Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

BÀI TẬP THỰC HÀNH DỊCH VIẾT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.91 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG
BỘ MÔN TIẾNG NHẬT
BÀI TẬP THỰC HÀNH DỊCH VIẾT

Nhóm 1 (07J1)
1.Phan Thị Thùy Duyên
2.Đặng Thanh Huyền
3.Lê Thị Ngọc
4.Nguyễn Thị Thu Trang

1
HA NOI, 2011
Chương 1: Những quy định chung
Điều 1:
Bộ luật này có mục đích nhằm góp phần duy trì và đảm bảo sức khỏe của
người dân, tuân thủ các quy chế sao cho người dân được hưởng chế độ
khám chữa bệnh hiệu quả, thích hợp, chất lượng cũng như bảo vệ lợi ích
của người được khám chữa bệnh thông qua các điều khoản cần thiết nhằm
hỗ trợ người bệnh có sự lựa chọn thích hợp, các điều khoản cần thiết nhằm
đảm bảo an toàn khám chữa bệnh, các điều khoản cần thiết liên quan đến
xây dựng, quản lý và nâng cấp cơ sở vật chất bệnh viện, khu khám chữa
bệnh, khu hộ sinh cũng như các điều khoản cần thiết để duy trì mối liên kết
giữa nghiệp vụ và trách nhiệm chức năng giữa các cơ sở khám chữa bệnh.
Điều 1 mục 2: Y tế (khám chữa bệnh) phải được đặt trên quan điểm giữ
vững sự tôn trọng cá nhân và sinh mạng mỗi con người, phải được tiến
hành phù hợp với tình trạng thể chất cũng như tinh thần của người được
khám chữa bệnh dựa trên mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau giữa người được
khám chữa bệnh và các y bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, y tá cũng như bác sĩ điều
trị. Công tác khám chữa bệnh phải hợp lý không chỉ đơn thuần chữa bệnh
mà đòi hỏi phải có chất lượng với các biện pháp thích hợp sao cho bệnh


nhân hồi phục sớm nhất.
2 Khám chữa bệnh phải lấy sự nỗ lực mong muốn được khỏe mạnh của
chính người dân làm nền tảng trên quan điểm tôn trọng hoàn toàn ý muốn
của chính người bệnh. Tại các cơ sở khám chữa bệnh, các nhà thuốc kê
đơn, các viện dưỡng lão, khu khám chữa bệnh hay bệnh viện (dưới đây
được gọi chung là “các cơ sở khám chữa bệnh”) hoặc ngay tại tư gia những
người được khám chữa bệnh, việc khám chữa bệnh phải phù hợp với chức
2
năng của chính các cơ sở phục vụ khám chữa bệnh đó (dưới đây gọi chung
là “chức năng y tế”) và phải có được mối liên kết hiệu quả giữa các dịch vụ
phúc lợi và các dịch vụ liên quan khác,.
Điều 1 mục 3: Dựa vào quy định nêu tại điều trước, Nhà nước và các đoàn
thể quần chúng tại các địa phương phải nỗ lực nhằm đảm bảo quy chế giúp
cho người dân được khám chữa bệnh một cách hiệu quả, chất lượng và phù
hợp.
Điều 1 mục 4 : Theo quy định nêu tại điều 1 mục 2, những người đảm
nhiệm công việc của bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, y tá hay bác sĩ điều trị phải
phối hợp nhằm thực hiện công tác chữa bệnh một cách chất lượng và hợp
đối với các bệnh nhân điều tri.
2 Khi điều trị cho bệnh nhân, những người đảm nhiệm công việc của y
bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, y tá hay bác sĩ điều trị phải phối hợp giải thích
tình hình chữa bệnh sao cho đạt được lòng tin từ phía người bệnh.
3 Tại các cơ sở khám chữa bệnh, để có thể đóng góp vào việc liên kết
giữa công việc và chia sẻ chức năng giữa các cơ sở khám chữa bệnh
với nhau, các bác sĩ và nha sĩ chuyên làm công tác khám bệnh phải
giới thiệu bệnh nhân đến những cơ sở khám chữa bệnh khác khi cần
thiết. Ngoài ra, trong một số trường hợp nhất định, họ phải cung cấp
thông tin liên quan đến việc khám chữa bệnh của bệnh nhân hay liên
quan đến thuốc men cho các y bác sĩ, nha sĩ hay dược sĩ tại các cơ sở
khám chữa bệnh khác, đồng thời phối hợp chặt chẽ để đưa ra các

biện pháp phù hợp.
4 Trong trường hợp những bệnh nhân sắp xuất viện cần phải tiếp tục
dưỡng bệnh nghỉ ngơi, người quản lí bệnh viện hay cơ sở khám chữa
bệnh phải phối hợp với những người cung cấp dịch vụ chăm sóc sức
3
khỏe hay dịch vụ bảo hiểm và phải cân nhắc sao cho bệnh nhân có
thể tiếp tục nghỉ ngơi với điều kiện tốt nhất.
5 Để có thể góp phần vào việc phổ biến các kĩ thuật chữa bệnh hay
cung cấp các biện pháp chữa bệnh có hiệu quả, người thiết lập hay
quản lí các cơ sở khám chữa bệnh phải cân nhắc sao cho các y bác sĩ,
nha sĩ, dược sĩ, y tá hay những người làm công tác chữa bệnh không
làm việc tại cơ sở có thể sử dụng phòng khám cũng như các của cơ
sở khám chữa bệnh đó trong công tác nghiên cứu.
Điều 1 mục 5 : Bộ luật này quy định: “bệnh viện” là nơi mà các y bác sĩ
hoặc các nha sĩ làm công tác liên quan đến y tế hay nha khoa và là nơi có
các trang thiết bị phục vụ cho việc khám chữa bệnh để có thể tiếp nhận trên
20 bệnh nhân nhập viện cùng một lúc.
Bệnh viện phải được thành lập và hoạt động với mục đích chính là cung
cấp những phương tiện để người bệnh có thể được điều trị một cách khoa
học và thích hợp.
2 Pháp luật này có nêu: “ cơ sở khám chữa bệnh” là nơi các y bác sĩ hoặc
nha sĩ làm công tác liên quan đến y tế hay nha khoa nhằm phục vụ quần
chúng hay một số người nhất định nào đó. Cơ sở khám chữa bệnh là nơi
không có các trang thiết bị để phục vụ khi có bệnh nhân nhập viện hoặc là
nơi có các trang thiết bị có thể tiếp nhận tối đa 19 bệnh nhân nhập viện
cùng một lúc.
Điều 1 mục 6: Bộ luật này quy định: “viện dưỡng lão” là nơi chăm sóc sức
khỏe cho người già theo quy định nêu tại luật chăm sóc y tế ( số 123 – pháp
luật ban hành năm 1997)
4

Điều 2:
Bộ luật này quy định: “nhà hộ sinh” là nơi bác sĩ hộ sinh làm nghiệp vụ cho
chăm sóc cho người dân hay những người được chỉ định ( ngoại trừ những
nghiệp vụ được tiến hành tại bệnh viện hay phòng khám )
2 Nhà hộ sinh phải có các thiết bị có thể chăm sóc khoảng trên 10 sản
phụ hay người mang bầu cùng một lúc.
Điều 3 :
Đối với những nơi thực hiện công tác khám chữa bệnh (bao gồm cả công
tác hộ sinh) mà không phải là bệnh viện hoặc phòng khám thì không được
đặt những tên dễ gây nhầm lẫn hoặc giống với tên của các bệnh viện, bệnh
viện khu vực, bệnh viện phụ sản, viện điều dưỡng, phòng khám, bệnh xá, y
viện và các bệnh viện hay phòng khám khác.
2 Phòng khám không được đặt những tên dễ gây nhầm lẫn hoặc giống với
tên của các bệnh viện, các bệnh viện khu vực, và các bệnh viện phụ sản
khác.
3 Nếu không phải là nhà hộ sinh thì không được đặt tên dễ gây nhầm lẫn
hoặc giống với nơi tiến hành nghiệp vụ đó của các bác sỹ phụ sản khác.
Điều 4:
Đối với những bệnh viện được thành lập theo quyết định của bộ trưởng bộ
y tế lao động theo quy định nêu tại khoản 1 mục 2 điều 42 và những cơ sở
khám chữa bệnh đáp ứng được những điều kiện cần thiết có liên quan đến
công tác hỗ trợ khám chữa bệnh tại các cấp trung ương, tại các tỉnh thành
phố hay các thôn xã nêu dưới đây được phép đặt tên là “ bệnh viện hỗ trợ
5
khám chữa bệnh tại địa phương ” sau khi có được sự chấp thuận của người
đứng đầu địa phương đó.
1. Các thể chế nhằm giúp các y bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, nha sĩ, y tá không
làm việc tại bệnh viện có thể khám chữa bệnh cho những bệnh nhân được
giới thiệu từ các cơ sở khám chữa bệnh, đồng thời để giúp họ có thể sử
dụng một phần hay toàn bộ các thiết bị, máy móc và thậm chí toà nhà của

bệnh viện khi chữa bệnh hiện đang được điều chỉnh.
2. Có khả năng điều trị cho những trường hợp khẩn cấp.
3.Có năng lực tổ chức đào tạo nhằm nâng cao tư chất cho nhân viên y tế
khu vực.
4. Có đủ trang thiết bị cho bệnh nhân nhập viện trong trường hợp vượt quá
người được quy định tại Luật y tế lao động.
5. Có đầy đủ cơ sở vật chất quy định từ số 2 đến số 8, số 10 đến số 12
khoản 1 điều 21 và từ số 4 đến số 9 khoản 1 điều 22.
6. Các trang thiết bị phải phù hợp với những điều kiện cần thiết theo quy
định của bộ Lao động thương binh và xã hội dựa trên những quy định nêu
tại tại khoản 1 điều 21 và điều 22.
2 Lãnh đạo các tỉnh thành phố phải sẵn sàng lắng nghe ý kiến của hội
đồng tư vấn y tế khi quyết định chấp nhận các điều khoản trên.
3 Nếu không phải là bệnh viện hỗ trợ khám chữa bệnh tại địa phương
thì không được đặt tên là bệnh viện hỗ trợ khám bệnh tại địa phương hoặc
đặt những tên dễ gây nhầm lẫn.
6
Điều 4 mục 2: Những bệnh viện đáp ứng được những yêu cầu dưới đây sẽ
được Bộ Lao động thương binh và xã hội cho phép lấy tên là Viện chức
năng đặc biệt:
1. Có khả năng khám chữa bệnh bằng các phương pháp tiên tiến.
2. Có khả năng đánh giá và cung cấp kĩ thuật khám chữa bệnh hiện đại.
3. Có khả năng tiến hành nghiên cứu về khám chữa bệnh bằng các phương
pháp tiên tiến.
4. Có khoa chẩn đoán theo quy định của bộ Lao động thương binh và xã
hội.
5. Có đủ trang thiết bị chữa bệnh cho số lượng lớn người nhập viện, ngay
cả khi vượt quá số lượng quy định theo quy định của Bộ Lao động
thương binh và xã hội.
6. Nhân viên bệnh viện phù hợp với những điều kiện cần thiết do Bộ lao

động thương binh xã hội quy định tại mục 2 điều 22.
7. Có đầy đủ trang thiết bị theo quy định nêu từ số 2 đến số 8, số 10 đến
số 12 khoản 1 điều 21 và số 2, số 5, số 6 mục 2 điều 22.
8. Các trang thiết bị đó phải đáp ứng được những điều kiện cần thiết theo
quy định của Bộ Lao động thương binh và xã hội nêu tại khoản 1 điều
21 và mục 2 điều 22.
2 Bộ trưởng Bộ Lao động thương binh và xã hội phải sẵn sàng lắng
nghe ý kiến của hội đồng tư vấn y tế khi quyết định chấp nhận các điều
khoản trên.
3 Nếu không phải là bệnh viện chức năng đặc biệt thì không được lấy
tên là bệnh viện chức năng đặc biệt hoặc lấy những tên dễ gây nhầm lẫn.
7
ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG
BỘ MÔN TIẾNG NHẬT
BÀI TẬP THỰC HÀNH DỊCH VIẾT

Nhóm 2 (07J1)
1. Nguyễn Thị Duyên Anh
2. Nguyễn Thị Mai Hương
3. Lê Thị Huyền
4. Nguyễn Ngọc Thùy
5. Đinh Thị Yến
8
HA NOI, 2011
Điều 5: Trong trường hợp bác sĩ hoặc bác sĩ nha khoa tham gia chữa trị tận
nhà cho từng cá nhân hay cho nhiều người đi công tác, thì theo quy định
khoản 5 và khoản 7 điều 6, điều 8 và điều 9, bác sĩ hộ sinh phải coi mỗi địa
điểm đó như là nơi chữa trị hoặc nhà hộ sinh.
2. Trong trường hợp tỉnh trưởng, tổ trưởng ở các khu vực hoặc thị trưởng

của thành phố (dưới đây gọi là “thành phố xây dựng trung tâm y tế”) được
quy định trong bộ luật dựa trên quy định ở khoản 1 điều 5 (số 101 bộ luật
1948) của bộ luật y tế khu vực xác nhận là cần thiết thì có thể đưa ra các
thông báo cần thiết, hoặc phải nộp hồ sơ đăng kí chữa bệnh, đăng kí hộ
sinh, sổ sách và các giấy tờ khác để kiểm tra đối với bác sĩ hộ sinh, bác sĩ
nha khoa hay bác sĩ được quy định ở khoản trước.
Điều 6: Đối với các bệnh viện, phòng khám, phòng hộ sinh của Nhà nước
thành lập, việc áp dụng các quy định của bộ luật này được quy định cụ thể
tại Nghị định
Chương 2: Hỗ trợ lựa chọn liên quan đến y tế
Phần 1: Cung cấp thông tin liên quan đến y tế
Điều 6 khoản 2: Nhà nước và chính quyền địa phương phải nỗ lực để có
những biện pháp cần thiết để những người nhận sự chăm sóc y tế có thể
nắm được những thông tin cần thiết lien quan đến việc lựa chọn bệnh viện,
phòng khám hay phòng hộ sinh
2. Các nhà quản lý cũng như nhà thành lập cơ sở cung cấp dịch vụ chăm
sóc sức khỏe phải cung cấp thông tin một cách chính xác và phù hợp về
việc chăm sóc y tế cung cấp bởi các cơ sở chăm sóc sức khỏe thích hợp,
đồng thời nỗ lực đáp ứng một cách thỏa đáng ý kiến từ phía bệnh nhân và
người nhà để những người nhận sự chăm sóc y tế có thể lựa chọn các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe thích hợp
Điều 6 khoản 3:
1. Căn cứ theo quy định đưa ra trong chỉ thị của bộ Y tế và Lao động; cán
bộ quản lý bệnh viện, phòng khám bệnh, phòng hộ sinh (dưới đây sẽ gọi
chung là bệnh viện) phải thông báo cho tỉnh trưởng của các tỉnh thành, khu
9
vực sở tại về các khoản mục được quy định bằng chỉ thị của bộ Y tế Lao
động, coi như là thông tin cần thiết để người đến khám chữa bệnh chọn lựa
bệnh viện cho phù hợp, đồng thời phải thông qua những văn bản ghi chép
đầy đủ các điều khoản hợp lý phù hợp cho các đối tượng bệnh viện.

2. Căn cứ theo quy định đưa ra trong chỉ thị của bộ Y tế và Lao động; Cán
bộ quản lý của bệnh viện phải nhanh chóng thông báo cho tỉnh trưởng các
tỉnh thành, khu vực sở tại của bệnh viện khi phát sinh thay đổi về các điều
khoản đã được thông báo trong quy định trên, cũng như phải thay đổi các
văn bản quy định trong điều khoản đó.
3. Căn cứ theo quy định đưa ra trong chỉ thị của bộ Y tế và Lao động; Cán
bộ quản lý bệnh viện ngoài việc thông qua các quy định văn bản ở khoản 1;
có thể cung cấp các điều khoản khuyến khích được ghi chép bằng văn bản
phù hợp theo các quy định của bộ Y tế Lao động bằng những phương pháp
sử dụng các cấu trúc xử lý thông tin điện tử, cũng như các phương pháp
khác sử dụng kỹ thuật về thông tin và truyền thông.
4. Các tỉnh trưởng các tỉnh thành, khu vực khi cần phải xác nhận nội dung
thông báo theo quy định của khoản 1 hoặc khoản 2 có thể yêu cầu văn
phòng thành phố, thị trấn, thị xã cung cấp thông tin cần thiết về bệnh viện
trong khu vực sở tại.
5. Căn cứ theo quy định đưa ra trong chỉ thị của bộ Y tế và Lao động; các
tỉnh trưởng các tỉnh thành, khu vực phải công bố các điều khoản được
thông báo theo quy định của khoản 1 và khoản 2.
6. Nếu cán bộ quản lý bệnh viện không thông báo hoặc thông báo sai sự
thật theo như khoản 1 hoặc khoản 2; các tỉnh trưởng các tỉnh thành, khu
vực có thể ra quyết định lại về thời gian, tìm người quản lý phù hợp và tiến
hành thông báo quyết định mới này.
Điều 6 khoản 4
Người quản lí bệnh viện hoặc phòng khám khi cho bệnh nhân nhập viện,
theo điều luật của bộ lao động và y tế phải yêu cầu bác sĩ hay nha sĩ chịu
trách nhiệm khám chữa cho bệnh nhân có liên quan tiến hành thực hiện trên
văn bản những mục ghi dưới đây hơn nữa phải cấp giấy và giải thích thấu
đáo cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân.Nhưng,không giới hạn trường
10
hợp bệnh nhân có hi vọng được xuất viện sớm và trường hợp được sự xác

nhận của bộ lao động và y tế khác.
1.Tên, ngày tháng năm sinh, giới tính của bệnh nhân
2.Tên bác sĩ hoặc nha sĩ chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc khám chữa
cho bệnh nhân ấy.
3.Tên thương tích hay triệu chứng chủ yếu là nguyên nhân dẫn đến nhập
viện
4.Kế hoạch về việc tiến hành kiểm tra, phẫu thuật, liều lượng thuốc và các
trị liệu khác trong thời gian bệnh nhân nhập viện (bao gồm cả y tá của
bệnh nhân và việc quản lí dinh dưỡng)
5.Các điều khoản khác được qui định trong điều lệ của bộ lao động và y tế.
2. Người quản lí bệnh viện và phòng khám khi được sự cho phép của bệnh
nhân hoặc người nhà bệnh nhân mới được phép thay đổi trên văn bản về
các hạng mục nêu trên, theo qui định ở điều luật của bộ lao động và y tế ,
có thể cung cấp phương pháp sử dụng xử lí tổ chức thông tin điện tử đối
với các mục được ghi trên văn bản hoặc bằng phương pháp sử dụng kĩ
thuật của thông tin truyền thông khác theo qui định của bộ lao động và y tế.
3. Người quản lí bệnh viện hoặc phòng khám khi cho bệnh nhân nhập viện
phải viết thành văn bản hoặc cấp giấy hoặc giải thích phù hợp về các dịch
vụ điều trị và dịch vụ phúc lợi phục vụ điều dưỡng sau khi bệnh nhân xuất
viện.
4. Người quản lí bệnh viện hoặc phòng khám, theo như văn bản đã viết ở
mục 1, phải phản ánh một cách đầy đủ về sự hiểu biết của bác sĩ , nha sĩ ,
dược sĩ, y tá và các nhân viên liên quan làm việc trong bệnh viện và phòng
khám ấy, cố gắng làm sao điều trị tốt nhất cho bệnh nhân trong thời gian
nhập viện dưới sự hợp tác mang tính hữu cơ của các y bác sĩ và những
nhân viên khác.
5. Người quản lí bệnh viện hoặc phòng khám, theo như văn bản mục 3, cố
gắng tạo mối liên hệ giữa bệnh nhân sau khi xuất viện và người cung cấp
dịch vụ điều trị và dịch vụ phúc lợi cần thiết cho điều dưỡng.
Điều 6,khoản 5:

11
Cấm quảng cáo bằng văn bản hay bằng bất cứ hình thức nào liên quan đến
ngành y hay nha khoa , bệnh viện hay phòng khám ngoại trừ những mục
nêu dưới đây:
1. Chỉ dẫn của bác sĩ hay của nha sĩ.
2. Tên khoa khám bệnh.
3. Tên bệnh viện hay phòng khám, mục thông báo địa chỉ, số điện thoại
cùng tên người quản lý bệnh viện hay phòng khám.
4. Ngày khám và thời gian khám ; có hay không có việc thực hiện khám
bệnh có hẹn trước .
5. Quảng cáo trong trường hợp bệnh viện hay phòng khám ; bác sĩ hay nha
sĩ nhận chỉ định chịu trách nhiệm điều trị bệnh nhất định nào đó theo
qui định của pháp luật.
6. Những hạng mục liên quan tới :có hay không thiết bị phục vụ nhập
viện, số lượng giường bệnh được phân chia từng loại theo qui định ở
điều 7 khoản 2 , số lượng bác sĩ, bác sĩ nha khoa , dược sĩ , y tá, và số
lượng các nhân viên khác , trang thiết bị ,cơ sở hạ tầng, nhân viên của
phòng khám hay bệnh viện liên quan khác .
7. Hạng mục nói về tên ,tuổi , giới tính, chức vụ , tiểu sử sơ lược của bác sĩ
, bác sĩ nha khoa, dược sĩ , y tá và những người thực hiện điều trị bệnh ở
bệnh viện và phòng khám liên quan góp phần giúp người bệnh có thể
lựa chọn việc điều trị thích hợp. Mục này phải được bộ trưởng bộ lao
động và phúc lợi xác nhận .
8. Mục công báo về :biện pháp phù hợp để thảo luận về tình hình điều trị
của bệnh nhân cũng như việc điều trị cho bệnh nhân từ phía gia đình,
biện pháp đảm bảo sự an toàn trong điều trị, biện pháp đảm bảo xử lí
thích hợp thông tin cá nhân và các mục liên quan đến quản lí , vận hành
bệnh viện và phòng khám liên quan khác.
9. Mục thông báo về : tên bệnh viện , phòng khám được phép giới thiệu,
tên của người cung cấp dịch vụ điều trị , dịch vụ phúc lợi ; tình hình sử

dụng chung cơ sở hạ tầng, trang thiết bị , dụng cụ y tế giữa người cung
cấp dịch vụ kể trên và bệnh viện, phòng khám liên quan; mối liên quan
giữa bệnh viện, phòng khám liên quan và người cung cấp dịch vụ điều
trị hay người cung cấp dịch vụ phúc lợi.
12
ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG
BỘ MÔN TIẾNG NHẬT
BÀI TẬP THỰC HÀNH DỊCH VIẾT

Nhóm 3 (07J1)
1. Nguyễn Thị Quỳnh Nga
2. Nguyễn Thị Hằng
13
3. Đỗ Thùy Linh
4. Lưu Đức Hạnh


HA NOI, 2011
10. Cung cấp các thông tin liên quan đến các bản ghi chép hồ sơ y tế và các
chẩn đoán khác, các nội dung liên quan đến việc cung cấp thông tin về việc
chữa trị bệnh tại bệnh viện hoặc phòng khám có thẩm quyền khác bằng văn
bản theo quy định tại khoản 3 điều trước.
11. Các nội dung liên quan đến nội dung chữa trị được cung cấp tại bệnh
viện hoặc phòng khám có thẩm quyền( được giới hạn trong nội dung mà
Bộ trưởng bộ Y tế quy định về phương pháp kiểm tra, phẫu thuật và các
phương pháp trị liệu khác sao cho có lợi cho bệnh nhân trong việc lựa chọn
trị liệu thích hợp)
12. Các nội dung liên quan đến số ngày nhập viện nội trú trung bình của
bệnh nhân tại bệnh viện hoặc phòng khám, số bệnh nhân ngoại trú hoặc số

bệnh nhân nội trú trung bình, hoặc các kết quả trị liệu khác là các nội dung
do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định sao cho có lợi cho bệnh nhân trong việc lựa
chọn trị liệu thích hợp.
13. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định các nội dung tương tự như các nội dung
được đưa ra trong các điều trước.
2. Để tạo ra một dự thảo tiêu chuẩn quy định tại khoản 4 về các nội dung
được đưa ra tại điều 7 và điều 11,12,13 mục trước trên cơ sở giám định
tính chuyên môn khoa học , Bộ trưởng Bộ Y tế phải lắng nghe ý kiến của
các tổ chức, chuyên gia về trị liệu.
14
3. Trong trường hợp báo cáo nội dung được đưa ra tại các khoản của điều 1
thì các nội dung báo cáo đó không được sai sót.
4. Trong trường hợp báo cáo nội dung được đưa ra tại các khoản của điều 1
thì phương pháp và nội dung báo cáo phải phù hợp với các tiêu chuẩn theo
quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế tức là tiêu chuẩn cần thiết cho việc lựa
chọn trị liệu thích hợp.
Khoản 6 điều 6
Theo quy định của khoản 2 điều 1 mục trước, tên khoa khám chữa bệnh
phải là tên khác ngoài tên trị bênh tương đương, đồng thời được quy định
trong pháp lệnh về ngành Y và Y học nha khoa, bác sĩ làm việc cho khoa
hoặc bác sĩ nha khoa phải được sự cho phép của Bộ trưởng Bộ Y tế.
2. Khi muốn đề xuất việc sửa đổi, bãi bỏ các Nghị định của khoản trên, Bộ
trưởng Bộ Y tế phải lắng nghe ý kiến của Ban kiểm tra y tế và các tổ chức
học thuât.
3. Theo sự cho phép tại khoản 1, trước tiên Bộ trưởng Bộ Y tế sẽ phải lắng
nghe ý kiến của Hội đồng Y Đức
4. Khi công bố tên của các khoa khám chữa bệnh liên quan đến sự cho
phép theo quy định tại khoản 1 thì tên của bác sĩ hoặc nha sĩ nhận giấy
phép ủy quyền cho các khoa khám chữa bệnh đó sẽ được công bố cho
nhau.

tại khoản 7 của điều 6, ngoại trừ những vấn đề sau đây,bất kì ai cũng phải
công bố bất kì tài liệu hay phương pháp liên quan đến nghiệp vụ của bác sĩ
khoa sản hoặc nhà hộ sinh.
15
1. Hộ tá
2. Tên của người quản lý nhà hộ sinh, cũng như các thông tin khác như địa
chỉ thường trú, số điện thoại và tên của nhà hộ sinh.

3. Cho dù có thực hiện hay không việc tiến hành nghiệp vụ theo sự bổ
nhiệm hay theo thời gian.
4. Thiết bị, tại các cơ sở khác trong số các nhà hộ sinh, bác sĩ phụ sản, sức
chứa, cũng như việc có hay không
5. Việc góp phần vào sự lựa chọn chăm sóc y tế đầy đủ cho những người
được nhận sự chăm sóc tại khoản mục liên quan đến sơ yếu lí lịch, nghê
nghiệp, tuổi tác, tên chức vụ mà hộ tá làm tại hộ sinh đó do bộ trưởng bộ y
tế xác nhận.
6. Khoản mục có liên quan đến việc quản lý nhà hộ sinh về biện pháp đảm
bảo việc xử lý phù hợp thông tin cá nhân, biện pháp đảm bảo an toàn ý tế,
biện pháp liên quan đến tư vấn y tế cho bệnh nhân, gia đình.
7. Khoản mục có liên quan đến sự kết hợp nghiệp vụ của các địa điểm hộ
sinh, những tên khác của nơi khám chữa bệnh, bệnh viện hoặc là tên của y
sĩ được quy định tạm thời tại điều 19
8. Việc cung cấp các thông tin khác khi đăng kí hộ sinh tại các nhà hộ sinh
đó có liên quan đến các khoản về việc cung cấp thông tin liên quan đến
chăm sóc y tế .
9. Các khoản mục giống như các khoản mục được đưa ra do bộ trưởng y tế
quyết định
16
1. Trong trường hợp quảng cáo những việc đã được đưa ra tại các khoản
trước thì không được phép thông qua những nội dung không đúng sự thực.

2. Trường hợp quảng cáo những việc đã được đưa ra tại mục 1 thì nội dung
và phương pháp của những việc này phải phù hợp với quy định trong thông
tư của bộ lao động như những tiêu chuẩn cần thiết liên quan đến việc hộ
sinh.
Khoản 8 điều 6:
1. Người đứng đầu các tỉnh , thành phố hay thị trưởng của các thành phố có
cơ sở y tế và những người đứng đầu những khu vực đặc biệt khi xác nhận
được các quảng cáo có liên quan đến nơi hộ sinh, các phòng khám chữa
bệnh, bênh viện, hay công việc của những người hộ sinh và y tế thực hành
nha khoa, y tế thực hành có khả năng vi phạm những quy định tại các mục
và các điều khoản trước như mục 4, mục 3, mục 1 khoản 5 điều 6 thì ban
hành thông báo đối với những người làm quảng cáo, có thể tiến hành điều
tra các hiện vật, cũng như văn bản có liên quan đến quảng cáo đó,tại văn
phòng những người thực hiện quảng cáo .
2. Người đứng đầu các tỉnh , thành phố hay thị trưởng của các thành phố
có cơ sở y tế và những người đứng đầu những khu vực đặc biệt khi xác
nhận được các quảng cáo có liên quan đến nơi hộ sinh, các phòng khám
chữa bệnh, bệnh viện, hay công việc của những người hộ sinh và y tế thực
hành nha khoa, y tế thực hành có khả năng vi phạm những quy định tại
mục 3 hoặc mục 1 các điều khoản trước hay mục 4 hoặc mục 1 khoản 5
điều 6 thì có thể ra lệnh xét duyệt lại toàn bộ nội dung quảng cáo ,trì hoãn
các quảng cáo đó hoặc quy định kì hạn đối với những người thực hiện
quảng cáo.
17
3. Những nhân viên tiến hành điều tra khám xét theo quy đinh tại mục 1
phải mang theo giấy chứng minh để xuất trình khi yêu cầu những người có
liên quan.
4. Quyền hạn đã được quy định tại mục 1 không cần thiết phải giải trình
cùng với những thứ đã được xác nhận để điểu tra tội phạm
Chương 3. Đảm bảo an toàn y tế

Trên cả nước cũng như tại các tỉnh thành phố, các khu vực đặc biệt có cơ
sở y tế phải nỗ lực tiến hành các biện pháp cần thiết khác liên quan đến
việc đảm bảo y tế , cung cấp kiến thức, thực hiện tập huấn, cung cấp các
thông tin liên quan đến an toàn y tế.
Khoản 10 điều 6: Người quản lý của các bệnh viện, phòng khám, và các
trung tâm phụ sản cần phải tiến hành đào tạo đội ngũ nhân viên, coi việc
đảm bảo an toàn y tế là kim chỉ nam hành động. Ngoài ra cần phải tổ chức
các bài giảng về các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn y tế ở các bệnh viện,
phòng khám và các trung tâm phụ sản một cách thích hợp theo như quy
định của bộ lao động và phúc lợi.
Khoản 11 điều 6: Những vùng đặc khu và thành phố nơi xây dựng các
đơn vị hành chính, các trung tâm chăm sóc sức khỏe ( được gọi là đơn vị
hành chính ở điều tiếp theo và ở những phần dưới của điều 6 này), cần cố
gắng trang bị cơ sở vật chất (trung tâm hỗ trợ an toàn y tế ) thực hiện công
việc theo kế hoạch để tuyên truyền và củng cố các biện pháp đã được đề ra
trong khoản 9 điều 6.
1. Cùng với việc tổ chức gặp mặt nói chuyện và trả lời các khiếu nại từ
các bệnh nhân hay từ gia đình các bệnh nhân liên quan đến vấn đề y tế ở
các trung tâm phụ sản, các phòng khám hay ở các bệnh viện tại các khu vực
hành chính nơi họ đang sinh sống còn cần phải tổ chức tư vấn, góp ý đối
18
với các cán bộ quản lý của các bệnh viện, phòng khám, các trung tâm phụ
sản, với các bệnh nhân và gia đình họ khi cần thiết.
2. Cần tổ chức cung cấp các thông tin cần thiết liên quan đến việc đảm bảo
an toàn y tế cho tất cả người dân, các bệnh nhân và gia đình bệnh nhân, các
nhân viên cũng như cán bộ quản lý và cả những người đứng ra thành lập
các bệnh viện, phòng khám, và các trung tâm phụ sản tại các địa điểm như
các khu vực hành chính.
3. Cần thực hiện đào tạo các kĩ năng liên quan đến vấn đề an toàn y tế cho
các công nhân viên và các cán bộ quản lý ở các bệnh viện, phòng khám, và

các trung tâm phụ sản tại các địa điểm như các khu vực hành chính.
4. Ngoài 3 quy định đã được nêu ra ở trên cần tổ chức giúp đỡ khi cần thiết
để đảm bảo an toàn y tế tại các khu vực hành chính. Các đơn vị hành chính
khi thành lập các trung tâm hỗ trợ an toàn y tế theo như các quy định đã
được nêu ở trên cần phải công bố tên gọi và địa điểm xây dựng.
Các đơn vị hành chính có thể ủy thác công việc cho các trung tâm hỗ trợ an
toàn y tế hay các tập đoàn pháp nhân, các quỹ hỗ trợ pháp nhân hay đối với
các cá nhân theo quy định trong điều luật của bộ lao động và phúc lợi.
Những nhân viên tham gia nghiệp vụ tại các trung tâm hỗ trợ an toàn y
tế( những người đã nhận sự ủy thác theo như quy định ở trên, bao gồm cả
các nhân viên ) hay những người đã có thời gian làm việc ở các trung tâm
này không được phép tiết lộ bí mật biết được liên quan đến nghiệp vụ nếu
như không có lý do chính đáng.
Khoản 12 điều 6: Nhà nước cần thực hiện những viện trợ khác bên cạnh
các hướng dẫn cần thiết liên quan đến việc quản lý các trung tâm hỗ trợ an
toàn y tế, ngoài ra cũng cần tổ chức cung cấp những thông tin về an toàn y
tế đối với các đơn vị hành chính để góp phần thực hiện những mục tiêu
công việc tại các trung tâm hỗ trợ an toàn y tế.
19
ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG
BỘ MÔN TIẾNG NHẬT
BÀI TẬP THỰC HÀNH DỊCH VIẾT

Nhóm 4 (07J1)
1. Nguyễn Hồng Anh
2. Hoàng Thị Thu Phương
20
3. Đồng Bích Quỳnh
4. Vương Ngọc Tú

5. Đồng Thị Thanh Nhàn
HA NOI, 2011
CHƯƠNG 4:
XÂY DỰNG BỆNH VIỆN, PHÒNG KHÁM CHỮA BỆNH, NHÀ HỘ
SINH
Điều 7:
1. Bác sĩ đã hoàn thành chương trình đào tạo lâm sàng có ý muốn xây dựng
bệnh viện phải là những người đã đăng kí theo quy định tại khoản 1 điều 16
Luật bác sĩ (Bộ luật số 201 năm 1949) và những người đã đăng kí theo quy
định tại khoản 2 của điều trên trong trường hợp những người này có được
sự cho phép của Bộ trưởng Bộ y tế theo quy định của khoản 1 điều 7 Luật
bác sĩ ( năm 1949) . Đối với bác sĩ nha khoa đã hoàn thành chương trình
đào tạo thì phải là những người đã đăng kí theo quy định tại khoản 1 điều
16 Luật nha sĩ ( Bộ luật số 202 năm 1949) và những người đã đăng kí theo
quy định tại khoản 1 điều trên trong trường hợp những người này có sự cho
phép của Bộ trưởng Bộ y tế theo quy định của khoản 1 điều 7 Bộ luật này.

Trường hợp những người không thuộc những đối tượng nêu trên hoặc bác
sĩ phụ sản muốn mở phòng khám chữa bệnh thì phải là những người đã
đăng kí theo quy định tại khoản 3 điều 15 Luật y bác sĩ phụ sản - chăm sóc
sức khỏe ( Bộ luật số 203)đối với trường hợp là người có sự cho phép của
Bộ trưởng Bộ y tế theo quy định tại khoản 1 điều 15 bộ luật này. Quy định
này tương tự như quy định nêu tại điều 8 và điều 11 dưới đây.
21
Trường hợp những người không thuộc những đối tượng nêu trên có ý
muốn mở nhà hộ sinh thì phải được sự cho phép của tỉnh trưởng các đơn vị
địa phương nơi xây dựng ( Đối với trường hợp cơ sở khám chữa bệnh và
phòng khám phụ sản được xây dựng tại thành phố hoặc khu vực thuộc các
quận đặc biệt nơi đặt trung tâm y tế, phải xin sự cho phép của thị trưởng
hoặc quận trưởng các quận đó ). Quy định này giống quy định nêu tại điều

8, điều 9, điều 12, điều 15, điều 18, điều 24 và từ điều 27 đến điều 30.
2. Những người đã thành lập bệnh viện khi có ý định thay đổi số giường
bệnh, phân loại giường bệnh được ghi theo các số hiệu như dưới đây (sau
đây gọi là phân loại giường bệnh) hoặc các điều khoản được qui định tại
Nghị định của Bộ Y tế, hay những người không phải là bác sĩ hoặc không
phải là nha sĩ đã hoàn thành khóa nghiên cứu về chẩn đoán, điều trị đã mở
cơ sở khám chữa bệnh, hoặc những người không phải là bác sĩ phụ sản đã
mở phòng khám phụ sản, khi có ý định thay đổi số giường bệnh hoặc các
điều khoản đã qui định trong Nghị định của Bộ Y tế thì cũng loại trừ
trường hợp qui định trong Nghị định của Bộ Y tế và tiến hành theo như
điều khoản qui định ở mục trên.
2.1. Giường cho các bệnh về thần kinh (Trong các loại giường bệnh, đây là
loại giường dành cho những người nhập viện vì các căn bệnh liên quan đến
thần kinh. Dưới đây gọi là giường cho các bệnh về thần kinh).
2.2. Giường cho các bệnh truyền nhiễm (Trong các loại giường bệnh, đây
là loại giường nằm dành cho bệnh nhân mắc bệnh truyền nhiễm loại 1 theo
qui định tại khoản 2 điều 6 của Luật liên quan đến điều trị đối với các bệnh
nhân mắc bệnh truyền nhiễm và công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm
(Luật số 114 ra năm 1998), các bệnh nhân mắc bệnh truyền nhiễm loại 2
theo qui định tại khoản 3 điều 6 cùng Luật (trừ bệnh lao), bệnh cúm A theo
qui định tại khoản 7 cùng điều, bệnh nhân mắc các bệnh truyền nhiễm khác
được qui định tại khoản 8 cùng điều (giới hạn những điều áp dụng qui định
của điều 20 hoặc điều 19 và dựa theo qui định của điều 7 cùng luật), (bao
gồm cả trường hợp áp dụng theo điều 7 hoặc điều 8 cùng luật) , ngoài ra
22
còn bao gồm cả những người được coi là bệnh nhân mắc các bệnh truyền
nhiễm loại 1, loại 2, cúm A, hoặc các bệnh truyền nhiễm khác đã được qui
định theo pháp luật) cũng như những người nhập viện khi có các triệu
chứng của bệnh truyền nhiễm theo qui định của khoản 9 điều 6)( Dưới đây
gọi giống như vậy).

2.3. Giường bệnh lao (trong các giường của bệnh viện đây là giường dành
cho bệnh nhân lao nhập viện, tương tự ở dưới).
2.4.Giường bệnh điều dưỡng (trong số các giường tại bệnh viện hoặc cơ sở
khám chữa bệnh, đây là giường ngoài các giường treo số trước số 3, tương
tự ở dưới).
2.5. Giường bệnh chung (trong số các giường tại bệnh viện hay cơ sở khám
chữa bệnh, đây là giường ngoài các giường được treo số kể trên).
Điều 8:  
Các bác sĩ đã kết thúc khóa học lâm sàng, bác sĩ nha khoa kết thúc khóa
học lâm sàng hay bác sĩ phụ sản khi mở cơ sở khám chữa bệnh hay phòng
khám phụ sản phải xin phép chủ tịch huyện, tỉnh sở tại trong vòng 10 ngày
kể từ sau ngày mở.
Điều 8.2:
1. Những người mở bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh hay phòng khám phụ
sản không có lý do chính đáng phải dừng hoạt động trong vòng 1 năm.
Nhưng nếu người mở cơ sở khám chữa bệnh hay nhà hộ sinh có thông báo
đúng theo quy định tại các điều khoản trên, sẽ không có thời gian hạn chế.
23
2. Khi dừng hoạt động các bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh hay phòng
khám phụ sản, người mở các cơ sở này phải thông báo cho chủ tịch huyện,
tỉnh trong vòng 10 ngày. Khi mở lại bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh hay
phòng khám phụ sản đã ngừng hoạt động cũng phải làm tương tự.
Điều 9:
1. Trong trường hợp người sáng lập tiến hành ngừng hoạt động các bệnh
viện, cơ sở khám chữa bệnh hoặc phòng khám phụ sản thì trong vòng 10
ngày phải trình báo cáo cho người đứng đầu tỉnh, thành phố nơi sở tại.

2. Trong trường hợp người sáng lập bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh,
phòng khám phụ sản đã chết hoặc mất tích, người có trách nhiệm khai báo
về việc chết hoặc mất tích theo quy định của luật hộ tịch, hộ khẩu (Luật hộ

tịch, hộ khẩu số 224 năm 1947) phải trình báo cáo sự việc cho người đứng
đầu tỉnh, thành phố nơi sở tại.
Phần 2: Quản lý
Điều 10:
1. Người sáng lập các bệnh viện hoặc cơ sở khám chữa bệnh phải trao
quyền quản lý cho bác sỹ đã hoàn thành các khóa chuyên tu lâm sàng trong
trường hợp cơ sở đó hành nghề khám chữa bệnh; hoặc trao quyền quản lý
cho nha sỹ đã hoàn thành các khóa chuyên tu lâm sàng trong trường hợp cơ
sở đó hành nghề nha khoa
2. Trong trường hợp bệnh viện hoặc cơ sở khám chữa bệnh kết hợp cả
khám chữa bệnh và nha khoa, người sáng lập phải trao quyền quản lý cho
bác sỹ đã hoàn thành các khóa chuyên tu lâm sàng nếu cơ sở đó chủ yếu
hành nghề khám chữa bệnh; hoặc trao quyền quản lý cho nha sỹ nếu cơ sở
đó chủ yếu khám chữa nha khoa.
24
Điều 11:
Người sáng lập phòng khám phụ sản phải trao quyền quản lý cho bác sỹ
sản khoa.
Điều 12:
1. Trong trường hợp người xây dựng lên phòng khám phụ sản, cơ sở khám
chữa bệnh hay bệnh viện có thể trở thành người quản lý những cơ sở nêu
trên thì chính mình phải quản lý những cơ sở đó. Nhưng nếu nhận được sự
cho phép của tỉnh trưởng của các tỉnh thành nơi xây dựng các cơ sở trên
thì cũng có thể trở thành người quản lý của phòng khám phụ sản, cơ sở
khám chữa bệnh, bệnh viện tại các tỉnh thành đó.
2. Các bác sĩ làm quản lý tại phòng khám phụ sản, cơ sở khám chữa bệnh,
bệnh viện như bác sĩ sản khoa hay bác sĩ nha khoa ngoại trừ các trường hợp
được sự đồng ý của tỉnh trưởng của các tỉnh thành nơi đặt cơ sở ra thì đều
không được phép quản lý các cơ sở đó.
Điều 12.2:

1. Khi muốn thành lập bệnh viện hỗ trợ y tế địa phương, theo Thông tư bộ
y tế và lao động Nhật Bản quy định, người thành lập phải nộp báo cáo về
tài chính cho tỉnh trưởng tại tỉnh thành nơi sẽ xây dựng cơ sở.
2. Theo Thông tư bộ y tế và lao động Nhật Bản đã quy định, tỉnh trưởng
phải công khai nội dung của bản báo cáo đó.
Điều 12.3:
25

×