Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

SKKN Sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy Sinh học THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.06 KB, 38 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
" SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC SINH HỌC
THCS"
5
Phần 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Thực hiện Theo NQ 40/2000/QH 10 của Quốc Hội, toàn quốc đã tiến hành thực hiện đổi
mới giáo dục phổ thông. Quá trình đổi mới toàn diện trên nhiều lĩnh vực của giáo dục
phổ thông mà tâm điểm là đổi mới chương trình giáo dục để đáp ứng yêu cầu xây dựng
đạt được mục tiêu việc “dạy chữ, dạy người, dạy nghề”, định hướng nghề nghiệp cho học
sinh (HS) trong hoàn cảnh mới của xã hội Việt Nam hiện đại. Trọng tâm của đổi mới
chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung đổi mới phương pháp
dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của HS
với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp của giáo viên (GV), nhằm phát triển tư duy độc
lập, góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng
thú học tập, tạo niềm tin và vui thích trong học hành.
2. Lí do chọn đề tài
Để thực hiện mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo
triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất của dạy học
lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo
của người học.
Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người GV cần nhận thức rõ ràng là quy
luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều HS học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là
nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư duy. HS chỉ học bài nào
biết bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân môn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với
6
nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. Sử dụng bản đồ tư
duy (BĐTD) giúp các em giải quyết được các vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập.


Từ những lí do trên, tôi hình thành ý tưởng đó là ứng dụng BĐTD trong các nội
dung bài học để có thể phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân cũng như hiệu quả học
tập. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng BĐTD trong dạy học Sinh học” trong các tiết
dạy của mình nhằm nâng cao kết quả dạy-học.
3. Phạm vi và đối tượng áp dụng đề tài
- Đề tài này được viết trong quá trình tôi dạy học, rút ra một số kinh nghiệm từ công tác
giảng dạy tại trường Trung học phổ thông (THPT). Đối tượng được áp dụng trong đề tài
này rất rộng rãi, từ HS trung bình khá đến đối tượng HS giỏi các lớp, vì đây là phương
pháp dạy - học. Tuỳ theo đối tượng của HS mà việc tổ chức, hướng dẫn, giao việc tìm ra
kiến thức mới cho phù hợp, giúp các em hứng thú học tập hơn khi học thực nghiệm với
đề tài này.
- GV dạy môn Sinh học.
- Nhận thức, thái độ, khả năng ghi nhớ vận dụng kiến thức của HS khi học môn Sinh học.
- Chương trình sách giáo khoa, sách GV Sinh học THPT.
- Phần mềm BĐTD Buzan's iMindMap V4.
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm lí của HS THPT, khả năng tư duy logic, khả năng
ghi nhớ, phương pháp học bài thật tốt,… mà đề ra các biện pháp tổ chức dạy và học nhằm
phát triển sự ghi nhớ, vận dụng kiến thức cho HS.
- Giúp cho các em hiểu một cách sâu sắc hơn về khả năng ghi nhớ của bản thân,
đồng thời tìm ra phương pháp dạy và học thích hợp với chương trình học hiện nay, phù
7
hợp với xu hướng học tập ngày càng đổi mới và nâng cao chất lượng của HS trong tương
lai.
5. Các phương pháp nghiên cứu
- Phân tích – tổng hợp
- Đối chiếu – so sánh
- Khảo sát thực tế
- So sánh
- Phương pháp định tính

- Phương pháp định lượng
6. Điểm mới, tính sáng tạo của đề tài
- Đề tài áp dụng kinh nghiệm giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
dạy và học ở trường THPT.
- Kết hợp với các phương tiện dạy học truyền thống, phương tiện hiện đại cho hiệu quả rõ
rệt. Đây là một chủ đề rất mới trong những năm học gần đây.
- HS hứng thú học tập, công tác giảng dạy, giáo dục của GV trở nên nhẹ nhàng hơn
vì phần chủ yếu hướng dẫn cho HS tìm ra kiến thức.
- Đề tài hướng dẫn chi tiết cách sử dụng phần mềm, chia sẻ, áp dụng cho nhiều đối
tượng, áp dụng rộng rãi cho nhiều công việc (học tập, lập kế hoạch, …)
Từ những điểm nêu trên bản thân tôi khẳng định đề tài có tính khoa học và thực tiễn cao:
Ý nghĩa khoa học:
8
Đề tài được thực hiện nhằm nâng cao nghệ thuật dạy học, cũng như phát huy tính
sáng tạo trong việc dạy và học. Kết quả của đề tài sẽ góp phần phát triển tư duy của GV
và HS .
Ý nghĩa thực tiễn:
Góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Sinh học nói riêng và các môn học khác
nói chung. Đề tài cũng góp phần phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập
của người học.
9
Phần 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Bản đồ tư duy
BĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý
tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật
hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu
trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận
của bộ não.
Cơ chế hoạt động của BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên

tưởng (các nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy
có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết
học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, và giúp cán bộ quản lí giáo dục lập
kế hoạch công tác.
BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học tập
cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy
học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn Sinh
học nói riêng và môn Khoa học Tự nhiên nói chung, các em này thường học bài nào biết
bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau,
không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này
khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu
kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học HS
sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
10
BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ
não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự
viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp HS học tập một cách
tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
Việc HS tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của HS, phát triển năng
khiếu hội họa, sở thích của HS, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…),
đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện
rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng HS và BĐTD do các em tự thiết kế nên
các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
BĐTD giúp HS ghi chép có hiệu quả. Do đặc điểm của BĐTD nên người thiết kế BĐTD
phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic,
vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả.
Tác giả Stella Cottrell đã tổng kết cách “ghi chép” có hiệu quả trên BĐTD:
1. Dùng từ khóa và ý chính
2. Viết cụm từ, không viết thành câu
3. Dùng các từ viết tắt

4. Có tiêu đề
5. Đánh số các ý
6. Liên kết ý nên dùng nét đứt, mũi tên, số, màu sắc,…
7. Ghi chép nguồn gốc thông tin để có thể tra cứu lại dễ dàng
8. Sử dụng màu sắc để ghi.
11
Sử dụng BĐTD giúp GV chủ nhiệm, cán bộ quản lí nhà trường lập kế hoạch công tác
và có cái nhìn tổng quát toàn bộ kế hoạch từ chỉ tiêu, phương hướng, biện pháp,…và dễ
theo dõi quá trình thực hiện đồng thời có thể bổ sung thêm các chỉ tiêu, biện pháp,…một
cách rất dễ dàng so với việc viết kế hoạch theo cách thông thường thành các dòng chữ.
2.1.2. Những kinh nghiệm khi lập BĐTD
* Các bước lập BĐTD
- Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang)
+ Chúng ta sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có thể thay thế cho
cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của mình. Sau đó có thể bổ
sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng.
+ Sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh, đặc biệt là các
màu sắc bản thân yêu thích.
+ Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn tượng sâu sắc về
chủ đề.
+ Không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề vì chủ đề cần được làm
nổi bật dễ nhớ
+ Chủ đề phải đủ to, rõ, nổi bật trọng tâm cần ghi nhớ.
- Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm
+ Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi bật.
+ Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm.
+ Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một
cách dễ dàng.
12
- Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ

+ Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh.
+ Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian. Mọi
người ai cũng có cách viết tắt riêng cho những từ thông dụng. Bạn hãy phát huy và sáng
tạo thêm nhiều cách viết tắt riêng.
+ Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh. Trên mỗi
khúc chỉ nên có tối đa một cụm từ khóa.
+ Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp 2 đến các
nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2…bằng đường kẻ. Các đường kẻ
càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn.
+ Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong được tổ
chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn.
+ Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta thay đổi màu
sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
- Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi
bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. Kiểm tra lại BĐTD đã hoàn thành và
diễn đạt, trình bày được các ý tưởng về kiến thức đã tạo lập.
* Phân loại BĐTD
- BĐTD theo đề cương.
- BĐTD theo chương.
- BĐTD theo đoạn văn.
* Ưu điểm của BĐTD
13
- Dễ nắm được trọng tâm của vấn đề .
- Đỡ tốn thời gian ghi chép hơn so với kiểu ghi chép cũ.
- Cải thiện sức sáng tạo và trí nhớ, nắm bắt cơ hội khám phá tìm hiểu.
- Hoàn thiện bộ não, tiếp thu linh hoạt và hiệu quả.
- Giúp người học tự tin hơn vào khả năng của mình.
- Trong giảng dạy và học tập: tạo hứng thú cho HS, GV tiết kiệm thời gian soạn giáo án,
HS hiểu và nhớ lâu vấn đề hơn
2.2. Thực trạng của vấn đề

2.2.1. Thuận lợi
- Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị ….
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các cấp, xã
hội, phụ huynh, HS…
- Chương trình môn Sinh học THPT có nhiều nội dung phù hợp với phương pháp
giảng dạy dùng BĐTD phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho HS lĩnh hội kiến
thức
- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học tập:
phòng công nghệ thông tin, đèn chiếu, bảng phụ…
- GV được đào tạo và tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử dụng BĐTD
trong giảng dạy.
- Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho con người (GV và HS) có điều kiện tiếp cận
nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau.
14
- Phương pháp sử dụng BĐTD trong dạy học các kiểu bài phù hợp tâm sinh lý lứa
tuổi HS, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy,
gây hứng thú cho người học, kích thích HS tư duy tích cực.
2.2.2. Khó khăn
- Đây là phương pháp dạy học mới nên GV và HS không tránh khỏi lúng túng trong
một số kĩ năng như sử dụng lúc nào, như thế nào, sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý tưởng…
- Nội dung môn Sinh học THPT, đặc biệt là sinh học lớp 12 mới, khô, khó, trừu
tượng … nên GV khó dạy, HS khó học.
- Đòi hỏi GV phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm.
- GV khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng HS.
- Cơ sở vật chất có đổi mới nhưng chưa thực sự phù hợp: Số HS, không gian lớp
học, trang thiết bị, đồ dung dạy học, thời gian tiết học…
- Năng lực HS không đồng đều nên đôi khi việc vẽ BĐTD trong học tập là sự máy
móc không hiệu quả.
- Quan niệm của xã hội, gia đình, và đặc biệt là HS đối với bộ môn này đôi khi còn
lệch lạc: chưa đầu tư, dành sự quan tâm, chưa chú ý, xem thường hoặc học cho xong.

2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Là người GV trước tiên cần phải nắm vững chủ trương đối mới giáo dục phổ thông thể
hiện ở chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy, việc sử dụng các phương
tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học phải phù hợp, thích ứng với từng hoạt động
giúp HS tích cực trong tìm tòi, tiếp thu lĩnh hội kiến thức. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện, phải nhấn mạnh rằng BĐTD là một công cụ phối hợp các phương pháp khác đã
thực hiện thêm phần hiệu quả, không phải là một giải pháp có thể thay thế tất cả
15
các phương pháp khác. Vì vậy, tôi đã đưa ra và áp dụng nhiều giải pháp có hiệu quả
nhưng trọng tâm là sử dụng BĐTD; với kinh nghiệm dưới đây để thực hiện cho các mục
tiêu của từng phần có sự phối kết hợp của nhiều phương pháp trên cơ sở phân tích những
tồn tại và đưa ra những lí luận, giải pháp, cách làm cùng thực hiện theo tôi là có hiệu quả
nhất cho các phần của bài học, các kiểu bài khác nhau.
2.3.1. Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ
* Việc chuẩn bị cho kiểm tra miệng
- Công việc chuẩn bị trước hết là phải xác đinh thật chính xác cần kiểm tra những gì. GV
cần xác định được mức độ tối thiểu kiến thức và kĩ năng mà HS đã thu nhận được trong
quá trình học tập. Câu hỏi đặt ra cho HS phải chính xác, rõ để HS không hiểu thành hai
nghĩa khác nhau dẫn đến việc trả lời lạc đề.
- GV phải thiết kế lại các yêu cầu, bài tập trong sách giáo khoa hay ra các bài tập tương
tự để tránh việc các em sử dụng sự hướng dẫn trong các sách học tốt, sách bài tập nhằm
đối phó với GV
* Những yêu cầu sư phạm về cách tổ chức kiểm tra miệng
- Tạo điều kiện thuận lợi để HS có thể bộc lộ một cách tự nhiên đầy đủ nhất những hiểu
biết của các em
- Dựa vào những câu trả lời miệng và hoạt động thực hành của HS mà phát hiện được
tình trạng thật của kiến thức và kĩ năng của các em
- Thái độ và cách đối xử của GV với HS có ý nghĩa to lớn trong khi kiểm tra miệng. GV
cần biết lắng nghe câu trả lời, biết theo dõi hoạt động của HS và trên cơ sở đó rút ra kết
luận về tình trạng kiến thức của HS. Sự hiểu biết của GV về cá tính HS, sự tế nhị và nhạy

16
cảm sư phạm trong nhiều trường hợp là những yếu tố cơ bản giúp thấy rõ thực chất trình
độ kiến thức và kĩ năng của HS được kiểm tra.
- Trong quá trình HS đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu không có lí do gì cần
thiết GV cũng không nên ngắt lời của HS. Cùng là một sai sót nhưng GV phải biết sai sót
nào nên sửa ngay và sai sót nào thì nên đợi HS trả lời xong.
- Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được nhiều HS: trong
lúc gọi một số HS lên bảng thì GV ra cho các HS ở dưới lớp câu hỏi khác sau đó sẽ thu
vở nháp của một số em để chấm.
- Khi tổ chức kiểm tra thì GV phải giải quyết các khó khăn lớn sau đây: khi một hay vài
HS được chỉ định lên bảng thì các HS khác trong lớp cần phải làm gì và làm như thế nào.
GV gọi nhiều em cùng một lúc, đưa ra yêu cầu khác nhau phù hợp với trình độ của mỗi
HS sau đó đặt các câu hỏi cho cả lớp sau khi các HS này hoàn thành xong nhiệm vụ của
mình như sau: “Bạn trả lời như vậy có đúng không?” “Các em có đồng ý với câu trả lời
đó của bạn không?” “Có điểm nào sai hoặc thiếu không ?”… Ngoài những câu cơ bản,
GV có thể sử dụng các câu hỏi phụ trong quá trình kiểm tra miệng. Nhờ những câu hỏi bổ
sung đó mà GV có thể hình dung được chất lượng kiến thức của HS.
* Sử dụng BĐTD.
Như ta đã biết, kiểm tra miệng là việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong các tiết dạy.
Vì vậy hoạt động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu, tạo không khí sinh
động trong lớp học và giúp HS học tập có hiệu quả hơn.
Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kĩ năng mà GV có
thể áp dụng thêm cách kiểm tra miệng như sau bằng cách sử dụng BĐTD. Sử dụng
BĐTD vừa giúp GV kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của HS đối với bài học cũ. Vì
thời gian kiểm tra bài cũ tương đối ngắn nên các BĐTD tôi thường sử dụng ở dạng thiếu
17
thông tin, yêu cầu HS điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của
các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
Ví dụ 1: Kiểm tra bài cũ tiết “Phiên mã và dịch mã” Sinh học 12:
Hoàn thành BĐTD sau:

- Do bắt đầu từ một vài năm
nay, BĐTD mới được đưa
vào giảng dạy tại một số
trường nên bản đồ còn dừng
lại ở mức đơn giản ở những
tiết học đầu năm. Tôi
thường chuẩn bị những sơ
đồ trên bảng phụ, viết nhanh
trên bảng, đưa trên phần
mềm PowerPoint… để
không chỉ những em được
gọi lên mà các em ở dưới
lớp cùng hoàn thành sau đó
GV thu bài, nhận xét và
chấm điểm cho một số HS.
Ví dụ 2: Trước khi học bài “Quần thể sinh vật và mối quan hệ giữa các cá thể trong quần
thể” Sinh học 12.
Hoàn thành BĐTD sau:
18
- Tất nhiên, với kiểu kiểm tra bài cũ này để hoàn thành trọn vẹn thì tôi thường xuyên
hướng dẫn HS cách lập bản đồ, cách ghi chép, cùng HS hoàn thiện những nội dung kiến
thức đã học bằng BĐTD nhằm đưa ra đúng, đủ những tri thức mà HS cần nắm vững. Sau
đó, HS phải trình bày được những nội dung cần nắm vững trong bài học, HS dưới
lớp tham gia nhận xét bổ sung và GV là người chốt lại kiến thức.
- Tùy theo lượng thời gian phân phối cho phần kiểm tra bài cũ và nội dung kiến thức bài
trước mà tôi còn cho HS hoàn thành trọn vẹn BĐTD dưới hình thức cuộc thi (học mà
chơi, chơi mà học), HS nào nhanh nhất, chính xác nhất sẽ được tuyên dương và điểm cao.
Qua đó, tôi thấy rằng ngay từ đầu HS đã rất hào hứng và nhiệt tình tham gia, làm cho
phần trả bài không còn là áp lực với HS, các em không phải chỉ còn đọc thuộc lòng từng
câu chữ, công thức mà có sự thấu hiểu, biết phương pháp học.

2.3.2. Sử dụng BĐTD trong việc dạy kiến thức mới
* Những vấn đề tồn tại
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng ghi nhớ, thông hiểu và vận dụng
kiến thức mới của HS, trong đó phương pháp dạy của thầy và cách học của trò là yếu tố
quyết định.
19
- Phương pháp dạy của GV
- Sử dụng phương pháp truyền thống chủ yếu là GV độc thoại, độc quyền đánh giá,
thuyết giảng làm HS nhàm chán không tập trung, chú ý những gì GV nói.
- Nội dung bám sát sách giáo khoa, ít liên hệ thực tiễn đời sống nên không giúp các em
ghi nhớ bài một cách tốt nhất.
- GV giữ vai trò chủ động điều khiển.
- Không phối hợp nhiều phương pháp dạy học trong một tiết dạy.
- Phương pháp, dụng cụ giảng dạy không khoa học.
- Gây áp lực đến với HS dẫn đến HS bị ức chế.
- Phương pháp học của HS:
- Chưa có sự chú trọng đến việc học bộ môn, học thuộc lòng một cách thụ động, ít có sự
liên tưởng, liên hệ, tìm hiểu những tập tính, quy luật Sinh học ngoài thực tế nên dễ quên
đi những kiến thức vừa học.
- Quan điểm các em học để đối phó, để kiểm tra, thi cử lấy điểm, thành tích.
- Trong quá trình học, đa số các em thụ động, ít phát biểu ý kiến, chỉ mải nghe, ghi
những gì mà GV ghi lên bảng. Khi về nhà thì học thuộc bài một cách máy móc không cần
hiểu rõ bài để hôm sau trả bài.
- Phần lớn các em đợi gần đến thi hoặc kiểm tra mới học.
- Các em chưa biết tổ chức cách học theo nhóm, theo tổ.
- Một số em không chịu khó làm những bài tập cơ bản để ghi nhớ các kiến thức tốt hơn
và lâu hơn.
20
* Sử dụng BĐTD và một số biện pháp nhằm phát triển sự ghi nhớ, thông hiểu, vận
dụng kiến thức mới của HS.

Để nâng cao sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của HS tôi đã tác động đến
nhiều mặt. Ở đây tôi tập trung tác động đến hai đối tượng quyết định của quá trình dạy -
học để chuẩn bị và bổ sung phương pháp mới sử dụng BĐTD hiệu quả mà tôi đã sử dụng
- Đối với GV:
+ Nắm được các yếu tố ảnh hưởng đến sự ghi nhớ cũng như nguyên nhân dẫn đến sự
quên của HS. Nắm được tâm sinh lý của HS THPT để có phương pháp giảng day cho phù
hợp với các em. Tạo bầu không khí học tập thoải mái, sôi động, sinh động không gây áp
lực cho các em để các em có thể ghi nhớ tốt hơn.
+ Trong giờ lên lớp, GV phải phối hợp nhiều phương pháp khác nhau nhằm phát huy tối
đa ưu điểm cũng như khắc phục khuyết điểm của từng phương pháp từ đó giúp các em
tiếp thu kiến thức mới được nhanh chóng. Cụ thể như phối hợp: Phương pháp thuyết
trình, vấn đáp, trực quan…
+ Ngoài những tài liệu trong sách giáo khoa, GV cần tìm hiểu cung cấp cho HS
nhiều tài liệu mới, tập tính, quy luật thực tế cuộc sống để giúp HS ôn tập và củng cố
những kiến thức học ngay trên lớp một cách tốt hơn. Trong giờ học trên lớp, GV có thể
những câu hỏi đơn giản mà thú vị nhằm kích thích HS tích cực học tập và tư duy độc lập.
+ Tổ chức cho các em học theo nhóm để các em có cơ hội phát huy khả năng độc
lập của bản thân và tạo cơ hội cho các em có thể tự đánh giá, kiểm tra mức độ nắm vững
kiến thức lẫn nhau và của chính bản thân các em. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các em
có thể tự đánh giá, kiểm tra khả năng nắm tri thức của mình
21
+ GV cho các em trình bày kiến thức mình có được, HS làm thí nghiệm, thực hành để các
em có thể vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế.
- Đối với HS:
+ Chuẩn bị bài trước khi lên lớp.
+ Biết phân phối thời gian học tập hợp lý cho từng môn học.
+ Lựa chọn phương pháp học riêng cho mình để ghi nhớ bài thật tốt.
+ Biết liên hệ, kết hợp tri thức đã học với thực tiễn.
+ Thường xuyên tổ chức học theo nhóm để trao đổi khả năng nắm vững các kiến
thức đã học.

+ Khi có những thắc mắc về bài học cần chủ động hỏi GV giảng dạy.
+ Vào lớp cần phải năng động, tự tìm tòi, học hỏi, học cách học…
Sử dụng BĐTD
Từ đầu năm học, theo định hướng của ngành chống đọc chép, tôi đã giới thiệu đến HS
các kiểu ghi chép theo kiểu đề mục, kiểu trích dẫn, kiểu luận đề, kiểu tự do. Thực tế, các
kiểu ghi chép này các em cũng đã thực hiện rồi nhưng ít được biết đến tên và tác dụng
cũng như hiệu quả của từng kiểu ghi. Thông thường, tôi nhận thấy ở trường HS thường
được hướng dẫn ghi chép bài học theo kiểu đề cương, trích dẫn và luận đề còn cách ghi
chép theo kiểu tự do dành cho việc dự hội thảo hay chuyên đề… Nhưng điều đáng quan
tâm là các kiểu ghi chép trên nếu được kết hợp với việc hệ thống kiến thức bài học theo
kiểu BĐTD sẽ giúp HS nhớ lâu hơn, gây hứng thú và niềm đam mê học tập hơn cho HS,
giúp cho các kiến thức ấy "đi thẳng vào đầu" HS một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn.
Để cải thiện việc ghi chép của mình, tôi đã yêu cầu HS cần lưu yùù:
22
+ Làm bài tập về nhà trước khi đến lớp, xem trước bài học mới.
+ Đi học đầy đủ, nếu bạn bỏ một buổi học thì bạn phải mượn vở của bạn cùng lớp để ghi
lại.
+ Ngoài các loại bút thông thường, HS cần trang bị thêm các loại bút dạ quang, bút màu
để làm nổi những thông tin quan trọng.
+ Dùng các ký hiệu để ghi bài nhanh hơn.
+ Chú ý lắng nghe những lời giảng của GV. Không cần ghi lại mọi lời giảng của GV mà
hãy tư duy để ghi những điều quan trọng nhất. Luôn động não chứ đừng chỉ ghi chép như
một cái máy.
+ Nếu bỏ lỡ thông tin nào, hãy cách ra vài dòng để bổ sung sau, bằng cách hỏi lại GV hay
các bạn khác.
+ Dành khoảng thời gian để xem xét lại những ghi chép.
+ Ghi chép khi đọc một thông tin, một bài học mới nào đó ở sách giáo khoa sẽ giúp bạn
nhớ được các thông tin đó.
Để sử dụng BĐTD trong khi dạy học kiến thức mới, tôi đã tổ chức các hình thức sau cho
HS:

Khi dạy HS hoàn toàn bằng bảng tôi thường dành một góc bảng bên phải để cùng HS
hoàn thiện BĐTD. Ví dụ khi dạy bài “Đột biến gen” Sinh học 12, sau khi đã kiểm tra bài
cũ, tôi đi theo tiến trình và cách trình bày như sau:
Bảng ghi được chia làm 2 phần chủ yếu
Đột biến gen
I. Khái niệm và các dạng đột biến gen
(Ở bảng bên phải cũng xuất
hiện từ khóa “Đột biến gen”)
23
1. Khái niệm
2. Các dạng đột biến gen
(GV và HS cùng tìm hiểu phần I. Sau khi học
xong phần I, BĐTD xuất hiện thêm 2 nhánh
“Khái niệm”; “Các dạng” và thêm các nhánh
con, ví dụ như: “mất” “thêm” “thay thế” )
…………
Tương tự như vậy, sau khi học xong mỗi phần với các kiến thức cần ghi nhớ thì BĐTD
lại thêm những nhánh nữa. Khi kết thúc bài học mới cũng là lúc GV và HS đã hoàn thành
xong BĐTD cho bài học.
Khi dạy HS hoàn toàn bằng máy chiếu, tôi thường dùng bảng như một “bảng nháp” để
cùng HS hoàn thiện BĐTD. Ngược lại, khi dùng bảng, với những bài giảng có nội dung
kiến thức ngắn, những lần đầu khi HS làm quen với BĐTD tôi vẽ trực tiếp trên phần
mềm để HS dễ quan sát và định hướng những công việc cần làm.
Bên cạnh đó, cũng có những tiết dạy tôi cho HS hoạt động nhóm: Sau khi đã học xong
nội dung kiến thức bài học, trước khi sang phần bài tập, củng cố tôi cho HS hoàn thành
BĐTD theo nhóm hoặc hoàn thành theo kĩ thuật “khăn phủ bàn”.
Tuy nhiên, quan trọng nhất là cho dù thực hiện theo cách nào thì sau đó HS phải lên
trình bày, thuyết minh thông qua BĐTD mà GV và HS hoặc nhóm mình đã hoàn
thành. HS khác nhận xét, bổ sung. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn
chỉnh BĐTD từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học. GV giới thiệu BĐTD là

một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có chung 1 kiểu BĐTD, tôi chỉ
24
Đột biến
gen
Khái
niệm
Thêm
Thay thế
Các
dạng
Mất
chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức (nếu
cần).
Ví dụ: BĐTD hình thành sau khi học xong bài “Hệ sinh thái”
25
Qua việc hướng dẫn cách ghi, cách học bài nói trên, tôi nhận thấy HS dần dần có những
thay đổi đáng kể. Cụ thể, các em đã tự tin hơn trong việc ghi chép ở lớp và chuẩn bị bài ở
nhà thông qua sự hướng dẫn của tôi. Và, tôi nghĩ rằng việc hệ thống kiến thức sẽ rất dễ
dàng với các em khi các em đã quen với cách làm việc có hệ thống như trên.
2.3.3. Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức
Củng cố bài giảng là một khâu quan trọng của bài giảng, là một yếu tố dẫn đến sự thành
công của bài giảng. Củng cố bài giảng giúp HS nhớ lại và khắc sâu kiến thức hơn. Ngoài
việc xác định kiến thức trọng tâm, HS còn có thể tự đánh giá kết quả học tập của mình.
Từ đó các em có thể điều chỉnh lại phương pháp học sao cho phù hợp.
26
Bằng các phương pháp củng cố bài giảng cụ thể, GV sẽ giúp HS phát huy tính tích cực,
chủ động trong việc tiếp thu nội dung bài, đồng thời mở rộng và phát triển tư duy cho
HS.
Củng cố bài giảng còn tạo điều kiện tương tác giữa GV và HS. Điều đó tạo hứng thú học
tập cho HS, nuôi dưỡng bầu không khí lớp học, tạo điều kiện để HS phát biểu ý kiến.

Một số phương pháp củng cố bài thường dùng:
Củng cố bài giảng bằng thiết kế và sử dụng các sơ đồ, bảng biểu.
Biện pháp củng cố này giúp HS hiểu được kiến thức thông qua khả năng phân tích, so
sánh và móc nối các kiến thức.
Thường áp dụng với những bài mang tính so sánh hay tổng quát, có thể sử dụng các sơ
đồ, bảng biểu để hệ thống lại kiến thức.
Củng cố bài giảng bằng việc sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập.
Biện pháp này đánh giá việc học của HS, rèn cho HS khả năng diễn đạt. Nhưng sẽ tạo áp
lực cho các HS tiếp thu chậm và không hiểu bài ngay tại lớp. Phương pháp áp dụng đối
với những bài học nhiều lý thuyết.
Củng cố bài giảng bằng việc tổ chức các trò chơi.
Biện pháp này tạo sự vui vẻ, hứng khởi cho HS đối với môn học. Nhưng có hạn chế là
tốn nhiều thời gian để tổ chức cho lớp tham gia trò chơi. Nguyên tắc cơ bản là trò chơi
phải đơn giản, đi sâu vào vấn đề trọng tâm của bài.
Củng cố bài giảng bằng cách cho HS tự tổng kết kiến thức.
27
Biện pháp củng cố này rèn cho HS kĩ năng trình bày vấn đề trước đám đông và kĩ năng
tóm lược vấn đề Phương pháp áp dụng với những bài nội dung đơn giản, dễ tổng kết lại
kiến thức.
Trên đây là một vài phương pháp củng cố bài học mà tôi và các bạn chắc chắn đã dùng
trong các tiết dạy của mình. Mỗi phương pháp có một ưu nhược điểm riêng và khi dùng
BĐTD, chúng ta có thể khắc phục các nhược điểm, phát huy tối đa các ưu điểm. Sử dụng
BĐTD gần như là một biện pháp có thể kết hợp các phương pháp trên với nhau một
cách linh hoạt, hiệu quả (Đó là trò chơi, là sơ đồ tổng kết, có những câu hỏi củng cố…).
Tôi nhận thấy rằng BĐTD là công cụ tư duy mang tính tự nhiên, nếu vận dụng vào dạy
học sẽ gây cảm hứng và niềm say mê học tập cho HS. Đặc biệt, BĐTD rất phù hợp cho
việc đọc, ôn tập, ghi chú
Có thể nói, đây là công cụ vô giá không những giúp cho HS mà cả GV trong việc thu
thập, phân loại thông tin. Từ đó, tôi đã mạnh dạn vạch ra kế hoạch để hướng dẫn HS học
tập theo BĐTD này. Khi mới áp dụng BĐTD vào việc củng cố bài học ở lớp nói riêng và

áp dụng cho các kiểu bài nói chung, tôi thông qua trò chơi cho HS là sắp xếp các thẻ ôn
bài, tóm tắt đề mục chính của bài học để tập dần cho HS nhớ các từ khóa (nội dung
chính cần nắm) của bài học. Cụ thể, tôi lấy ví dụ sau khi học xong bài Đột biến số lượng
NST (tiếp theo) Sinh học 12 tôi đã thực hiện việc củng cố như sau:
28
Tôi cho HS chuẩn bị trước các thẻ ôn bài với các từ khóa:
Sau đó, tôi đảo các thẻ để 2 nhóm 3-5 em tổ chức thi đua hoàn thành bằng cách dán trên
bảng hoặc cá nhân (tùy vào đối tượng lớp) chọn lựa, sắp xếp và nối các đường liên kết từ
các thẻ lại sao cho hợp lí nhất. Kết quả thu được sau củng cố bài là hai dạng sơ đồ như
sau:
Dạng sơ đồ thứ nhất:
29
ĐỘT BIẾN NST MẤT ĐOẠN
LẶP ĐOẠN
ĐẢO ĐOẠN
HIỆN TƯỢNG ĐA BỘI
HIỆN TƯỢNG DỊ BỘI
ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST
ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST
MẤT
ĐOẠN
LẶP
ĐOẠN
ĐẢO
ĐOẠN
HIỆN
TƯỢNG
ĐA BỘI
HIỆN
TƯỢNG DỊ

BỘI
ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST
ĐỘT BIẾN NST
ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST

×