiên họp Chính phủ; quy định chế độ làm việc của
Thủ tướng với các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Tỉnh,
Thành phố trực thuộc Trung ương; lãnh đạo công tác của Chính phủ, Thành
viên của Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các cấp; Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ, cơ quan
ngang Bộ; trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
3
chức, cho từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ; trong thời gian giữa Quốc hội không họp thì Thủ tướng Chính phủ
có quyền trình Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó thủ

tướng, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Chỉ đạo xây dựng các dự án
trình Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, các văn bản quy phạm thuộc
thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng. Thành lập hội đồng và Ủy ban
thường xuyên hoặc lâm thời khi cần thiết; Quyết định các biện pháp cải tiến lề
lối làm việc, hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước. Đình chỉ việc thi hành hoặc
bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, Quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân
dân Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, Luật và các văn
bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; Đình chỉ việc thi hành những Nghị quyết
của Hội đồng nhân dân Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến
pháp, Luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị
Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ.
Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thủ tướng Chính phủ căn
cứ vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, Nghị quyết của
Ủy ban thường vụ Quốc hội; Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Nghị quyết,
Nghị định của Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ ra quyết định, chỉ thị và kiểm
tra việc thực hiện văn bản đó. Văn bản của Thủ tướng Chính phủ ban hành có
hiệu lực thi hành trong phạm vi cả nước và đồng thời, Thủ tướng hướng dẫn,
kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với các ngành, các địa phương và các
cơ sở.
Như vậy, Hiến pháp 1992 đã tổ chức lại Chính phủ theo hướng tăng
cường chế độ thủ trưởng thì việc quy định cho người đứng đầu Chính phủ có
những nhiệm vụ, quyền hạn như trên mới có thể đảm bảo được quyền lãnh đạo
của mình là hoàn toàn hợp lý. Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001
đã có những quy định cụ thể hơn trong trường hợp nào thì Quốc hội sẽ tự nêu
4
vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm đối với các Phó thủ tướng, Bộ trưởng (sau đó có thể
tiến hành thủ tục miễn nhiệm), khi nào thì do Thủ tướng đề nghị Quốc hội miễn
nhiệm, cách chức, cho từ chức.

Cơ chế trách nhiệm của các Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ trước thủ trưởng còn chưa được cụ thể hóa.
Với tất cả những quy định trên, ta thấy rắng quyền hạn của Thủ tướng
Chính phủ đã có thay đổi. Đặc biệt là thẩm quyền ban hành văn bản đã có sự cải
thiện đáng kể. Hình thức văn bản đã phù hợp với vai trò, quyền hạn của Thủ
tướng và qua hình thức văn bản có thể phân biệt giữa văn bản của Chính phủ
với văn bản của Thủ tướng Chính phủ ban hành, tránh được sự chồng chéo về
thẩm quyền. Hơn thế, thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ đã quy định rõ
ràng và cụ thể điều kiện thuận lợi cho Thủ tướng Chính phủ hoàn thành tốt
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, là cơ sở cho các chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam được thực hiện trên thực tế.
3. Thông qua hoạt động của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ.
Ngoài hoạt động của phiên họp, hoạt động của Thủ tướng và phó Thủ
tướng, hoạt động của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đóng vai trò
khá quan trọng trong hoạt động của Chính phủ. Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh
vực công tác trong phạm vi cả nước.
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ là thành viên Chính phủ,
lãnh đạo công tác của Bộ và cơ quan ngang Bộ, phụ trách một số công tác của
Chính phủ. Bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng và trước Quốc hội về
hoạt động quản lý Nhà nước trong phạm vi ngành , lĩnh vực được phân công.
Trong Chính phủ, các Bộ trưởng hoạt động với hai tư cách : Thứ nhất:
là thành viên của Chính phủ, cùng tập thể Chính phủ giải quyết công việc chung
của Chính phủ thông qua các phiên họp; Thứ hai: là người đứng đầu một Bộ,
5

×