Lời nói đầu
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước lấy dân làm gốc; Gốc có vững, cây mới
bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người rất tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười lần
không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Đó là cái
bảo đảm chắc chắn nhất cho cách mạng thắng lợi. Người cho rằng: “Trong bầu trời không có gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lục lượng đoàn kết của nhân dân”.
Vậy ta có thể thấy,vấn đề dân tộc là một nội dung quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh là
cốt lõi để thúc đẩy xây dựng một nước Việt Nam XHCN hoà bình, thống nhất, dân giàu, nước
mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh. Cùng với loài người tiến bộ, nhân dân Việt Nam đã
bước vào thế kỉ mới, thiên niên kỉ mới với khí thế thi đua sôi nổi tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước theo con đường đã chọn: con đường độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH.
Chặng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và những quan điểm tư
tưởng của Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc,đề ra chính sách dân tộc đúng đắn
cho cách mạng Việt Nam. Chính sách đó vừa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt
Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tiến bộ của nhân loại, nên nó đã được cộng đồng 54 dân
tộc Việt Nam đón nhận với niềm phấn khởi và đầy tin tưởng, cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt
Nam có được sức mạnh to lớn để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
trước đây cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Nghiên cứu và làm rõ đề tài:”Tìm hiểu tính sáng tạo về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ
Chí Minh”,tiểu luận nhóm bao gồm 3 phần chính:
I -Tổng quan vấn đề dân tộc
II – Tính sáng tạo về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
III - Vận dụng sự sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong công
cuộc đổi mới hiện nay.
I.Tổng quan vấn đề dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta,
trong đó tư tưởng về chủ nghĩa xã hội là một bộ phận hết sức quan trọng.
Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm
rằng, chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp vô sản nhằm xóa bỏ
ách thống trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện lý tưởng giải phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội
loài người. Chủ nghĩa xã hội còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như là một quá trình lịch sử lâu
dài để từng bước đạt tới mục tiêu
*Quan điểm của Mác, Angghen, Lênin về vấn đề dân tộc
Dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý,
tư tưởng, văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê Nin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển
lâu dài của lịch sử.Hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Tiếp đó,sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của dân tộc TBCN. CNTB bước sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lươc, cướp bóc, nô dịch các
dân tộc nhỏ từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Mác và Ăngghen nêu lên quan điểm cơ bản
có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của dân tộc,
những quan hệ cơ bản của dân tộc,thái độ của giai cấp công nhân và Đảng của nó về vấn đề dân
tộc.
Lênin đã phát triển quan điểm này thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc về dân tộc,
làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các đảng cộng sản về vấn đề dân tộc. Sự phát
triển của vấn đề dân tộc, theo Lênin, có 2 xu hướng trong điều kiện của CNTB:
+ Sự thức tỉnh ý thức dân tộc, phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn đến hình
thành các quốc gia dân tộc độc lập.
+ Với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc sẽ dẫn tới việc phá hủy
hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, thiết lập sự thống nhất quốc tế của CNTB, của đời sống KT-
CT-XH .
. .
II – Tính sáng tạo về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Khi các nước đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, chúng thực hiện sự áp
bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa đối với các nước bị xâm chiếm-thì vấn đề
dân tộc trở thành vấn đề dân tộc thuộc địa.
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa nhằm
thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân,
thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Cách tiếp cận sáng tạo, độc đáo về bản chất của chủ nghĩa xã hội cũng như các định hướng
và động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đặc biệt, tư tưởng của Người về vấn đề dân tộc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn
mãi mãi là những kinh nghiệm quý báu và là nguồn khích lệ to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta.
1.Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại cách mạng vô sản thế kỷ 20
có mấy luận điểm cơ bản sau:
a) Độc lập, tự do là quyền bất khả xâm phạm của các dt.
Tất cả các dt trên TG phải được độc lập hoàn toàn và thật sự. Độc lập trên tất cả các mặt kinh
tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề của chủ quyền quốc gia do dân tộc
đó tự quyết định. Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do triệt để theo nguyên tắc: Nước Việt Nam là của
người Việt Nam, do dân tộc VN quyết định, nhân dân VN không chấp nhận bất cứ sự can thiệp
nào từ bên ngoài. Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không
độc lập chẳng có nghĩa gì. HCM nói: "chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá
trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm". Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để
cách mạng của HCM. Độc lập tự do là quyền tự nhiên của dt, thiêng liêng và vô cùng quý giá.
HCM đó tiếp xúc với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
của pháp 1791, người đã khái quát chân lý: "tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc". Trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở pháp Nguyễn Aí Quốc
đấu tranh để đòi độc lập dân tộc cho nhân dân An Nam:
- Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối với
châu âu, xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật.
- Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội
họp...Ngày 18/6/1919, NAQ thay mặt những người VN yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-
xây bản yêu sách của nhân dân An-Nam đòi quyền bình đẳng cho dân tộc VN. Bản yêu sách
không được chấp nhận, NAQ rút ra bài học: muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập
dân tộc-làm Cách Mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực
lượng của bản thân mình.
Điều này thể hiện ở mục tiêu của CMVN là: Đánh đổ đế quốc pháp và phong kiến, làm
chó nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau CMT8 thành công, HCM đó đọc bản tuyên ngôn độc lập và
khẳng định: "Nước VN có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đó thành 1 nước tự do, độc
lập. Toàn thể dt VN quyết đem hết tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền
tự do độc lập ấy".
Bác đấu tranh để đòi hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc. Nhân dân VN yêu
chuộng hoà bình, sống trong hoà bình để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ
bản của dân tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải
có độc lập thật sự.
b) Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là 1 động lực to lớn của đất nước: điều này có ý nghĩa
đối với các dân tộc phương đông.
Chủ nghĩa dân tộc bản xứ là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc chân chính, động lực
to lớn để phát triển đất nước. Khác với chủ nghĩa xô vanh, chủ nghĩa dân tộc hẹp hơn của các
nước tư bản. Do kinh tế chưa phát triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, sự
đấu tranh giai cấp không giống như ở Phương Tây. NAQ kiến nghị quốc tế cộng sản "phát động
chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh quốc tế cộng sản ...Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng
lợi...nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế".
c) Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH, chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng mà còn là sự phát triển một cách sáng tạo
học thuyết Marx-Lenin. Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một
trong những sáng tạo đó.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Marx –Engels đề cập đến vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp như sau:
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc, vì phong trào vô
sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng
lúc đầu mang hình thức dân tộc. Như vậy, Marx-Engels đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, hai ông không đi
sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì:
- Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng: tư
sản và vô sản.
- Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản.
- Vào thời của Marx, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa
phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai cấp công nhân.
Marx-Engels viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột
dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và: "Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc
không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo". Như vậy theo Marx-
Engels, để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải
phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Lenin từng nhận xét, đối
với Marx so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là vấn đề thứ yếu thôi.
Đến thời Lenin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân
tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lenin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề
dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Lenin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân
tộc bị áp bức. Từ đó Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại."
Sau khi Lenin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn mạnh vấn đề
giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí còn coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi,
trái với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Tóm lại, Marx - Engels, Lenin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu, mục tiêu của cách mạng vô sản
châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ
những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản".
Tiếp thu chủ nghĩa Marx-Lenin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của dân tộc
Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Người
cho rằng: Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi
ích dân tộc lên trên hết và trước hết.
Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt Nam:
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người cho rằng: "Marx đã xây
dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu
Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung
"cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Marx bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Marx ở thời
mình không thể có được". Và người đề nghị: "Xem xét lại chủ nghĩa Marx về cơ sở lịch sử của nó,
củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông". Ở phương Đông, "Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra
không giống như ở phương Tây, bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt
cấu trúc kinh tế không giống như xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu
tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây…".
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến,
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa
giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó, không phải giải quyết
vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải
quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất,
quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể
thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII, năm
1941 do Người chủ trì: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong
sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi
kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được."
HCM, từ CN yêu nước đến với CN Mác-Lê Nin, đã nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ
giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường CMVô Sản. "Sự
nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của Vô Sản toàn Thế Giới, mỗi khi CN Cộng
Sản giành được chút ít thắng lợi trong 1 nước nào đó...thì đó càng là thắng lợi cả cho người An-
Nam".