Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

SKKN Phương pháp xử lý khi làm bài thi trắc nghiệm nói chung và môn Hóa học nói riêng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.95 KB, 36 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ KHI LÀM BÀI THI TRẮC NGHIỆM
NÓI CHUNG VÀ MÔN HÓA HỌC NÓI RIÊNG"
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay Bộ GD&ĐT đang trong quá trình đổi mới toàn diện về giáo dục ở các cấp học trong
đó có cấp THPT nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo. Công cuộc đổi mới này liên
quan đến rất nhiều lĩnh vực như đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa, đổi mới thiết
bị dạy học, đổi mới quan niệm và đặc biệt là đổi mới cách thức kiểm tra đánh giá. Hình thức
thi trắc nghiệm khách quan được áp dụng đối với các môn Ngoại ngữ, Vật lý, Sinh học, Hóa
học và nhiều môn học khác đã và đang diễn ra những năm gần đây. Nhiều thí sinh hiện rất
hoang mang, lo lắng bởi trong khoảng thời gian 60 phút thi tốt nghiệp phải làm 40 câu hỏi và
trong 90 phút thi tuyển sinh đại học phải hoàn thành tới 50 câu hỏi.
Kỹ năng, phương pháp làm bài chính là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới tiến độ bài làm và
chất lượng bài thi của thí sinh. Nắm được kỹ năng, phương pháp xử lý cộng với nền tảng kiến
thức tốt, thí sinh có thể hoàn thành bài thi trắc nghiệm một cách chính xác nhất và nhanh nhất
trong đúng thời gian quy định.
Để giúp học sinh tự tin,đạt kết quả cao hơn trong quá trình làm bài tập trắc nghiệm cũng như
làm bài thi trắc nghiệm đặc biệt là bồi dưỡng cho đối tượng học sinh dự thi tốt nghiệp THPT,
dự thi đại học, bản thân tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “ Phương pháp xử lý khi làm bài
thi trắc nghiệm nói chung và môn Hóa học nói riêng”
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lý luận của vấn đề:
- Việc học và thi kiểm tra đánh giá là một việc làm không thể thiếu đối với mỗi giáo viên
và học sinh. Học thế nào thi thế đó đã là việc làm quen thuộc với hình thức thi tự luận,
2
nội dung kiến thức chỉ tập trung ở một số phần, một số chương, các em có thể học tủ, ôn
tủ hoặc ôn cấp tốc ở một số trung tâm có các thầy cô nhiều năm trong nghề, có nhiều kinh
nghiệm ôn thi Đại học, cao đẳng, học sinh chỉ cần tập trung ôn tập trong một khoảng thời


gian ngắn là có thể làm bài thi với điểm số cao. Hiện nay hình thức kiểm tra đánh giá đó
đang thu hẹp lại gần, nhất là ở các môn học: Hóa, Sinh, Lý, Ngoại ngữ và một phần ở các
môn học khác. Vì vậy giữa việc học và thi đang là một vấn đề rất băn khoăn không những ở
học sinh và rất nhiều giáo viên.
- Trong khi đó, không có tiết học nào nói về phương pháp học và làm bài thi trắc nghiệm cụ
thể mà ứng mỗi một bài học, mỗi môn học giáo viên phải có một phương pháp riêng để
hướng dẫn cho học sinh của mình không những biết cách giải một bài toán mà còn giải bài
toán đó một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Với ý nghĩa như vậy tôi đã tập trung nghiên
cứu đề tài này nhằm mục đích sau:
+ Giúp học sinh học tập nhanh hơn, hiệu quả hơn, nắm kiến thức toàn diện hơn, đạt kết quả
cao hơn trong các kỳ thi.
+ Tránh được những nhầm lẫn và sai sót trong quá trình làm bài.
+ Gây hứng thú học tập cho mỗi học sinh, mỗi môn học, tạo niềm đam mê cho người học,
người nghiên cứu.
+ Góp phần phát triển trí nhớ, tư duy học tập, khi làm quen với hình thức học mới, thi mới.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thực trạng của việc dạy học sinh giải bài tập và đánh giá học sinh bằng hình
thức thi trắc nghiệm môn Hóa Học ở trường THPT Ba Đình - Nga Sơn - Thanh
Hóa.
a) Về phía giáo viên:
3
Hình thức thi trắc nghiệm những năm gần đây không còn là mới đối với mỗi giáo viên
song rất nhiều giáo viên đang băn khoăn không biết dạy như thế nào, học như thế nào, để
học sinh đạt điểm cao khi giải bài tập dưới hình thức trắc nghiệm và làm bài thi trắc
nghiệm?
b) Về phía học sinh :
Với các em, giải bài toán dưới hình thức thi trắc nghiệm không khó nhưng lại là mới. Bởi
lẽ các em chưa được trang bị các phương pháp và các kỹ năng giải nhanh, chưa loại trừ
hết các trường hợp, đôi khi còn nhầm lẫn về mặt lý thuyết nên khi giải còn nhiều sai sót,
ý thức tự giác của các em chưa cao, còn ỷ lại, trông chờ vào thầy cô giáo. Đứng trước

những bài lý thuyết hoặc nhiều dạng toán, các em ngại làm, ngại học, đôi khi đi tìm lời
giải trong các tài liệu, hoặc chọn liều vừa mất thời gian lại vừa không chính xác. Nhiều
học sinh giải bài tập và làm bài thi tự luận rất tốt nhưng khi giải bài tập và làm bài thi
dưới hình thức thi trắc nghiệm lại đạt điểm không cao.
2. Kết quả khi chưa thực hiện đề tài :
Qua công tác giảng dạy và kiểm tra, khảo sát chất lượng môn Hoá Học ở bậc trung học phổ
thông từ năm 2007 đến năm 2013 tại các khối lớp mà tôi trực tiếp giảng day tôi thấy hầu hết
học sinh được hỏi đều đang gặp lúng túng trong khi làm bài thi trắc nghiệm. Để thấy rõ được
thực trạng và những yếu kém của học sinh khi chuyển từ hình thức thi tự luận sang trắc
nghiệm tôi đã tiến hành khảo sát một đề kiểm tra 15 phút với 10 câu hỏi và thu được kết
quả:
Lớp
Số
HS
Giỏi Khá TB Yếu Kém
S % SL % SL % SL % SL %
4
L
11D 36 4 11,1 12
33,
3
10
27,
8
4
11,
1
2 5,7
11B 29 2 6,9 7
24,

1
15
51,
7
4
13,
8
1 3,5
11I 46 5 10,8 15
32,
6
16
34,
8
6
13,
0
4 8,8
Tổng 111 11 9,9 34
30,
6
41
36,
9
14
12,
6
7 6,3
3. Nguyên nhân của thực trạng trên:
- Chưa có phương pháp học, chưa có kinh nghiệm làm bài.

- Kiến thức rất rộng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nên khả năng nhớ, vận dụng, tổng
hợp kiến thức còn hạn chế.
- Thời gian đầu tư cho việc học không nhiều.
- Thời gian cho mỗi câu hỏi ngắn.
IIi. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
* PHẦN CHUNG:
PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ KHI LÀM BÀI THI TRẮC NGHIỆM
1. Đọc và phân loại bài tập:
5
1.1. Câu trắc nghiệm bao gồm 2 loại, hỏi về lý thuyết và câu hỏi tính toán. Chỉ có điều bài tập
trong câu trắc nghiệm không đòi hỏi thí sinh phải mất nhiều thời gian tính toán, thường là bài
toán cơ bản, hoặc một khâu trong quá trình giải một bài toán tự luận.
1.2. Đối với mỗi câu hỏi, thí sinh sẽ có khoảng từ 1 đến 2 phút để tìm ra đáp án trả lời. Tuy
nhiên, sẽ có những câu thuộc vào phần kiến thức cơ bản, phần lý thuyết trong sách giáo khoa,
thí sinh không cần đến 1 phút mà có thể trả lời ngay sau khi đọc đề. Bên cạnh đó, cũng có
những câu cần phải phân tích, tổng hợp, suy luận hoặc những bài toán cần áp dụng nhiều
phương pháp tính toán. Thông thường những câu này phải mất tới gần 5 phút. Nếu tính cả 4
phương án thì có thể thời gian tìm đáp án phải lên tới 8 đến 10 phút.
1.3. Thí sinh cần đặc biệt lưu ý những câu hỏi "bẫy", đưa ra nhiều đáp án gần giống với
đáp án đúng. Cần hết sức thận trọng và đọc kỹ, hiểu kỹ câu hỏi và các phương án trả lời để lựa
chọn chính xác nhất.
1.4.Với đề thi tuyển sinh, sẽ có khoảng 25 câu vận dụng kiến thức cơ bản 10 câu dành cho
học sinh giỏi dùng để phân loại thí sinh.
1.5. Trong đề thi tốt nghiệp và đề thi tuyển sinh đều có phần kiến thức của cả 3 năm
THPT, trong đó trọng tâm là chương trình lớp 12. Theo một số nhà giáo giàu kinh nghiệm thì
số lượng câu hỏi thuộc về phần kiến thức lớp 12, 11, 10 thường theo tỉ lệ khoảng 5-3-2. Vì
thế, thí sinh cần phải nắm thật chắc toàn bộ chương trình lớp 12, đồng thời không quên ôn lại
kiến thức của hai năm trước đó.
1.6. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại sách hướng dẫn làm bài thi trắc nghiệm,
bộ đề thi trắc nghiệm. Mỗi môn có tới vài chục đầu sách hướng dẫn khiến thí sinh "loạn",

không biết phải ôn tập theo cuốn nào. Trong lúc này, thí sinh không nên sử dụng quá nhiều
sách tham khảo cùng một lúc. Nếu đã chọn cuốn sách nào thì nên "trung thành" với cuốn đó
và làm hết toàn bộ các đề trong sách. Nhưng quan trọng nhất là phải nắm thật vững kiến thức
6
bởi thi trắc nghiệm đồng nghĩa với việc kiến thức trải dài trên diện rộng. Khi có kiến thức bao
trùm cả chương trình, thí sinh có thể làm được bất cứ đề thi nào.
2. Điền vào phiếu trả lời trắc nghiệm:
2.1. Vào phòng thi, khi nhận được phiếu trả lời trắc nghiệm, thí sinh phải điền ngay
vào các mục từ 1 đến 9 (bao gồm thông tin các nhân và thông tin về phòng thi, hội đồng coi
thi, môn thi, ngày thi). Sau khi nhận đề, thí sinh phải điền vào mục số 10 là mã đề thi. Tất cả
thông tin này đều phải điền bằng bút bi hoặc bút mực, không được sử dụng màu đỏ. Nếu điền
thiếu bất cứ thông tin nào, bài làm đều phạm quy. Đồng thời chú ý xem lướt qua đề thi và
phiếu trả lời xem có đầy đủ câu hỏi không, các câu hỏi có được in rõ ràng không. thí sinh
không làm bài trực tiếp vào đề thi mà phải trả lời trên phiếu trả lời trắc nghiệm.
2.2. Thí sinh trả lời câu hỏi trắc nghiệm bằng cách dùng bút chì tô đen toàn bộ khung A, B, C
hoặc D. Nên dùng loại bút chì mềm (2B, 6B ) và phải mang theo vài bút chì gọt sẵn dự trữ,
đề phòng trường hợp gẫy ngòi. Không nên gọt bút chì quá nhọn, nên để đầu bút chì dẹt và
cầm bút chì thẳng đứng để tô đen nhanh.
2.3. Khi tô các ô tròn, thí sinh phải chú ý tô đậm kín cả ô, tô thừa ra ngoài một chút
không sao nhưng tuyệt đối không tô thiếu. Trong trường hợp tô nhầm hoặc muốn trả lời lại,
thí sinh dùng tẩy, tẩy thật sạch ô cũ và tô kín ô mới. Nếu không tẩy sạch, máy chấm sẽ coi
như có 2 ô đen và câu trả lời đó không được chấm điểm.
2.4.Thí sinh nên để phiếu trả lời trắc nghiệm bên phía tay cầm bút, bên kia là đề thi. Tay trái
giữ ở vị trí câu trắc nghiệm đang làm, tay phải dò tìm số câu trả lời tương ứng trên phiếu trả
lời trắc nghiệm và tô vào ô trả lời được lựa chọn. Tuy phải tận dụng thời gian nhưng cũng cần
rất cẩn thận, tránh tô nhầm sang dòng của câu khác bởi vì chỉ cần một câu nhầm dòng có thể
dẫn đến sai dây chuyền toàn bộ các câu sau đó.
3. Cách làm bài thi hợp lý nhất:
7
3.1. Chia đề làm 3 nhóm, làm bài thành 3 vòng

+ Nhóm 1: là câu hỏi mà thí sinh có thể trả lời được ngay.
+ Nhóm 2: là những câu hỏi cần phải tính toán và suy luận.
+ Nhóm 3: là những câu hỏi còn phân vân hoặc vượt quá khả năng của mình thì thí sinh cần
đọc kỹ dành thêm thời gian.
3.2. Ngay khi nhận đề thi, thí sinh nên lướt quan toàn bộ đề thật nhanh trong vòng vài phút và
lựa chọn những câu cảm thấy dễ nhất và chắc chắn nhất để làm trước, đồng thời đánh dấu
những câu chưa làm được trong đề thi. Sau đó quay lại một lượt nữa để giải quyết những câu
đã bỏ qua.
* Lưu ý là trong số những câu của vòng 2, thí sinh vẫn nên chọn các câu dễ hơn để làm trước,
những câu quá khó vẫn tiếp tục gác lại để vòng ba.
3.4. Vì thi trắc nghiệm là một cuộc đua về thời gian nên thí sinh không nên dừng lại
quá lâu ở bất cứ câu hỏi nào. Với những câu không biết chắc đáp án chính xác, nên dùng
phương pháp loại trừ để loại bỏ được càng nhiều phương án sai càng tốt. Khi rút lại được 2
phương án, cơ hội sẽ là 50/50. Nếu khi ấy vẫn chưa có đáp án thì thí sinh buộc phải lựa chọn
theo cảm tính. Tuyệt đối không nên để trống một câu nào. Nếu gần hết thời gian vẫn còn
các câu trống thì hãy dùng các phương pháp xác suất để chọn câu trả lời.
* Chú ý, khi chọn là xác suất các câu đúng ngang nhau, ví dụ như một đề có 50 ( 100%)
câu thì xác suất có khoảng 13 (25-26%) câu đáp án A đúng, 13 (25-26%) câu đáp án B
đúng, 13(25-26%) câu đáp án C đúng, 13(25-26%) câu có đáp án D đúng. Nghĩa là mỗi
câu có xác suất = ¼ Do đó các bạn cứ làm hết sức có thể, đến khi còn khoảng 5 phút
cuối cùng thì dừng lại để thống kê số lượng đáp án đã tính. Chẳng hạn nếu số đáp án D
8
các bạn chọn quá ít thì những câu còn lại các bạn cứ tích D, như thế sẽ tối ưu hóa được số
điểm đạt được.
3.5. Phương pháp loại trừ kết hợp xác suất: Xét trong 4 phương án đề ra (A,B, C, D) Bạn
có thể xác định ít nhất 1 – 2 phương án sai. Giải sử loại trừ A & B ( biết chắc là sai) thì
còn C, D. Xác suât chọn 1 trong 2 đã là 50%. Nếu kết hợp xét chung trong tổng bộ Đề
bạn có thể nâng xác suất đúng lên 75 - 90%
4. Những điều cần lưu ý khi làm bài thi dưới hình thức trắc nghiệm:
4.1. Đối với thi trắc nghiệm, đề thi gồm nhiều nội dung kiến thức, rải khắc chương

trình, không có trọng tâm cho mỗi môn thi,do đó phải học toàn bộ nội dung môn
học, tránh đoán “tủ”, học “tủ”. Gần sát ngày thi, nên rà soát lại chương trình môn học
đã ôn tập; xem kỹ hơn đối với những nội dung khó; nhớ lại những chi tiết cốt lõi. Không
nên làm thêm những câu trắc nghiệm mới vì dễ hoang mang nếu gặp những câu trắc
nghiệm quá khó.
4.2. Đừng bao giờ nghĩ đến việc mang “tài liệu trợ giúp” vào phòng thi hoặc trông chờ
sự giúp đỡ của thí sinh khác trong phòng thi, vì các thí sinh có đề thi với hình thức hoàn
toàn khác nhau.
4.3.Trước ngày thi, nên “ôn” lại toàn bộ quy trình thi trắc nghiệm để hành động chính
xác và nhanh nhất, vì có thể nói, thi trắc nghiệm là một cuộc chạy “marathon”.
4.4.Theo đúng hướng dẫn của giám thị, thực hiện tốt và tạo tâm trạng thoải mái trong
phần khai báo trên phiếu trả lời trắc nghiệm. Bằng cách đó, bạn có thể củng cố sự tự tin
khi làm bài trắc nghiệm.
4.5.Thời gian là một thử thách khi làm bài trắc nghiệm; bạn phải hết sức khẩn trương, tiết
kiệm thời gian; phải vận dụng kiến thức, kỹ năng để nhanh chóng quyết định chọn câu trả
9
lời đúng. Nên bắt đầu làm bài từ câu trắc nghiệm số 1; lần lượt “lướt qua” khá nhanh,
quyết định làm những câu cảm thấy dễ và chắc chắn, đồng thời đánh dấu trong đề thi
những câu chưa làm được; lần lượt thực hiện đến câu trắc nghiệm cuối cùng trong đề.
Sau đó quay trở lại “giải quyết” những câu đã tạm thời bỏ qua. Lưu ý, trong khi thực
hiện vòng hai cũng cần hết sức khẩn trương; nên làm những câu tương đối dễ hơn, một
lần nữa bỏ lại những câu quá khó để giải quyết trong lượt thứ ba, nếu còn thời gian.
4.6. Khi làm từng câu trắc nghiệm cần đọc kỹ nội dung câu trắc nghiệm, phải đọc hết trọn
vẹn mỗi câu cả phần dẫn và 4 lựa chọn A, B, C,D loại bỏ ngay những phương án sai và
tập trung cân nhắc trong các phương án còn lại, phương án nào chọn là phương án đúng
dùng bút chì tô kín ô đã chọn trong phiếu.
4.7. Làm đến câu trắc nghiệm nào, dùng bút chì tô ngay ô trả lời trên phiếu “trả lời trắc
nghiêm”, ứng với câu trắc nghiệm đó. Tránh làm toàn bộ các câu của đề thi trên giấy
nháp hoặc trên đề thi rồi mới tô vào phiếu “trả lời trắc nghiêm”, vì dễ bị thiếu thời gian.
4.8. Khi đọc phần dẫn cần chú ý tới các từ phủ định như “không”; ‘không đúng’; “sai”.

4.9. So với số thí sinh dự thi môn hóa học thì số thí sinh đạt điểm tuyệt đối quả là ít
nhưng không phải là không thể đạt điểm 10. Có nhiều học sinh nắm chắc kiến thức và có
thể làm đúng hoàn toàn bài thi. Nhưng cũng có thí sinh học rất tốt song có những sai sót
cơ bản mất 0,2-0,5 điểm.
Để tránh mất điểm đối với những câu các em nghi ngờ kết quả thì có thể kiểm tra lại.
Đối với bài tập tính toán thì thay kết quả vào kiểm tra lại. Đối với câu hỏi lý thuyết thì cố
gắng dùng phương pháp loại trừ để kiểm tra lại kết quả. Việc làm đề thi Đại học được
chuẩn bị kỹ lưỡng, gồm nhiều giáo viên có kinh nghiệm cũng như kiến thức rất giỏi do
vậy các em không nên có tâm lý nghi ngờ đề sai. Khi giải bài tập không có đáp án A, B,
C, D thì hầu như các em đã giải sai. Hãy bình tĩnh kiểm tra lại và loại trừ các đáp án mà
10
các em xác định chắc chắn sai. Từ đó khả năng tìm câu trả lời sẽ cao hơn và không bị mất
điểm.
4.10. Điều cuối cùng tôi muốn nhắc nhở các bạn trước khi bước vào phòng thi là:
+ Tự tin vào bản thân mình (kiến thức cũng như khả năng của bạn).
+ Không nên dự đoán xem đề thi khó hay dễ, các bạn nhớ rằng khó là khó chung và dễ
là dễ chung cho tất cả các thí sinh.
+ Thư giãn và tập trung vào trả lời câu hỏi. Câu dễ làm trước, câu khó làm sau, đừng
nản chí.
+Tận dụng tối đa thời gian làm bài.
* PHẦN RIÊNG:
PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ KHI LÀM BÀI THI TRẮC NGHIỆM MÔN HÓA HỌC
1. Kinh nghiệm khi làm bài thi trắc nghiệm môn Hóa học:
1.1. Điểm khác biệt giữa bài thi Hóa so với các môn Toán - Lý là phần tính toán
của Hóa đơn giản. Tuy nhiên môn Hóa thường phải nhớ kiến thức lý thuyết nhiều. Nắm
tốt các lý thuyết tổng quát sẽ giúp các em làm tốt 70% số câu hỏi. Phần còn lại nằm vào
các trường hợp đặc biệt cần phải nhớ hoặc cần suy luận.
1.2. Đề thi trắc nghiệm môn Hóa học thông thường gồm ½ là câu hỏi lý thuyết và
½ là bài tập tính toán.
- Nếu là bài tập tính toán, trước hết các em cần xác định việc tính toán không quá

phức tạp, hầu hết đều có thể đưa về 1 phương trình hay hệ phương trình toán học đơn
giản, phải được trang bị một số phương pháp giải toán hoá như: các công thức tính
nhanh, các phương pháp giải nhanh như: Bảo toàn khối lương, phương pháp bảo toàn
11
electron, phương pháp đường chéo, bài toán chất khí, phương pháp trung bình Trước
khi giải toán phải tìm số mol các chất (nếu có thể), viết phương trình hoá học hay sơ đồ
biến hoá để kết nối các mối quan hệ, từ đó lập phương trình toán học, giải toán tìm
nghiệm. Trong một số trường hợp bài toán hóa học cho số chia không hết (ví dụ 89/3)
học sinh thường làm tròn và có thể dẫn đến một kết quả sai, trong trường hợp này ta nên
dùng phân số để tính toán.
- Nếu là bài tập lý thuyết các em cần ôn tập đầy đủ phần lý thuyết trong sách giáo khoa.
Một điều chắc chắn là đề thi không được phép ra ngoài chương trình sách giáo khoa nên
học sinh không cần sa đà vào các kiến thức khó ngoài sách giáo khoa. Cách tốt nhất là
học sinh nên tự làm đề cương để kiểm soát phần nào còn thiếu, yếu hoặc chưa hiểu kĩ
theo từng dạng như sau:
+ Đề thi thường có các câu hỏi giáo khoa hoặc bài tập có tính toán nhỏ có nội dung
của kiến thức vô cơ - đại cương. Để lấy điểm trọn vẹn, các em phải nắm thật vững kiến
thức sách giáo khoa và làm bài thật chuẩn xác. Với các câu này, nội dung thường nằm
trong các phần: cấu tạo nguyên tử - bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học; phản ứng oxy
hóa - khử, chuyển dịch cân bằng, dung dịch - sự điện ly, các bài toán pH, tính chất hóa
học của những chất thuộc các nguyên tố halogen S, O, N, P, Al, Fe
+ Những câu có nội dung hóa hữu cơ thường có nội dung nằm trong các bài tiêu
biểu thuộc các nhóm nguyên tố (C, H); (C, H, O) và (C, H, O, N), kết hợp halogen với
các cách cho thường gặp như viết phản ứng, nêu hiện tượng thí nghiệm, hoàn thành sơ đồ
phản ứng, điều chế, nhận biết và tách chất.
+ Về bài toán vô cơ, chủ yếu là các bài toán về kim loại và hợp chất của kim loại
phản ứng với axit; muối; phản ứng nhiệt luyện, các phản ứng trong dung dịch. Ở câu này,
yêu cầu ở thí sinh cao hơn, để lấy được điểm tối đa phải là các thí sinh khá giỏi!
12
1.3. Dù hóa vô cơ hay hữu cơ, dù là lý thuyết hay bài tập, phần cốt lõi của môn Hóa học

nằm trong hóa tính và điều chế các chất. Sau khi nắm vững các phần này, việc kế tiếp là
các em phải hệ thống lại các bài học thì mới có thể vận dụng chúng dễ dàng. Nên nhớ,
tuy hiện nay, các em thi đề trắc nghiệm nhưng khởi đầu để ôn tập phải biết cách lập luận
của đề tự luận, nếu không các em sẽ không biết bắt đầu từ chỗ nào để đến kết quả.
2 Tránh những “nhầm lẫn” trong quá trình vận dụng kiến thức
Phản ứng oxi hoá - khử là một kiến thức rất quan trọng, nó xuyên suốt trong chương
trình hoá học vô cơ, trong kiểm tra kiến thức của các kì thi từ tốt nghiệp, đại học đến các
kỳ thi chọn học sinh Tỉnh, Thành phố, đến các kì thi Quốc gia hầu hết đều có kiểm tra
kiến thức về phản ứng oxi hoá - khử, việc hiểu và vận dụng kiến thức về phản ứng oxi
hoá khử không thật đơn giản và dễ, sau đây là một số “nhầm lẫn” về việc vận dụng kiến
thức này.
Ví dụ 1: Hãy viết các PTHH sau đây dưới dạng ion đầy đủ và ion rút gọn
a. Al + HNO
3


Al(NO
3
)
3
+ NO
2
+ H
2
O
b. Fe + H
2
SO
4



FeSO
4
+ H
2

c. Mg + H
2
SO
4

(đặc, nóng)


MgSO
4
+ S + H
2
O
* Phân tích:
Với loại câu hỏi này hầu hết học sinh đều áp dụng kiến thức về điện li và trình bày với kết quả
sau:
a. Phương trình ion đầy đủ:
Al + 6 H
+
+ 6 NO
3
-



Al
3+
+ 3 NO
3
-
+ 3NO
2
+ 3 H
2
O
Phương trình ion rút gọn:
13
Al + 6 H
+
+ 3 NO
3
-

Al
3+
+ 3 NO
2
+ 3 H
2
O
b. Phương trình ion đầy đủ:
Fe + 2 H
+
+ SO
4

2-


Fe
2+
+ SO
4
2-
+ H
2
O
Phương trình ion rút gọn là:
Fe + 2 H
+


Fe
2+
+ H
2
c. Phương trình ion đầy đủ :
2 Fe + 8 H
+
+ 4 SO
4
2-

2 Fe
3+
+ 3 SO

4
2-
+ S + 4 H
2
O
Phương trình ion rút gọn:
2 Fe + 8 H
+
+ SO
4
2-


2 Fe
3+
+ S + 4 H
2
O
* Với cách giải trên học sinh đã phạm một sai lầm ở câu (c) - đó là nhìn phương trình
ion rút gọn, ta thấy ion SO
4
2-
có tính oxi hoá, nhưng thực chất ion SO
4
2-
không có tính oxi
hóa, mà tính oxi hoá là của cả phân tử H
2
SO
4


Ví dụ 2: X là một oxit sắt trong 3 oxit: FeO, Fe
2
O
3,
Fe
3
O
4
. có % khối lượng sắt trong
oxit là 72,41 %. Cho biết CTPT của X, tính thể tích dd HNO
3
0,7 M cần thiết để hoà tan
hết 69,6 gam X, biết phản ứng giải phóng khí NO duy nhất.
A. Fe
2
O
3,
4 l. B. Fe
3
O
4
, 4l. C. Fe
2
O
3
, 5l. D. Fe
3
O
4

, 4/7l.
* Phân tích: Với bài toán này thấy ngay oxit sắt phải có tính khử, vì vậy X có thể là
FeO hoặc Fe
3
O
4
, đối chiếu đáp án học sinh sẽ chọn ngay là đáp án B hoặc D. Việc tính
thể tích HNO
3
học sinh sẽ áp dụng phương pháp bảo toàn electron như sau:
- Qúa trình oxi hoá:
3 Fe
+8/3
(Fe3O4)
+ 3e

3 Fe
3+
14
Mol: 69,9/232

0,3
- Qúa trình khử:
NO
3
-
+
3 e + 4 H
+



NO + 2 H
2
O
Mol: 0,3

0,4
Vậy: Số mol HNO
3
đã tham gia phản ứng trên là: 0,4 (mol)
Do đó thể tích dd HNO
3
là 0,4/0,7 = 4/7

Chọn đáp án D
* Với cách giải trên học sinh đã phạm một sai lầm là viết quá trình khử để tính số mol
HNO
3
thì số mol HNO
3
trong quá trình đó là lượng HNO
3
tham gia phản ứng oxi hoa -
khử, còn lượng HNO
3
trong cả quá trình phản ứng thì còn phải tính thêm lượng HNO
3
tham gia phản ứng axit – bazơ với Fe
3
O

4
. Vì vậy ta có cách giải khác như sau:
- PTHH:
3 Fe
3
O
4
+ 28 HNO
3


9 Fe(NO
3
)
3
+ NO + 14 H
2
O (*)
Mol: 0,3

2,8
Theo PTHH (*) Số mol HNO
3
là: 2,8 Thể thích dd HNO
3
là 2,8/0,7 = 4 (lít)


Chọn đáp án B
3. Tránh những “bẫy” về cách hiểu và vận dụng kiến thức

Kiến thức hóa học phổ thông vừa phong phú vừa đa dạng, vừa lí thuyết vừa thực
nghiệm, vừa trừu tượng và vừa cụ thể, nên việc mắc sai lầm trong học tập là điều khó
tránh khỏi. Giáo viên nên có những dự đoán về sai lầm để tạo tình huống có vấn đề trong
bài tập, phần nào giúp học sinh hiểu được những sai lầm đó qua hoạt động giải bài tập,
tránh mắc phải những tình huống tương tự sau khi đã hiểu kiến thức một cách chính xác.
15
Ví dụ 3: Đốt cháy hoàn toàn 14,4 gam một hiđrocacbon A thu được 44,0 gam CO
2.
Tìm CTPT của hyđrocacbon A
* Phân tích: Với bài tập này nhiều học sinh đưa ra lời giải như sau:
Từ giả thiết

nCO
2
=


44
44
= 1,0 (mol)

m
C
= 12.1,0 = 12 (gam)
Từ đó suy ra: m
H
= 14,4 – 12,0 = 2,4 (gam)

Gọi CTTQ của hyđrocacbon A là C
x

H
y
ta có:
x : y =
12
1
mC
mH
= 1: 2,4 = 5: 12. Vậy CTPT của hyđrocacbon A là: C
5
H
12
.
* Với cách giải trên nhiều học sinh đã phạm sai lầm là nhầm lẫn giữa công thức thực
nghiệm và CTPT, thực chất của việc giải trên là mới chỉ tìm ra được công thức thực
nghiệm, để có CTPT ta phải giải như sau.
- Như trên ta tìm được:
nCO
2
= 1,0 (mol), từ m
H
= 2,4 gam

nH
2
O =
1
2
n
H

= 1,2 mol
Do: nH
2
O > nCO
2
nên A là ankan, có công thức tổng quát là C
n
H
2n + 2,

với n =
2
nCO
nA
=
1,0
1,2 1,0−
= 5.
Vậy CTPT của hyđrocacbon A là: C
5
H
12
Ví dụ 4. Cho biết điểm sai của một số cấu hình electron sau và sửa lại cho đúng?
a. 1s
2
2s
1
2p
5
.

b. 1s
2
2s
2
2p
6
3s
2
3p
6
4s
2
3d
2
.
c. 1s
2
2s
2
2p
6
4s
2
.
16
* Phân tích: Đây là một bài tập kiểm tra kiến thức về víêt cấu hình electron. Vậy học
sinh phải hiểu khái niệm về cấu hình electron và phương pháp viết cấu hình electron, cụ
thể là:
Bước 1. Mức năng lượng: 1s 2s2p 3s3p 4s3d4p 5s4p5d…
Bước 2. Hiểu rõ các quy tắc viết cấu hình electron: Sắp xếp các phân lớp theo đúng trật

tự của từng lớp, trong mỗi lớp theo đúng thứ tự phân lớp.
Với kiến thức này học sinh sẽ áp dụng giải quyết vấn đề trên
a. 1s
2
2s
1
2p
5
- Điểm sai: Vi phạm về việc sắp xếp electron theo trật tự mức năng lượng.
- Sửa lại: Chủ yếu học sinh chỉ sửa lại theo kết quả 1s
2
2s
2
2p
4
(bảo toàn e), như vậy học
sinh đã làm đúng nhưng còn thiếu một kết quả: 1s
2
2s
2
2p
5
.
b. 1s
2
2s
2
2p
6
3s

2
3p
6
4s
2
3d
2
:
- Điểm sai: Đây là mức năng lượng chứ không phải là cấu hình electron, vì vậy hầu hết sẽ
sửa lại là 1s
2
2s
2
2p
6
3s
2
3p
6
3d
2
4s
2
.
- Tuy nhiên từ cấu hình electron trên học sinh có thể sửa theo kết quả không bảo toàn
electron 1s
2
2s
2
2p

6
3s
2
3p
6
4s
2
cũng thoã mãn.
c. 1s
2
2s
2
2p
6
4s
2
:
- Điểm sai: Cấu hình e này thiếu lớp 3,vì phạm về sắp xếp e và mức năng lượng
- Sửa lại: + Hầu hết học sinh sẽ sử dụng bảo toàn electron nên viết lại cấu hình electron
là: 1s
2
2s
2
2p
6
3s
2
* Một số học sinh có thể không dừng lại bảo toàn electron mà thấy rằng lớp thứ 3 còn
thiếu electron nên có thể viết lại cấu hình trên với kết quả 1s
2

2
2
2p
6
3s
2
3p
6
3d
10
4s
2
.
17
* Một số học sinh nắm vững về cấu hình electron có thể còn đưa ra 9 kết quả khác nữa:
1s
2
2s
2
2p
6
3s
2
3p
6
3d
x
4s
2
với x là: 0, 1, 2, 3, 5, 6, 7, 8, 10.

Ví dụ 5. Xác định sản phẩm chính của phản ứng sau:
CH
2
= CH – COOH + HCl

* Phân tích: Đây là một câu hỏi về phản ứng cộng hợp của tác nhân bất đối xứng và
liên kết đôi C = C. Để giải quyết vấn đề này học sinh phải vận dụng quy tắc
Maccopnhicop: Trong phản ứng cộng axit hoặc nước (kí hiệu chung là HA) vào liên kết
C=C, H (phần mang điện tích dương) ưu tiên cộng vào C mang nhiều H hơn (cacbon bậc
thấp hơn), còn A (phần tử mang điện tích âm) ưu tiên cộng vào C mang ít H hơn (cacbon
bậc cao hơn)
* Áp dụng:
CH
2
= CH – COOH + HCl

CH
3
– CHCl – COOH (sản phẩm chính)
CH
2
= CH – COOH + HCl

CH
2
Cl – CH
2
– COOH (sản phẩm phụ)
- Với cách giải quyết trên học sinh sẽ vướng vào cái “bẫy” là phản ứng trên cộng trái với
quy tắc Maccopnhicop vì hai liên kết đôi liên hợp C

3
= C
2
- C
1
= O phân cực về phía O,
suy ra liên kết đôi C = C phân cực về phía C
2
nên tại C
2
mang một phần điện tích âm và
H
+
của tác nhân sẽ ưu tiên tấn công vào C
2
→ sản phẩm chính là
CH
2
Cl – CH
2
– COOH.
Ví dụ 6: Cho lượng dư bột kim koại Fe tác dụng với 250 ml dung dịch HNO
3
4M đun
nóng và khuấy đều hỗn hợp. Phản ứng xảy ra hoàn toàn và giải phóng ra khí NO duy
nhất. Sau khi kết thúc phản ứng, đem lọc bỏ kết tủa thu được dung dịch A. Làm bay hơi
cẩn thận dung dịch A thu được muối khan, nung nóng lượng muối khan đó ở nhiệt độ cao
18
để phản ứng nhiệt phân xảy ra hoàn toàn, thu được m gam chất rắn và x (mol) hỗn hợp
gồm 2 khí.

a. Viết các phương trình phản ứng xảy ra.
b. Tìm m và x
* Phân tích: Với bài tập này học sinh sẽ tập trung vào việc chú ý đến tính chất oxi hóa
mạnh của HNO
3
, vì vậy các em sẽ giải quyết bài toán bằng việc viết các phương trình hoá
học:
Fe + 4 HNO
3


Fe(NO
3
)
3
+ NO + 2 H
2
O (1)
- Dung dịch A có Fe(NO
3
)
3
quá trình cô cạn A không xảy ra sự nhiệt phân muối, vậy
muối khan là Fe(NO
3
)
3
, nhiệt phân muối này sẽ xảy ra phương trình hoá học sau:
4 Fe(NO
3

)
3

0
t C
→
2 Fe
2
O
3
+ 12 NO
2
+ 3O
2
(2)
- Vậy chất rắn thu được là Fe
2
O
3
và hỗn hợp khí thu được là NO
2
, O
2
.
Từ giả thiết, do kim loại dư nên HNO
3
hết.
Vậy: nFe
2
O

3
=
1
8
nHNO
3
=
1
8
.4.0,25 = 0,125 (mol)


mFe
2
O
3
= 0,125.160 = 20,0 (g)
nNO
2
= 6nFe
2
O
3
; nO
2
=
3
2
.nFe
2

O
3



n
khí
=
15
2
.nFe
2
O
3
=
15
16
(mol)
* Tuy nhiên với cách giải trên học sinh đã vấp “bẫy” là không chú ý dữ kiện đây là kim
loại Fe, khác với các kim loại khác ở chỗ là khi Fe dư thì sẽ xảy ra phản ứng:
Fe + 2 Fe(NO
3
)
3


3 Fe(NO
3
)
2

(3)
19
Như vậy cách hiểu trên sẽ đem lại kết quả sai.
- Vậy dung dịch A không phải có Fe(NO
3
)
3
mà có Fe(NO
3
)
2
và phương trình hoá học
nhiệt phân muối xảy như sau:
4 Fe(NO
3
)
2


2 Fe
2
O
3
+ 8 NO
2
+ O
2
(4)
Do đó khối lượng chất rắn và số mol khí thu được là:
mFe

2
O
3
= 0,1875. 160 = 30,0 (g); n
khí
=
5
2
.nFe
2
O
3
=
15
32
(mol)
Ví dụ 7: Nguyên tố M thuộc chu kỳ 2, nhóm VIIA. Công thức oxit cao nhất và hợp
chất khí với H là:
A. M
2
O
3
, MH
3
. B. MO
3
, MH
2 .
C. M
2

O
7
, MH. D. M
2
O, MH.
* Phân tích: Bài tập trên là một bài kiểm tra kiến thức học sinh về nội dung bảng HTTH,
để làm bài tập này, học sinh phải nắm vững kiến thức về CTTQ của các loại hợp chất
quan trọng: oxit cao nhất, hyđroxit, hợp chất khí với hyđro của các nguyên tố nhóm IA
đến VIIA. Với kiến thức đó, các nguyên tố nhóm VIIA sẽ có công thức tổng quát về oxit
cao nhất là R
2
O
7
và công thức với hợp chất khí với hyđro là RH.
Vậy chọn đáp án C.
* Tuy nhiên học sinh dễ mắc phải “bẫy” là với đặc điểm các nguyên tố thuộc chu kỳ 2
thì kết quả trên lại sai. Ở chu kỳ 2, nhóm VIIA là nguyên tố F, do đặc điểm cấu tạo
nguyên tử F nên công thức oxit cao nhất của F lại là F
2
O vì vậy chọn đáp án D.
Ví dụ 8 : Dãy gồm các chất đều tác dụng với dd Fe(NO
3
)
2
là:
A. Mg, Cl
2
, NaOH, NaCl. B. AgNO
3
, Cl

2
, NH
3
, NaOH.
C. NaOH, Cl
2
, NH
3
, HCl, AgNO
3
. D. AgNO
3
, NaOH, Cu, HCl.
20
* Sai lầm: Hầu hết học sinh đều cho rằng không có phản ứng giữa HCl với Fe(NO
3
)
2

HCl và HNO
3
đều là những axit mạnh và là axit bay hơi. Do đó học sinh chọn đáp án B
* Phân tích: Khi cho Fe(NO
3
)
2
tác dụng với dd HCl thì sẽ xảy ra phản ứng dạng ion như
sau:
Fe
2+

+ 2 H
+
+ NO
3
-


Fe
3+
+ NO
2
+ H
2
O
Vì vậy chọn đáp án C.
Ví dụ 9: Cho các chất p-Crezon, natrietylat, anilin, phenylamoniclorua, protein. Số chất
tác dụng được với dd NaOH là:
A. 5 B. 4 C.3 D. 2
* Sai lầm: Học sinh thường chọn đáp án B là gồm 4 chất: p- Crezon, alanin,
phenylamoniclorua và protein.
* Phân tích: Học sinh đã sai lầm khi không để ý phản ứng giữa etylatnatri với H
2
O, bởi
vì trong dung dịch NaOH có H
2
O.
Chính vì có thêm phản ứng này nên ta chọn đáp án A
Ví dụ 10: Cho dd NaOH loãng, dư vào mỗi dung dịch : BaCl
2,
AlCl

3
, CrCl
2
, CuCl
2
,
AgNO
3
. Số chất kết tủa tạo thành là:
A. 2. B. 3. C.4. D. 5.
* Sai lầm: Đa số học sinh làm như sau:
Cho dd NaOH vào dd BaCl
2
thấy không

có hiện tượng gì.
Cho từ từ dd NaOH vào dd AlCl
3
thì xuất hiện kết tủa, sau đó kết tủa tan.
Cho dd NaOH vào dd CuCl
2
thấy tạo kết tủa Cu(OH)
2
21
Cho dd NaOH vào dd AgNO
3
không xảy ra phản ứng do AgOH không tồn tại. nên
không xảy ra phản ứng.Vậy học sinh chọn đáp án A.
* Phân tích: Do AgOH không tồn tại nên đã bị phân hủy thành Ag
2

O và H
2
O. Chính vì
vậy khi cho dd NaOH vào dd AgNO
3
có xảy ra phản ứng.
Vậy chọn đáp án đúng là: B
Ví dụ 11: Fructozơ có thể phản ứng được với:
A. dung dịch Br
2
. B. Cu(OH)
2
. C. dung dịch KMnO
4
. D. Cả 3 chất.
* Sai lầm: Hầu hết học sinh sẽ chọn đáp án D, bởi vì các em suy nghĩ rằng Fructzơ là
ancol đa chức nên có phản ứng với Cu(OH)
2
, có cân bằng:
Fructozơ
→
¬ 
Glucozơ
nên có phản ứng khử nhóm chức –CHO bằng chất oxihoá mạnh như dd Br
2
, hay dd
KMnO
4
.
* Phân tích: Thực ra để có cân bằng Fructozơ

→
¬ 
Glucozơ thì cần phải có
môi trường –OH. Chính vì thế mà dd Br
2
hay dd

KMnO
4
đều

không thể oxi hóa được
Fructozơ.
Chọn đáp án B.
Ví dụ 12: Điều chế polyvinylancol, người ta dùng các phương pháp nào sau đây:
1. Trùng hợp ancol vinylic
2. Trùng hợp vinylaxetat, sau đó thuỷ phân trong dd NaOH
3. Thuỷ phân tinh bột.
A.1 và 2. B. Chỉ có 1. C. Chỉ có 2. D. Chỉ có 3.
22
* Sai lầm: Hầu hết học sinh thường chọn đáp án A, vì học sinh thường nghĩ rằng để có
polyvinylancol thì phương pháp trùng hợp được áp dụng và trùng hợp monome
ancolvinylic.
* Phân tích: Học sinh đã phạm một sai lầm là ancolvinylic là một loại ancol kém bền,
không tồn tại, nó sẽ tự chuyển thành andehitaxetic CH
3
CHO.
Vậy đáp án đúng là C
Ví dụ 13: Sự mô tả nào sau đây không đúng hiện tượng hoá học.
A. Cho từ từ dd CH

3
COOH loãng vào dd Na
2
CO
3
và khuấy đều, lúc đầu không có hiện
tượng gì, sau một thời gian thấy có sủi bọt khí.
B. Cho quỳ tím vào dung dịch Benzylamin thấy quỳ tím chuyển sang màu xanh.
C. Cho từ từ anilin vào dd HCl thấy tan dần vào dd HCl.
D. Cho propilen vào nước Br
2
thấy nước Br
2
bị mất màu và thu được một dd đồng nhất
trong suốt.
* Sai lầm: Hâu hết học sinh sẽ chọn đáp án B vì cho rằng amin thơm ít tan trong nước
nên không làm đổi màu quỳ tím.
* Phân tích: Benzylamin là một trường hợp đặc biệt, tan rất nhiều trong nước và đổi
màu quỳ tím, vì có phản ứng thuỷ phân với H
2
O. Vì vậy chọn đáp án D
4. Tránh vận dụng các phương pháp giải toán một cách không hợp lí và không triệt
để trong việc giải các bài tập hoá học.
Một số sai lầm phổ biến như khi tính theo phương trình hóa học hoặc sơ đồ phản ứng
mà quên cân bằng hoặc cân bằng không đúng, hiểu sai các công thức tính toán trong hoá
học, sử dụng đơn vị tính không thống nhất, không để ý đến hiệu suất phản ứng cho trong
23
bài, không xác định được chất nào hết hay dư trong quá trình phản ứng, hiểu sai tính chất
của các chất nên viết phương trình hóa học không chính xác, thiếu các kĩ năng cơ bản khi
sử dụng các phương pháp giải bài tập,

Ví dụ 14. Trong một cốc nước chứa a mol Ca
2+
, b mol Mg
2+
và c mol HCO

3
. Nếu chỉ
dùng nước vôi trong, nồng độ Ca(OH)
2
x M để làm giảm độ cứng của nước thì người ta
thấy khi thêm V lít nước vôi trong vào cốc thì độ cứng của nước trong cốc là nhỏ nhất.
Biểu thức tính V theo a, b, x là
A.V =
x
ab +2
B.V =
x
ab
+
C.V =
x
ab 2+
D.V =
x
ab
2
+
* Phân tích: Cách giải phổ biến thường gặp là dựa vào các phản ứng ion


Ca(OH)
2


Ca
2+
+ 2OH
-
Số mol: x.V → x.V → 2x.V

3
HCO

+ OH
-


H
2
O +
2
3
CO

Số mol: c → 2x.V → 2x.V

2
3
CO


+ Mg
2+


MgCO
3

b ← b

2
3
CO


+ Ca
2+
→ CaCO
3

(a + x.V)← (a + x.V)
Vậy ta có: a + b + x.V = 2x.V → V =
b a
x
+
→ Phương án nhiễu B.
24
* Sai lầm ở đây là học sinh không biết độ tan của Mg(OH)
2
(T = 5.10
-12

) nhỏ hơn nhiều
so với MgCO
3
(T = 1.10
-5
) nên có sự ưu tiên tạo kết tủa Mg(OH)
2
, do đó phản ứng trao
đổi ion trong dung dịch lại xẩy ra như sau:
Ca(OH)
2


Ca
2+
+ 2OH
-
Số mol: x.V → x.V → 2x.V

3
HCO

+ OH
-


H
2
O +
2

3
CO

Số mol: c → c → c
2OH
-
+ Mg
2+


Mg(OH)
2

2b ← b

2
3
CO

+ Ca
2+
→ CaCO
3

c → c
Vậy ta có: c = x.V + a và c + 2.b = 2x. V → V =
2b a
x
+


→ Đáp án A.
Ví dụ 15. Hỗn hợp X gồm axit HCOOH và CH
3
COOH có số mol bằng nhau. Lấy 5,3 g
hỗn hợp X cho tác dụng với 5,75 g C
2
H
5
OH (có H
2
SO
4
đặc làm xúc tác) thu được m (g)
hỗn hợp este (hiệu suất các phản ứng este hóa đều bằng 80%). Giá trị m là :
A. 7,04 B. 6,48 C. 8,10 D. 8,80
* Phân tích: Học sinh dễ mắc sai lầm khi áp dụng nhanh phương pháp tăng - giảm khối
lượng quen thuộc nhưng chỉ chú ý đến số mol ancol:
RCOOH + C
2
H
5
OH

RCOOC
2
H
5
+ H
2
O

25

×