Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SKKN Truyện cười và việc phân tích truyện cười trong trường phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.94 KB, 32 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“TRUYỆN CƯỜI VÀ VIỆC PHÂN TÍCH TRUYỆN CƯỜI TRONG
TRƯỜNG PHỔ THÔNG”
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ý nghĩa khoa học:
Tiếng cười cùng với nước mắt là biểu hiện những trạng thái phong phú của tâm hồn con
người. Nhà nhân văn chủ nghĩa Rabơle vì thế đã cho rằng: “Cười là một đặc tính của
người”. Tiếng cười có tính chất tâm lí đã luôn là người bạn đồng hành của con người trên
mọi nẻo đường của cuộc sống đầy chông gai. Trên cơ sở ấy, truyện cười dân gian đã ra
đời như là một nhu cầu tất yếu của cuộc sống.
Truyện cười là thể loại tự sự dân gian đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần
của nhân dân lao động. Trong bản tham luận đọc tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ
ba, nhà văn Nguyễn Tuân nói “ Tổ tiên ta thật là những người nghệ sĩ tạo hình cho tiếng
cười Việt Nam, tạo nên cho tiếng cười ta bao nhiêu là bóng dáng và có cả cái gì như là
một biên chế đầy đủ thang bậc về tiếng cười” (Cần cười. “ Những nhiệm vụ mới của văn
học”. Nxb Văn học, Hà Nội 1963).
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cười là thể loại mang những nét đặc
trưng độc đáo. Truyện thường rất ngắn. Dài cũng chỉ từ 15 đến 20 câu, ngắn thì 5, 7 câu,
trung bình khoảng trên dưới 10 câu. Tuy rất ngắn nhưng mỗi chuyện đều có mở đầu, có
diễn biến, có kết thúc. Nhân vật trong truyện cười phần lớn là nhân vật độc đáo, có nét
khó quên. Toàn bộ các yếu tố thi pháp của truyện cười như kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ
kể chuyện, đều phục vụ mục đích gây cười. Bên cạnh chức năng gây cười, truyện cười
còn mang chức năng giáo dục: nó giúp con người mài sắc tư duy suy lí, nó làm giàu óc
phê phán, bồi dưỡng tinh thần lạc quan, giúp trau dồi khả năng ngôn ngữ… Bởi vậy, đọc
truyện cười để cười không khó. Nhưng để có thể hiểu được hết cái thâm thúy của tác giả
dân gian thực không dễ.
Vì những lí do trên, tìm hiểu truyện cười là công việc mang ý nghĩa khoa học. Nó không
chỉ giúp ta hiểu hơn về đời sống tâm hồn, những nghĩ suy của ông cha thời xưa mà còn
giúp ta cảm được tài năng nghệ thuật độc đáo, tư duy sắc sảo của người nghệ sĩ dân gian


nhờ đó sống tốt hơn, sống lạc quan hơn.
1.2. Ý nghĩa thực tiễn
Hiện nay, trong chương trình sách giáo khoa (SGK) THCS và THPT, truyện cười xuất
hiện ở cả hai cấp học nhưng với số lượng văn bản ít. SGK Ngữ văn 6 có hai truyện: Treo
biển và Lợn cưới, áo mới. SGK lớp 10 cũng chỉ có hai truyện là Tam đại con gà và
Nhưng nó phải bằng hai mày. Ở mỗi khối hai văn bản truyện cười chỉ được học trong 1
tiết, như vậy tổng số tiết học dành cho truyện cười trong trường phổ thông là 2 tiết.
Số lượng văn bản và thời lượng như vậy dễ khiến người dạy và người học cho rằng đây
không phải là kiến thức trọng tâm nên xem nhẹ việc dạy học. Điều này dẫn đến tình trạng
học qua quýt, cưỡi ngựa xem hoa hoặc thiếu giờ, cháy giáo án.
Không ít giáo viên có ý thức nghiêm túc trong dạy - học truyện cười song thực tế chất
lượng các giờ dạy truyện cười chưa cao do khuynh hướng phân tích đơn giản, không xuất
phát từ những đặc trưng thi pháp của truyện cười dẫn đến kết quả là học sinh không hiểu
hết cái hay, cái đẹp của truyện cười và không yêu thích truyện cười.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Truyện cười và việc phân tích truyện cười
trong trường phổ thông” nhằm góp một tiếng nói giải quyết khó khăn cho những người
đứng lớp khi dạy - học truyện cười . Bài viết chắc chắn không tránh khỏi những khiếm
khuyết. Rất mong sẽ nhận được những ý kiến góp ý chân thành của các thầy cô giáo !
2- Mục đích nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu các đặc trưng của thể loại truyện cười, chúng tôi đề xuất một
phương án dạy - học có hiệu quả các văn bản truyện cười trong SGK Ngữ văn lớp 6, lớp
10.
3- Đối tượng nghiên cứu:
- Những đặc trưng của thể loại truyện cười.
- Phương pháp dạy - học các văn bản truyện cười trong SGK Ngữ văn lớp 6, lớp 10
nhìn từ góc độ thi pháp.
4- Phương pháp nghiên cứu
Trong chuyên đề này, người viết trình bày vấn đề trên cơ sở tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.

- Phương pháp so sánh, phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp thực nghiệm giảng dạy.
PHẦN NỘI DUNG
I- NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA THỂ LOẠI TRUYỆN CƯỜI
1. Khái niệm
Cái cười, xét chung có ba loại: 1/ cái cười có nguyên nhân về mặt thể xác ( do có cảm
giác nhột ) ; 2/ cái cười có nguyên nhân về mặt tâm lý, tình cảm ( do sự vui sướng ) ;
3/ Cái cười do hiện tượng buồn cười gây ra.
Và hiện tượng buồn cười này được kể thành truyện cười nhằm mục đích tạo ra tiếng cười
(cái cười).
“Hiện tượng buồn cười là hiện tượng về bề ngoài có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ thường,
nhưng thực chất thì trái tự nhiên, trái lẽ thường” (Đỗ Bình Trị- Những đặc điểm thi
pháp của các thể loại văn học dân gian- Nxb Giáo dục- 1999). Tiếng cười hài hước có cơ
sở ở một loại mâu thuẫn đặc biệt, một loại mâu thuẫn trong đó hai mặt trái ngược không
mặt nào muốn nhường mặt nào. Người ta bật cười vì chợt nhận thấy mình suýt nữa bị
đánh lừa bởi hình thức của hiện tượng. Người ta bật cười vì chợt nhận thấy mình khám
phá được bản chất của hiện tượng. Chừng nào ta chưa tự mình phát hiện ra thực chất trái
tự nhiên, trái lẽ thường của hiện tượng thì ta chưa thể cười được.
Như vậy, “cái cười là hành động cười nảy sinh khi ta phát hiện ra thực chất trái tự
nhiên, trái lẽ thường dưới vẻ bề ngoài có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ thường, khiến ta
thoạt tiên tưởng lầm, của một hiện tượng.” ( Đỗ Bình Trị- Những đặc điểm thi pháp của
các thể loại văn học dân gian- Nxb Giáo dục- 1999 )
Cái cười vì thế là sản phẩm của hoạt động trí óc, mà cụ thể là óc suy lý. Chính tư duy suy
lý, tư duy lôgíc phát hiện ra thực chất trái tự nhiên, trái lẽ thường của hiện tượng mà bề
ngoài của nó có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ thường. Sự phát hiện ấy, do đó tự nó đã bao hàm
ý nghĩa phê phán. Đó trước hết là sự phê phán của lý tính, là phản ứng của lý trí trước
những hiện tượng buồn cười muốn “qua mặt” nó. Vì ý nghĩa này mà cái cười ở đây được
coi là người trung gian lớn trong việc phân biệt sự thật và điều dối trá. Tiếng cười hài
hước thể hiện sự thắng lợi của trí tuệ. Đồng thời sự phát hiện ấy cũng đem lại cho người

ta sự vui vẻ, sự sảng khoái trước những phát hiện thú vị của một lý trí tỉnh táo. Tiếng
cười trong truyện cười dân gian vì thế vừa mang bản chất nhận thức - phê phán vừa có
tác dụng mua vui, giải trí.
Trong truyện dân gian của người Việt, khu vực được gọi là truyện cười khá rộng lớn và
đa dạng. Nó tiếp giáp với nhiều loại truyện truyền miệng khác, như truyện ngụ ngôn,
truyện cổ tích ( đặc biệt là truyện cổ tích sinh hoạt ). Khoảng bốn thập kỉ nay, danh từ
truyện cười được giới nghiên cứu nước ta dùng làm thuật ngữ chuyên môn chỉ hình thức
truyện kể dân gian có tác dụng gây cười và lấy tiếng cười làm phương tiện chủ yếu để
khen, chê và mua vui, giải trí. Bởi vậy, Truyện cười là truyện kể về hiện tượng buồn
cười, thể hiện ở hành vi của nhân vật ( bao gồm cả hành động nói năng ), nhằm gây
cười. ( Đỗ Bình Trị- Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian- Nxb
Giáo dục- 1999 )
2. Những đặc trưng của thể loại truyện cười
2.1. Đề tài của truyện cười:
Trong truyện cười, đề tài của cái cười rất rộng. Người ta tìm cái cười ở mọi lĩnh vực, mọi
ngóc ngách của cuộc sống. Nhưng nhìn chung, truyện cười dân gian Việt Nam thường
xoay quanh những đề tài sau:
- Những thói xấu thuộc về bản chất, bộc lộ chủ yếu trong những hành vi buồn cười của
các nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến: vua chúa, quan lại, hào lí, địa chủ, phú ông
và các loại “thầy bà”, thậm chí cả thánh thần.
- Những thói xấu “thông thường” ở những người bình dân bộc lộ ở những hành vi buồn
cười trong sinh hoạt của họ.
- Những hiện tượng buồn cười do hiểu lầm, do lầm lỡ, hớ hênh,… mà thường tình, ai
cũng có lúc mắc phải hoặc do những nhược điểm, những khuyết tật không gây tổn hại
cho ai.
2.2. Chức năng của truyện cười
Xét về chức năng thể loại thì truyện cười có hai chức năng. Một là chức năng giải trí,
gây cười. Đây là tiếng cười hài hước nhằm mục đích mua vui, nó không tố cáo một cái
gì lạc hậu, xấu xa, phản động. Những truyện cười này đơn giản để giải trí, chẳng khác gì
những câu ca dao:

- Chồng còng mà lấy vợ còng,
Nằm phản thì chật, nằm nong thì vừa.
- Chồng què lấy vợ khiễng chân,
Nuôi được đứa ở đứt gân cũng què.
Những truyện cười thực hiện chức năng giải trí, gây cười như vậy được gọi là truyện khôi
hài. Truyện khôi hài là một thứ thể dục trí tuệ. Người ta cười cho vui cửa vui nhà, vui
anh, vui em. Ở đó không có nhiều triết lý. Nó vui tươi, nhẹ nhàng, có khả năng giáo dục
những tình cảm trong sáng, tốt lành, bồi dưỡng tinh thần sảng khoái, mang lại cho con
người niềm lạc quan, yêu đời.
Tuy nhiên chức năng chủ yếu của truyện cười là chức năng nhận thức, đấu tranh xã
hội. Trong kho tàng truyện cười dân gian, những truyện mang ý nghĩa đấu tranh xã hội có
số lượng lớn hơn những truyện cười có mục đích mua vui thuần tuý. Trong những truyện
ấy, tác giả dân gian không những làm chúng ta cười mà còn tác động vào nhận thức, vào
tình cảm của chúng ta, làm cho ta có thể vui, có thể buồn, có thể phẫn nộ, căm ghét,
khinh bỉ, đau xót Truyện phê phán, đả kích mọi thói hư, tật xấu trong xã hội. Bộ phận
truyện cười này được gọi là truyện trào phúng.
Trong truyện trào phúng có hai loại nhỏ. Một là truyện trào phúng bạn, phê phán những
thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân và có ý nghĩa giáo dục. Hai là những truyện cười
chễ giễu, đả kích mạnh mẽ giai cấp phong kiến, kẻ thù của nhân dân lao động, được gọi
là trào phúng thù.
2.3. Nội dung của truyện cười
Về nội dung, kho tàng truyện cười của ta có nội dung rất phong phú mang những ý nghĩa
nhân sinh sâu sắc.
Truyện cười nào cũng có tác dụng mua vui giải trí và ít nhiều đều đáp ứng nhu cầu tiêu
khiển của nhân dân. Tiếng cười ở bộ phận truyện khôi hài thường kể về những nhân vật
không có tên riêng, cũng ít khi có thành phần, địa vị xã hội cụ thể, mà chỉ được định danh
bằng những khuyết tật, nhược điểm hay tính cách đáng cười ( như anh sợ vợ, anh mê ngủ,
anh cận thị, anh chàng tham ăn, chàng ngốc làm theo lời vợ dặn ) Các nhân vật đều có
nhược điểm, nhưng đó là những nhược điểm thông thường, phổ biến có thể thông cảm và
châm chước dễ dàng.

Bộ phận truyện cười trào phúng bạn là tiếng cười phê bình giáo dục hướng vào những
thói hư tật xấu trong sinh hoạt thường ngày của nhân dân (như lười nhác, tham lam, ăn
vụng, khoe khoang, khoác lác, hà tiện, hèn nhát, sợ vợ, chanh chua, ). Xung quanh mỗi
thói hư, tật xấu thường xuất hiện nhiều truyện cười khác nhau. Tuy không gay gắt và
quyết liệt như tiếng cười trào phúng dành cho giai cấp thống trị nhưng xét về tác dụng và
sức sống thì bộ phận truyện cười mang tính phê bình nội bộ này còn quan trọng và trường
tồn hơn cả bộ phận truyện cười đấu tranh giai cấp.
Tiếng cười đả kích, châm biếm ở bộ phận truyện cười trào phúng thù là tiếng cười đả
kích, châm biếm đối với kẻ thù. Nó có nội dung đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
rất rõ rệt. Đối tượng của tiếng cười đả kích trong truyện cười dân gian Việt Nam thời
phong kiến khá đông, có thể quy vào bốn loại chính: Những tên nhà giàu (phú ông,
trưởng giả, phú thương) ở nông thôn và thành thị (chủ yếu là ở nông thôn) ; Bọn hào lí,
quan lại ; Các loại thầy trong xã hội phong kiến (thầy đồ, thầy bói, thầy địa lí, thầy cúng,
thầy sư ) ; Một số nhân vật thần thánh (ông Công, Thiên Lôi, Diêm Vương, Ngọc
Hoàng )
Trong công việc sáng tác cũng như trong tiếp nhận và nghiên cứu truyện cười, sự phân
biệt tiếng cười hài hước và tiếng cười châm biếm là một vấn đề có ý nghĩa nguyên tắc.
Tuy nhiên, trên thực tế, ranh giới giữa cái cười hài hước và cái cười châm biếm không
phải lúc nào cũng rõ ràng.
2.4. Thi pháp truyện cười
Đã là truyện cười dân gian thì phải làm thế nào gây được tiếng cười giòn giã nhất. Nghệ
thuật của truyện cười dân gian trước hết là nghệ thuật gây cười.
2.4.1. Về kết cấu
Mấu chốt của nghệ thuật gây cười là ở chỗ phải làm sao cho cái đáng cười tự nó bộc lộ ra
một cách cụ thể, sinh động, nực cười và bất ngờ nhất. Truyện cười không tự đặt ra cho
mình nhiệm vụ kể lại số phận, cuộc đời của nhân vật như trong truyện cổ tích. Nó chỉ là
một lát cắt ngang trong cuộc đời của nhân vật. Khi tiếng cười nổ ra là lúc chuyện kết
thúc. Vì thế truyện cười dân gian thường được cấu tạo hết sức chặt chẽ và giàu kịch tính.
Ta thấy nó có dáng dấp như một màn hài kịch nhỏ gồm ba phần:
- Giới thiệu màn kịch có mâu thuẫn tiềm tàng.

- Mâu thuẫn tiềm tàng phát triển tới đỉnh điểm.
- Giải quyết mâu thuẫn.
2.4.2. Về nhân vật
Theo tác giả Đỗ Bình Trị, trong truyện cười, nhân vật có hành vi buồn cười (nhân vật gây
cười) cũng là đối tượng của cái cười (nhân vật bị cười). Tuy nhiên cũng có truyện cười,
chủ yếu là truyện châm biếm, trong đó nhân vật gây cười lại không phải là đối tượng thực
sự của cái cười. Trong trường hợp này, nhân vật trực tiếp đóng vai trò chính yếu trong
diễn biến câu chuyện nhưng chỉ là nhân vật phụ, còn nhân vật không trực tiếp gây ra hành
vi buồn cười tuy chỉ đóng vai trò thứ yếu trong diễn biến câu chuyện nhưng lại là nhân
vật chính, vì nó là đối tượng thực sự của cái cười. Tác giả nói rõ thêm, ở đây nhân vật
phụ là đối tượng của cái cười hài hước, còn nhân vật chính là đối tượng của cái cười
châm biếm. Đây là trường hợp trong truyện có cả hai loại nhân vật: nhân vật- đối tượng
của cái cười hài hước (nhân vật phụ) và nhân vật- đối tượng của cái cười châm biếm
(nhân vật chính), trong đó, nhân vật - đối tượng của cái cười hài hước có chức năng làm
lộ ra cái cười tiềm ẩn nơi hành vi của nhân vật chính, biến nó thành nhân vật - đối tượng
của cái cười châm biếm.
* Nhân vật ( chính ) của truyện cười thường mang những đặc điểm sau:
- Nhân vật trong truyện cười cũng giống nhân vật trong truyện ngụ ngôn, chỉ xuất hiện
trong một tình huống nhất định, với một hành vi nhất định ( truyện kết thúc khi hành vi
gây cười của nhân vật đã biểu lộ trọn vẹn , không ai quan tâm đến phần đời trước hay sau
của nhân vật ấy ). Ví dụ, truyện Ba quan thôi. Truyện kể về hành vi của một gã hà tiện.
Hành vi ấy được đặt trong một hoàn cảnh đặc biệt: gã hà tiện sắp chết đuối. Trong hoàn
cảnh ngàn cân treo sợi tóc ấy, gã hà tiện còn cố ngoi lên mặt nước, nói một câu để hạ cái
mức tiền thưởng từ năm quan xuống ba quan cho ai vớt được mình, điều đó làm tiếng
cười phê phán, chễ giễu bật lên. Anh ta đang mặc cả trước mạng sống của chính mình.
Chết đến nơi mà còn tính toán hơn thiệt, con người này không còn là con người nữa khi
đã coi của cải quý hơn sự sống của mình. Sự hà tiện ở đây đã lên đến đỉnh điểm nhờ thủ
pháp nghệ thuật phóng đại của tác giả dân gian.
Truyện cười là như vậy, mỗi câu chuyện là một lát cắt ngang cuộc đời của nhân vật bởi
chức năng thể loại của truyện cười là nhằm gây cười, khi tiếng cười mua vui, giải trí

hay tiếng cười trào phúng cất lên là lúc truyện cười kết thúc.
Đặc điểm này hoàn toàn khác so với nhân vật trong truyện cổ tích. Nhân vật trong mỗi
truyện cổ tích có cả một cuộc đời, một số phận với những biến cố thăng trầm vì chức
năng truyện cổ tích là phản ánh số phận của những con người bị đè nén, áp bức trong xã
hội có giai cấp. Truyện Tấm Cám là một truyện cổ tích dài với diễn biến cốt truyện phức
tạp kể về cuộc đời khổ đau của cô Tấm và một sự đổi đời trong mơ ước.
- Nhân vật của truyện cổ tích thực hiện những hành động phi thường trong những hoàn
cảnh, những tình huống khác thường ( câu chuyện diễn ra trong thế giới cổ tích, thế
giới “ngày xưa”, nhân vật có thể ở hạ giới, lên thiên đình hay xuống thuỷ cung, có thể
lướt đi trên những chiếc thảm biết bay hay đôi giày đi vạn dặm, có thể thiếp đi trong giấc
ngủ dài hàng thế kỉ hay xây cả một toà lâu đài chỉ sau có một đêm ) ; Nhân vật trong
truyện cười chỉ biểu lộ một hành vi ứng xử trái lẽ thường trong một tình huống bình
thường của cuộc sống thường nhật. Đó là hành vi kì quặc của một người chồng tham ăn
khi bị vợ bắt gặp ăn vụng ngô rang, là lời vụng chèo khéo chống của anh chàng sợ vợ, là
lời nói chướng tai của anh chàng khoác lác
- Nhân vật của truyện cổ tích là đối tượng của sự lý tưởng hoá, sự ca ngợi. Tấm, anh
Khoai, Thạch Sanh, Sọ Dừa là những người dân lao động chăm chỉ, hiền lành, thật thà,
thậm chí thật thà đến mức ngốc nghếch. Họ là đại diện chân chính nhất của cái đẹp, cái
thiện, là đứa con tinh thần của nhân dân lao động. Tác giả dân gian ngợi ca họ và gửi gắm
ở họ bao mơ ước ; Nhân vật của truyện cười lại là đối tượng của sự cười cợt, phê phán.
Điều này thực rất hiển nhiên bởi chức năng thể loại của truyện cười là nhằm mục đích
mua vui, giải trí hay trào phúng, phê phán vì thế tác giả dân gian tập trung khai thác
những lời nói, hành động trái lẽ thường của nhân vật để tiếng cười giải trí, phê phán được
cất lên.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện cười:
a. Nhân vật được đặt vào trong tình huống gây cười:
Nhân vật trong cả truyện hài hước và nhân vật của truyện châm biếm đều được đặt vào
cùng một loại hoàn cảnh - đó là hoàn cảnh sinh hoạt đời thường, nhưng là hoàn cảnh
đáng cười. Đó là loại hoàn cảnh chứa mâu thuẫn, là môi trường để nuôi dưỡng và làm bật
lên tiếng cười.

Ở nhiều truyện cười, hoàn cảnh đáng cười được giới thiệu vắn tắt ngay ở đầu truyện. Đây
là hoàn cảnh ẩn chứa mâu thuẫn, là nguyên nhân dẫn nhân vật đến với tình huống đáng
cười trong truyện. Truyện Tam đại con gà là một ví dụ. Có anh học trò, học thì dốt,
nhưng lạ gì cái trò “dốt hay nói chữ” nên đi đến đâu anh ta cũng khoe khoang là mình
nào chữ tốt nào văn hay. Trong vùng, có người tưởng anh hay chữ thật, mới đón về dạy
trẻ. Nhân vật chính trong truyện này được đặt vào hoàn cảnh đáng cười: anh học trò dốt
nhưng lại hay khoe khoang là văn hay, chữ tốt, vì thế được người đón về dạy trẻ. Hoàn
cảnh này ẩn chứa một mâu thuẫn: học trò dốt lại trở thành thầy đồ. Nghịch lí này dẫn
người đọc, người nghe tới một suy nghĩ rằng tất yếu sẽ có trò cười thú vị nếu để tâm theo
dõi việc dạy học của “ông thầy” này.
Song, thường thì trong truyện cười hoàn cảnh đáng cười chính là tình huống đáng cười
trong đó diễn ra toàn bộ câu chuyện. Trong truyện cười, tình huống gây cười là tình
huống quan trọng nhất để tạo ra tiếng cười. Tình huống gây cười là tình huống cái đáng
cười phải được đặt trong các dạng cụ thể, sinh động và đáng cười nhất để làm tiếng
cười bật ra. Tình huống gây cười càng căng thẳng, khả năng gây cười càng lớn. Truyện
Cháy ! là một truyện như thế. Một người sắp đi chơi xa dặn con rằng ở nhà có ai đến chơi
thì nói rằng bố đi vắng lâu mới về. Nhưng anh ta sợ con mải chơi quên mất lời dặn, lại
cẩn thận lấy bút viết câu trả lời khách vào một mảnh giấy rồi đưa con mà bảo rằng hễ có
ai hỏi thì cứ đưa giấy ra. Chú bé bỏ giấy vào túi, đợi suốt cả ngày không có ai đến chơi.
Tối đến, bé ta mới tò mò giở mảnh giấy ra đọc trước đèn, chẳng may thế nào làm cháy
mất. Hôm sau, có người tới chơi hỏi rằng : “ Bố cháu có nhà không ?”. Bé ta ngơ ngác
hồi lâu, sờ vào túi không thấy mảnh giấy liền đáp: “ Mất rồi”. Khách giật mình, vội hỏi: “
Mất bao giờ ?”. Bé ta khi đó sực nhớ ra , trả lời: “ Tối hôm qua”. Khách hỏi dồn : “ Tại
sao mà mất ?”. Bé ta đáp lại : “ Cháy !”. Truyện đặt nhân vật vào trong tình huống trong
đó mỗi người đều suy nghĩ và hành động hợp với logic. Nhưng lời nói của hai người
ghép lại với nhau trong tình trạng “ ông nói gà, bà nói vịt”. Chính điều này đã gây ra
tiếng cười hài hước.
Truyện cổ tích sinh hoạt có điểm tương đồng với truyện cười là nhân vật cùng được đặt
vào trong hoàn cảnh sinh hoạt đời thường. Nhưng ở truyện cổ tích sinh hoạt, đó là cuộc
sống đời thường với bộn bề những lo toan, với trăm ngàn vất vả. Hoàn cảnh sinh hoạt ấy

rất quen thuộc, bình dị như chính cuộc sống vậy, vì nhân vật trong truyện là nhân vật của
đời thường và qua những nhân vật ấy tác giả dân gian nhằm khắc hoạ bức tranh chân thực
về cuộc sống khổ đau của con người. Còn ở truyện cười, tác giả dân gian chỉ khai thác
khía cạnh đáng cười của cuộc sống để cất lên tiếng cười giải trí hay đả kích nên nhất thiết
nhân vật phải được đặt vào trong tình huống đáng cười. Đây là điểm gặp gỡ của truyện
cười và một số truyện ngụ ngôn ( ví dụ truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi )
b. Lời nói, cử chỉ và hành động đáng cười:
Nhân vật trong truyện ngụ ngôn không được đặc tả lời nói, cử chỉ, hành động như nhân
vật trong truyện cổ tích, truyện cười. Trong truyện cổ tích, lời nói, hành động của nhân
vật có thể bình thường hoặc phi thường nhưng không buồn cười (trừ nhân vật chàng
Ngốc). Truyện cười nhằm mục đích gây cười nên chú trọng miêu tả, dù rất vắn tắt, lời
nói, cử chỉ, hành động đáng cười của nhân vật.
Lời nói, cử chỉ, hành động của nhân vật ở điểm mở nút luôn có tính chất kỳ quặc, trái tự
nhiên nhưng lại được cắt nghĩa bằng một lý lẽ có vẻ phù hợp.
Một số truyện cười đã lấy một lời nói không hợp lẽ thường để gây cười. Ví dụ truyện
Đánh chết nửa người. Có người bảo người ăn mày: “Tao cho mày một nghìn quan mà
tao đánh chết mày thì mày có bằng lòng không ?”. Người ăn mày trả lời, mặc cả: “ Ông
cứ cho tôi năm trăm thôi, rồi tôi bằng lòng để ông đánh chết nửa người.” Câu nói của tên
ăn mày bề ngoài có vẻ có lí lắm vì trả lời theo điều kiện người ta nêu lên. Nhưng xét kĩ
thì thấy vô lí đến nực cười vì tiền có thể chia đôi một nghìn thành năm trăm còn như sự
chết thì không thể chia đôi được. Lời nói đó vô lí ở chỗ đã gán ghép đặc tính phân chia
được cho một sự việc không thể phân chia được. Và vì thế nó máy móc, tức cười. Những
truyện như Sao văn tế; Sang cả mình con; Giấu đầu hở đuôi; Lợn cưới, áo mới; Thợ
may là những truyện chủ yếu đã dùng lời nói đáng cười.
Lại có những truyện lấy một cử chỉ, một tư thế hay một hành động trái lẽ thường để gây
cười.Truyện Kén rể lười là một ví dụ. Một ông già tính vốn lười, muốn kén rể lười.
Nhiều chàng trai đã đến xin làm rể. Nhưng qua sự thử thách của ông già thì mãi chẳng có
ai lười “đủ mức” để xứng đáng là con rể ông. Một hôm, có một người đến xin làm rể.
Ông già lấy làm lạ vì thấy anh ta quay lưng vào nhà đi thụt lùi, bèn hỏi tại sao lại đi như
vậy. Anh ta nói : “Tôi đi như vậy để nếu cụ không cho tôi làm rể thì lúc ra về đỡ phải

quay người lại, mệt sức lắm !”. Ông già mừng quá nói rằng: “Lười đến như vậy quả xứng
đáng là rể ta”. Hành động đi giật lùi của nhân vật quá tức cười, kì quặc, trái tự nhiên.Vì
thế tiếng cười phê phán thói lười biếng được bật lên thật giòn giã. Những truyện như Con
ruồi và quan huyện, Đẻ ra sư, Thày đồ liếm đĩa, Được một bữa thả cửa, To hơn cái
nồi này đều thuộc loại truyện trong đó cái đáng cười chủ yếu là ở cử chỉ máy móc trái
với tự nhiên.
c. Tính cách đáng cười:
Truyện cười không chỉ nêu lên những hoàn cảnh, những lời nói, những cử chỉ của nhân
vật mà có khi còn lấy một tính cách để gây cười. Đó là những tính xấu của con người
thường bộc lộ trong cuộc sống được tác giả dân gian phát hiện ra và thể hiện dưới con
mắt hài hước, hóm hỉnh nhằm mục đích phê phán.Tất nhiên những tính cách đáng cười
này cũng được thể hiện cụ thể bằng những lời nói và hành động máy móc, trái tự nhiên
có khả năng gây cười. Ví dụ như các truyện Anh keo kiệt, Thà chết còn hơn, Anh sợ vợ,
Giàn lí đổ, Mua kính, Cá gỗ, Ai nuôi tôi, Con rắn vuông, May không đi giày Truyện
Lợn cưới, áo mới kể về hai anh chàng cùng thích khoe khoang, đã mất lợn thì chỉ cần
hỏi: “ có thấy con lợn nào vừa chạy qua đây không ?” là đủ, nhưng anh ta lại hỏi: “ Anh
có nhìn thấy con lợn cưới nào chạy qua đây không ?” để gài ý khoe mình sắp cưới. Lợn
nào chẳng là lợn, làm gì có lợn cưới với lợn không cưới. Thông tin này không hề phục vụ
mục đích tìm lợn mà chỉ nhằm khoe khoang. Còn anh trả lời nhẽ ra chỉ cần nói: “Tôi
không thấy con lợn nào chạy qua”, nhưng anh ta lại nói: “ Từ lúc mặc áo mới này, tôi
không thấy có con lợn nào chạy qua”. Chẳng phải là anh cố tình khoe chiếc áo mới hay
sao. Việc sắp cưới và việc có áo mới đều đáng để khoe nhưng có điều khoe vào lúc chẳng
đáng để khoe, cả người hỏi và người trả lời đều thực hiện một hành vi giao tiếp đầy mâu
thuẫn: hỏi và trả lời không nhằm mục đích thông tin mà nhằm mục đích khoe khoang. Rõ
ràng là “kẻ cắp, bà già gặp nhau”. Thật khó phân định được anh nào khoe khoang hơn
anh nào !
Cũng có những truyện ngụ ngôn đặc tả hành vi buồn cười, lời nói ngộ nghĩnh của nhân
vật ( truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi, Phù du và đom đóm, ) nhưng sự miêu tả này ở
truyện ngụ ngôn chỉ là phương tiện, chỉ là cách thức để qua đó tác giả dân gian gửi gắm
những bài học triết lý. Vì thế, để phục vụ mục đích này, người ta cũng có thể sử dụng

những cách thức thể hiện khác. Hầu hết các truyện ngụ ngôn không chứa yếu tố gây cười
trong lời nói, hành động của nhân vật. Trong khi đó, ở truyện cười, gây cười là mục đích
của mỗi bản kể nên việc đặt nhân vật vào trong tình huống gây cười, đặc tả lời nói, hành
động thậm chí tính cách gây cười của nhân vật là yếu tố quyết định để tạo nên tiếng cười.
2.4.3. Biện pháp nghệ thuật gây cười
Truyện cười phản ánh hiện thực bằng cách phóng đại sự thực. Lời nói, cử chỉ, hoàn cảnh,
tính cách càng trái tự nhiên, máy móc bao nhiêu, càng ngộ nghĩnh, khác thường bao
nhiêu thì tiếng cười vang lên càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Việc phóng đại, thậm chí bịa đặt
ra những cảnh thực là éo le, những nhân vật thực là ngộ nghĩnh, không ảnh hưởng gì đến
chất hiện thực của tác phẩm. Nếu như không có ai đi đứng một cách trái tự nhiên như anh
chàng lười trong truyện Kén rể lười, thì nhất định có những kẻ vì lười biếng mà có những
hành động, cử chỉ chướng tai, gai mắt hơn cả kiểu đi giật lùi ấy. Nếu như không có ai
mặc cả số tiền vớt mình trong hoàn cảnh nguy cấp như gã hà tiện trong truyện Ba quan
thôi, thì nhất định có những kẻ keo kiệt quý của hơn người, coi sinh mạng rẻ hơn tiền,
làm nô lệ cho đồng tiền.
Cho nên, xét đến cùng, nếu như cái sự việc cụ thể ở trong truyện cười không có thực, thì
cái bản chất của vấn đề lại rất thực. Tác giả dân gian đã nhờ nghệ thuật phóng đại để
phản ánh hiện thực một cách nghệ thuật giống như nghệ thuật biếm họa trong hội họa
vậy.
Để gây tiếng cười thực là giòn giã, truyện cười dân gian còn thường dùng yếu tố bất ngờ.
Sự bất ngờ có thể gây cảm xúc mạnh. Trong truyện cười, đó là niềm vui đột ngột vì khám
phá ra thực chất của một hiện tượng muốn đánh lừa ta. Đó là chiến thắng của lí trí, của
nhận thức trước hiện thực. Vì thế, sự bất ngờ càng lớn, chiến thắng càng to, tiếng cười
càng giòn giã.
Trong truyện cười, yếu tố bất ngờ thường gắn với việc đột nhiên bộc lộ mâu thuẫn ở
trong hiện tượng. Truyện Tao thèm quá kể rằng khi oan hồn con lợn xuống âm phủ gặp
Diêm Vương để tố cáo bọn đồ tể, Diêm Vương bảo nó khai rõ đầu đuôi sự việc. Khi
Diêm Vương hỏi vặn để biết sau khi lợn bị dội nước sôi và cạo lông rồi thì bọn đồ tể còn
làm gì nữa. Người đọc thấy rằng ông vua ở cõi âm này quả là quan tâm đến số phận đáng
thương của con lợn kia. Ông hỏi cặn kẽ đến như thế chắc để biết cho hết tội ác mà quyết

định một sự trừng phạt nghiêm khắc. Thế rồi, lợn kể tiếp, hết sức tin tưởng rằng lời khai
của mình sẽ giúp cho Diêm Vương cầm cân nảy mực chính xác hơn. Vì thế, lợn kể kĩ
lưỡng, miêu tả tỉ mỉ công việc nấu nướng của bọn người độc ác. Kể đến đoạn “bắc chảo
lên, phi hành mỡ cho thơm, cho mắm muối vào xào …” thì Diêm Vương vội ngăn lại:
“Thôi, thôi! Đừng nói nữa!”. Người đọc, người nghe những tưởng ngài không đủ can
đảm nghe những điều thương tâm ấy. Nhưng không, thật bất ngờ, Diêm Vương phán: “…
tao thèm quá!”. Đến đây, lợn bị chưng hửng còn chúng ta thì chợt nhận ra bản chất của
Diêm Vương để phá lên cười. Đó là sự bất ngờ mà bố cục “gói kín, mở nhanh” mang lại.
Dầu bố cục theo cách nào thì truyện cười dân gian cũng thường nhằm đạt được kịch tính
cao nhất. Vì thế, để gây ra tiếng cười giòn giã, truyện cười phải tập trung vào những yếu
tố gây cười, vào những nét phóng đại, những yếu tố bất ngờ, kịch tính.

II- PHÂN TÍCH TRUYỆN CƯỜI TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1. Định hướng phân tích
Trong quá trình giảng dạy truyện cười dân gian, người giáo viên cần giúp học sinh nắm
được mục đích trực tiếp của truyện cười là gây cười, vì vậy nhiệm vụ của bài học là hiểu
được chúng ta đang cười cái gì và vì sao mà cười.
Đối với học sinh đọc truyện cười thì vui, cười thì dễ nhưng để trả lời câu hỏi “cười cái
gì ?” và “vì sao mà cười ?” thì không đơn giản song cũng không phải là điều quá khó.
Chỉ cần giáo viên biết gợi ý để các em tự mình phân tích, tự nhìn lại quá trình hình thành
cái cười trong óc các em.
Có nhiều cách thức để tiếp cận giá trị của truyện cười. Theo chúng tôi, con đường hiệu
quả nhất để lĩnh hội những giá trị của truyện cười chính là con đường của thi pháp
bởi bất cứ một tác phẩm văn học nào đều được biểu hiện dưới dạng một hình thức nhất
định. Nghiên cứu thi pháp truyện cười là nghiên cứu hệ thống nguyên tắc nghệ thuật
nhằm biểu hiện nội dung của nó. Nghiên cứu thi pháp truyện cười sẽ giúp ta tiếp cận tất
cả các phạm trù thi pháp như nhân vật, cốt truyện, kết cấu, các biện pháp gây cười … để
khái quát đầy đủ và chính xác nhất ý nghĩa của tác phẩm. Vì vậy, việc giảng dạy truyện
cười trong trường phổ thông cũng nên đi theo hướng này.
2. Hoạt động phân tích văn bản

Trước hết, công việc phân tích phải hướng vào yêu cầu làm rõ cái đáng cười. Cái đáng
cười trong truyện cười thường được dàn dựng theo nguyên tắc “tự phơi bày” để người
nghe “tự phát hiện” theo trình tự: mở đầu - phát triển - kết thúc.
Phần mở đầu
Phần mở đầu của câu chuyện còn gọi là tình thế mở đầu.
Phân tích tình thế mở đầu là gợi cho học sinh nhận rõ hai nội dung: giới thiệu nhân vật
chính và nhân vật được đặt vào tình thế “có mâu thuẫn tiềm tàng”, đang chờ dịp để
bộc lộ.
Thường thì, ngay từ đầu câu chuyện, nhân vật có thói xấu hay tính cách dẫn đến hành vi
buồn cười đã được giới thiệu không úp mở:
- Có anh tính hay khoe của (Lợn cưới, áo mới).
- Xưa, có anh học trò học hành dốt nát (Tam đại con gà)
Cũng ngay từ đầu câu chuyện, nhân vật ấy được đặt vào một tình thế khiến cho nó trở
thành một hiện tượng “có mâu thuẫn tiềm tàng”:
- Anh có tính hay khoe của may được cái áo mới, liền đem ra mặc, đợi có ai đi qua người
ta khen, nhưng đứng từ sáng tới chiều chả thấy ai hỏi cả (Lợn cưới, áo mới).
- Anh học trò dốt nát đi đến đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt. Có người tưởng anh ta
hay chữ thật mới đón về dạy trẻ. (Tam đại con gà)
Ở một số câu chuyện, trong phần mở đầu, hành vi buồn cười của nhân vật chính không
được giới thiệu cụ thể mà tác giả dân gian chỉ đặt nhân vật vào tình huống làm nảy sinh
mâu thuẫn:
- Một cửa hàng bán cá làm cái biển đề mấy chữ to tướng: “Ở đây có bán cá tươi” (Treo
biển)
- Làng kia, có một viên lí trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi. Ngô và Cải đánh nhau rồi mang
nhau đi kiện. Cả hai đều đút lót trước cho thầy lí. (Nhưng nó phải bằng hai mày)
Phần phát triển
Đây là phần mà mâu thuẫn tiềm tàng phát triển mau lẹ tới điểm nút.
- Anh có áo mới đang tức vì đứng hóng mãi chưa có ai để khoe thì anh có lợn cưới chạy
đến và khoe trước (Lợn cưới, áo mới).
Phần phát triển có thể được gọi là tình thế gay cấn (Đỗ Bình Trị). Phân tích tình thế gay

cấn là gợi cho học sinh điểm lại diễn tiến của sự việc từ tình thế mở đầu đến điểm nút,
nhận rõ mâu thuẫn cụ thể ở tình thế gay cấn.
Ví dụ khi dạy truyện Tam đại con gà, chỉ cần xâu chuỗi những từ ngữ đặc tả hành vi của
nhân vật trong lời văn kể chuyện, diễn tiến của sự việc hiện ra, bản chất của anh học trò
dốt cũng hiện ra rõ nét. Cái cười trong câu chuyện này được thể hiện nhiều lần.
* Lần 1:
-Thầy dốt không biết chữ “kê” là gà, thế là thầy nói liều “dủ dỉ là con dù dì”.
Anh học trò này quả dốt nát thảm hại và liều lĩnh vô cùng.
* Lần 2:
- Thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, bảo học trò đọc khẽ.
Lần này, ta cười vì sự dấu dốt và sĩ diện hão của anh học trò dốt.
* Lần 3:
- Rồi thầy rón rén đến khấn thổ công.
- Thầy lấy làm đắc chí lắm, bảo trẻ đọc to lên.
Đến đây, cái dốt bị khuếch đại và được nâng lên. Mâu thuẫn cụ thể ở tình thế gay cấn này
là anh thầy đồ càng giấu dốt thì cái dốt càng lộ ra.
Người nghe, người đọc cũng ở vào thế chờ xem đầy kịch tính. Ở câu chuyện này, tiếng
cười được bật lên nhiều lần, “điểm nút” dường như cũng di động, nhưng “điểm nút” đích
thực vẫn ở chỗ kết thúc giống như tất cả các truyện cười khác.
Phần kết thúc
Nhân vật bị đặt vào tình thế có mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn ngay ở “điểm nút” bằng
một hành vi, một lời nói bất ngờ làm bộc lộ cái đáng cười. Vì vậy người giáo viên cần
hướng cho học sinh phát hiện và phân tích sự trái lẽ thường trong hành vi và lời nói bất
ngờ này.
- Anh “áo mới” vớ phải anh “lợn cưới”, bị một - không (tức là đang lăm lăm khoe lại bị
nó khoe trước). Người nghe những tưởng anh “áo mới” sẽ bất ngờ mà ngây ra không biết
trả lời ra sao. Không ngờ anh đã lật ngược ván cờ. Anh ta vẫn trả lời người hỏi theo đúng
phép tắc, đúng nội dung được hỏi, đồng thời “tranh thủ cung cấp được thông tin cần
thiết”: “Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả!” (Lợn
cưới, áo mới).

- Anh thầy đồ dốt bị chủ nhà chất vấn, thầy tái mặt, nhưng nhanh trí thầy chống chế: “Tôi
dạy thế là dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà kia”. “Dủ dỉ là con dù dì”(Tam đại
con gà).
Phân tích phần kết thúc cần gợi cho học sinh tự mình nhận ra cái đáng cười, tự mình chỉ
rõ hành vi, lời nói của nhân vật có gì ngược đời.
Ý nghĩa của cái cười
Công việc phân tích truyện cười phải bắt đầu từ việc làm rõ cái đáng cười nhưng không
dừng lại ở đấy. Cần hướng dẫn học sinh suy nghĩ tiếp về những vấn đề thuộc về ý nghĩa
của cái cười trong truyện (ý nghĩa nhân sinh, ý nghĩa xã hội) (Đỗ Bình Trị, Văn học dân
gian - Những công trình nghiên cứu, NXBGD 2003).
Để làm được điều này, người giáo viên cần gợi dẫn để học sinh trả lời được câu hỏi:
Tiếng cười hài hước (hay trào phúng) ấy nhằm mục đích gì?
Nhìn chung kho tàng truyện cười của ta có nội dung phong phú, nội dung đó ẩn chứa
những ý nghĩa nhân sinh rất sâu sắc: Truyện trào phúng có ý nghĩa chiến đấu mạnh mẽ.
Nó vạch rõ những hoàn cảnh oái oăm của cuộc sống, những hành động trái tự nhiên,
ngược đời … nảy sinh từ những tính cách xấu xa gắn liền với bản chất của một số tầng
lớp xã hội, một số loại người (như thói keo bẩn thường thấy ở người giàu, bệnh tham
nhũng chỉ có ở quan lại, tật nịnh hót của bọn sai nha, lối học đòi của hạng người hãnh
tiến …).
Truyện khôi hài có mục đích mua vui là chính nhưng xét đến cùng thì tiếng cười mà nó
tạo ra có tác dụng như hồi chuông cảnh báo, tố cáo những gì đi ngược lại với qui luật
chung của cuộc sống bình thường. Bất kì trong trường hợp nào, tiếng cười hài hước chân
chính cũng là người bạn đường của lí trí sáng suốt, của tình cảm lành mạnh.
Truyện Treo biển mượn câu chuyện nhà hàng bán cá nghe ai góp ý về cái tên biển cũng
làm theo để tạo nên tiếng cười vui vẻ, có ý nghĩa phê phán nhẹ nhàng những người thiếu
chủ kiến khi làm việc, không suy xét kĩ trước khi làm theo ý kiến người khác.
Truyện Lợn cưới, áo mới lại phê phán, chế giễu những người hay khoe của. Đây là một
tính xấu khá phổ biến trong xã hội.
Ở truyện Tam đại con gà ta thấy cái dốt bị chê thì ít, nhưng cái sự dấu dốt bị cười thì
nhiều.

Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày chủ yếu vạch trần thói ăn tiền khi xử kiện của
quan lại đồng thời cũng phê phán người dân đã tự đẩy mình vào tình cảnh vừa đáng
thương vừa đáng trách.
Khi hướng dẫn học sinh tiếp cận ý nghĩa nhân sinh, ý nghĩa xã hội của cái cười vì thế cần
xuất phát từ quan điểm đạo đức, quan điểm ý thức tư tưởng, quan điểm đấu tranh xã hội
để hiểu đúng giá trị của tác phẩm và có thể rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống.
Nhờ những kết quả của việc dạy - học truyện cười từ góc độ thi pháp, học sinh sẽ hiểu
đúng, hiểu sâu tác phẩm, nhờ đó các em sẽ dễ dàng rút ra những ý nghĩa của văn bản.
Tóm lại, dạy - học truyện cười từ góc độ thi pháp là dựa vào những đặc trưng thể
loại, đặt truyện cười trong hình thức kết cấu để tìm hiểu nhân vật với những hành
động, lời nói trái tự nhiên nhằm trả lời được câu hỏi “cười cái gì”, “vì sao cười?’ và
“cười nhằm mục đích gì”.
3. Áp dụng sáng kiến vào thực tiễn
Từ kết quả nghiên cứu trên người viết đã áp dụng vào thực tế dạy – học truyện
cười trong trường phổ thông. Sau đây, người viết xin được trình bày cụ thể phần thiết kế
một tiết giáo án dạy truyện cười trong chương trình SGK Ngữ văn 10 nhìn từ góc độ thi
pháp.
Ngày soạn:
Ngày giảng:
Tiết 24 TAM ĐẠI CON GÀ
NHƯNG NÓ PHẢI BẰNG HAI MÀY
A. Mục tiêu bài học
Giúp học sinh:
- Hiểu được mâu thuẫn trái tự nhiên trong cách ứng phó của nhân vật thầy đồ và
tiếng cười trào phúng của nhân dân trong truyện “Tam đại con gà”.
- Thấy được thái độ phê phán của nhân dân đối với bản chất tham nhũng của quan
lại ở địa phương, đồng thời hiểu được tình cảnh bi hài của người lao động khi lâm vào
tình trạng kiện tụng ở nông thôn Việt Nam ngày xưa trong truyện “Nhưng nó phải bằng
hai mày”.
B. Phương tiện thực hiện

- Sách giáo khoa, sách giáo viên, giáo án.
C. Phương pháp dạy học
- Dạy học truyện cười nhìn từ góc độ thi pháp
- Dạy học truyện cười theo hướng tích hợp
- Phương pháp đọc sáng tạo, phân tích, thuyết giảng.
D. Tiến trình lên lớp
1. Ổn định lớp.
2. Kiểm tra bài cũ
3. Bài mới

Hoạt động của GV -
HS
Nội dung cần đạt
1. Hoạt động 1:
Hướng dẫn HS tìm
hiểu chung.
Gọi HS đọc tiểu dẫn.
Nhắc lại khái niệm
truyện cười.
I. Tiểu dẫn
1. Khái niệm truyện cười
- Trong Từ điển tiếng Việt
2000 (Hoàng Phê chủ biên), Truyện cười
được định nghĩa “Chuyện kể dân gian
dùng hình thức gây cười để giải trí, hoặc
để phê phán nhẹ nhàng”.
2. Phân loại truyện cười
- Truyện khôi hài
- Truyện trào phúng
Truyện “Tam đại con gà” và “Nhưng nó

phải bằng hai mày” thuộc loại truyện trào
phúng.
2. Hoạt động 2:
Hướng dẫn HS đọc
hiểu văn bản.
Gọi HS đọc văn bản.
Xác định nhân vật anh
thầy đồ được giới thiệu
II. Đọc hiểu văn bản
A. Tam đại con gà
1. Đọc
2. Phân tích
a. Phần mở đầu: Giới thiệu nhân vật

×