Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC CHO HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.92 KB, 36 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH- NGÂN HÀNG
BÀI TIỂU LUẬN
GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC CHO HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
VIỆT NAM HIỆN NAY
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
LỚP : K09404A
NHÓM: 19

TP. HỒ CHÍ MINH, Năm 2013
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
2
DANH SÁCH NHÓM:
Họ và tên sinh viên MSSV
1.Phạm Thu Hà K094040536
2.Nguyễn Thị Thùy Dương K094040531
3.Nguyễn Thị Phương Dung K094040528
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
3
MỤC LỤC
DANH SÁCH NHÓM: 2
Họ và tên sinh viên MSSV 2
1.Phạm Thu Hà K094040536 2
2.Nguyễn Thị Thùy Dương K094040531 2
3.Nguyễn Thị Phương Dung K094040528 2
MỤC LỤC 3
Chương 1 4
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁI CẤU TRÚC NGÂN HÀNG 4
Chương 2 8


THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY 8
Chương 3 24
GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 36
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁI CẤU TRÚC NGÂN HÀNG
1.1. Khái niệm về tái cấu trúc ngân hàng thương mại
Với bất kỳ một quốc gia nào, hoạt động của hệ thống ngân hàng luôn là huyết
mạch của nền kinh tế và sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng giữ vai trò trọng
yếu trong việc ổn định và phát triển của nền kinh tế. Ở Việt Nam, trong giai đoạn 2001-
2010, sự phát triển của nền kinh tế có tác động sâu rộng đến sự phát triển của hệ thống
ngân hàng. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh, đặc biệt là ứng dụng khoa học công nghệ hiện
đại đã thúc đẩy hệ thống ngân hàng phát triển nhanh cả về qui mô và chất lượng dịch vụ.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh đó, hệ thống ngân hàng đang tiềm ẩn nhiều yếu
kém và rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản cao; tính ổn định, hiệu quả hoạt động
và khả năng cạnh tranh chưa cao; năng lực quản trị còn nhiều bất cập. Ngoài ra, nhóm
lợi ích và sở hữu chéo giữa các ngân hàng lớn làm cho tính lệ thuộc lẫn nhau và rủi ro hệ
thống cao. Do vậy, nếu những rủi ro và yếu kém này không được xử lý kịp thời sẽ tác
động xấu đến ổn định kinh vĩ mô và hệ thống tài chính quốc gia. Vì vậy, việc tái cấu trúc
hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính là cấp thiết để tránh sự đổ vỡ của hệ thống
ngân hàng và sự đổ vỡ của nền kinh tế.
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính là một trong những nội
dung của tái cấu trúc của nền kinh tế. Theo Claessens (1998), tái cấu trúc ngân hàng là
hướng tới việc sắp xếp, nâng cao khả năng quản trị điều hành của ngân hàng thương mại
(NHTM) để đảm bảo an toàn hệ thống và hình thành hệ thống các NHTM có sức mạnh
tài chính thực sự, khả năng quản lý, kiểm soát rủi ro, quản trị tốt. Tái cấu trúc ngân hàng
cũng thường được tiến hành khi có bằng chứng về một hoặc nhiều ngân hàng mất khả
năng thanh toán đến hơn 20% tổng tiền gửi toàn hệ thống ngân hàng và cần phải có một

gói giải pháp liên quan đến thể chế và luật pháp để xử lý các ngân hàng yếu kém và đưa
hệ thống ngân hàng trở về trạng thái lành mạnh bền vững (Waxman, 1998). Theo Ðinh
Tuấn Minh (2012), khác với việc xử lý một ngân hàng yếu kém trong thời kỳ bình
thường, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đòi hỏi một kế hoạch đồng bộ và dài hạn, bao
gồm trình tự xử lý cũng như xây dựng các kịch bản dự phòng cho các tình huống xấu
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
5
nhất, để sao cho trong quá trình tái cấu trúc, hoạt động thanh toán và hoạt động tín dụng
của hệ thống không bị ảnh hưởng.
1.2. Tại sao phải tái cấu trúc ngân hàng thương mại
QĐND - Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa XI khẳng định một trong ba trọng tâm
tái cấu trúc kinh tế là cơ cấu lại hệ thống tài chính, trong đó trọng tâm là cơ cấu lại hệ
thống ngân hàng của Việt Nam. Vấn đề đặt ra là tại sao phải cơ cấu lại hệ thống ngân
hàng và chúng ta sẽ cơ cấu lại hệ thống ngân hàng như thế nào?
Hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) của Việt Nam đã phát triển rất mạnh kể từ đầu
thập niên 90 thế kỷ XX đến nay và đã có những đóng góp rất lớn vào sự phát triển của
đất nước với tổng tài sản gấp hơn 2 lần so với GDP, trong đó, tổng vốn tín dụng cho nền
kinh tế đã tăng rất nhanh và lên đến 125% GDP vào cuối năm 2010. Hệ thống các TCTD
nói chung, hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng đã đẩy mạnh hoạt
động huy động vốn với tổng tiền gửi lên tới trên 100% GDP và trở thành nguồn cung
ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, cả cung ứng vốn ngắn hạn, cũng như vốn trung và dài
hạn, cả vốn bằng đồng Việt Nam (VND) cũng như vốn bằng ngoại tệ. Một số NHTM và
tổ chức tín dụng lớn đã vươn lên thành tập đoàn tài chính với quy mô vốn điều lệ tương
đương hàng trăm triệu USD, hoạt động đầu tư trong nhiều lĩnh vực như chứng khoán, bất
động sản, bảo hiểm, vàng và ngoại tệ, cho thuê tài chính,… thông qua hệ thống hàng
trăm chi nhánh, sử dụng hàng vạn lao động, thành lập nhiều công ty con,… đạt lợi nhuận
mỗi năm tới hàng nghìn tỷ VND, kể cả khi nền kinh tế gặp khó khăn như những năm
2009 hay năm 2011.
Tuy nhiên, chính sự “bùng nổ” hoạt động cả về quy mô và mức độ đa dạng của hệ thống
ngân hàng trong thời gian ngắn vừa qua đã tiềm ẩn những rủi ro và nguy cơ lớn tác động

trực tiếp đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng thương mại. Đó là nguyên
nhân quan trọng nhất buộc Việt Nam phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nói riêng, cơ
cấu lại hệ thống tài chính nói chung nhằm ngăn chặn rủi ro hệ thống trước khi sự đổ vỡ
của một tổ chức tài chính có thể kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống như bài học từ các
cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính quốc tế đã chỉ ra.
Hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng rất nhiều rủi ro và khi những rủi ro đó tích tụ,
trở nên quá lớn do tác động của các yếu tố bên ngoài như bất ổn kinh tế vĩ mô, khủng
hoảng kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản lao dốc hay do
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
6
các yếu tố bên trong như quản trị rủi ro bất cập, quy trình tín dụng không hoàn chỉnh,
đầu tư mạo hiểm, trình độ năng lực và đạo đức của đội ngũ không đáp ứng yêu cầu… thì
ngân hàng sẽ không thể tránh khỏi đổ vỡ nếu không được cơ cấu lại, cả cơ cấu lại từng
ngân hàng cũng như cơ cấu lại cả hệ thống ngân hàng.
1.3. Đối tượng tái cấu trúc
- Xét theo nghĩa rộng: tái cấu trúc toàn bộ hệ thống ngân hàng: Ngân hàng Trung ương,
các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, …
- Xét theo nghĩa hẹp: tái cấu trúc từng cấu phần riêng biệt kể trên hoặc từng ngân hàng
đơn lẻ nhưng có vị trí quan trọng trong hệ thống ngân hàng.
1.4. Phương pháp tái cấu trúc
- Điều chỉnh hoặc xây dựng khuôn khổ pháp luật (Luật phá sản, luật về mua bát và sáp
nhập, quy định về giải quyết tranh chấp…), và các cơ chế, chính sách cho điều tiết (Bảo
hiểm tiền gửi, trích lập dự phòng, quy định vốn tối thiểu, chuẩn mực kế toán phù hợp với
tiêu chuẩn quốc tế…) giám sát và đánh giá theo chuẩn mực quốc tế.
- Thành lập cơ quan chuyên trách thực hiện quá trình tái cấu trúc.
- Tái cấp vốn (Chính phủ bơm vốn hoặc mua cổ phiếu để nắm giữ quyền quản lý, sáp
nhập các ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài hoặc các ngân hàng trong
nước với nhau, thay đổi cơ cấu sở hữu…)
- Xử lý nợ khó đòi hay nợ không hiệu quả.
- Xử lý nợ doanh nghiệp (thông qua công ty mua bán nợ).

- Đổi mới quản trị, công nghệ và nhân lực.
1.5. Những khó khăn và rủi ro của việc tái cấu trúc
Một là, rủi ro kéo dài, không dứt điểm do thiếu cơ sở luật pháp, khoa học (cơ sở
dữ liệu… ) và năng lực thể chế cho việc tái cấu trúc hệ thống ( ví dụ cơ chế xử lý tài
sản).
Hai là, rủi ro lệ thuộc vào ngân hàng nước ngoài do tỷ lệ các ngân hàng ở trong
tình trạng thiếu thanh khoản và có tài sản xấu chiếm tỷ trọng lớn; số lượng ngân hàng
hoạt động hiệu quả để có khả năng mua lại, thâu tóm ít hơn nhiều so với số lượng các
ngân hàng yếu kém. Vấn đề an tinh tài chính – tiền tệ quốc gia.
Ba là, rủi ro mất niềm tin đối với hệ thống ngân hàng do những ngân hàng thuộc
sở hữu nhà nước có thể có cơ chế bảo lãnh ngầm đối với người gửi tiền. Trong khi đó,
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
7
các ngân hàng tư nhân không được đảm bảo có thể khiến luồng tiền ồ ạt rút khỏi các
ngân hàng này. Hoặc việc chính phủ đóng cửa một số ngân hàng có thể tạo ra sự nghi
ngờ về sự lành mạnh của các ngân hàng khác trong hệ thống.
Bốn là, khó khăn do những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình tái cấu trúc. Đó là
những mâu thuẫn liên quan đến lợi ích của người gửi tiền, lợi ích của các nhóm cổ đông
khác nhau, lợi ích của các nhóm ngân hàng khác nhau, lợi ích của người vay,
Năm là, khó khăn do những chi phí phát sinh trong quá trình tái cấu trúc và khả
năng chịu đựng của nền kinh tế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy chi phí cho quá trình tái
cấu trúc có thể lên tới 20% - 50% GDP nếu tái cấu trúc diễn ra sau khủng hoảng (20%
GDP ở Hàn Quốc, hơn 30% GDP ở Thái Lan và hơn 50% GDP ở Indonesia)
(Paul M. Dickie, Strenghening East Asian Financial Systems. Asian Studies Institute Wor
king Paper10).
Sáu là, rủi ro “Quá lớn để có thể sụp đổ” do một số ngân hàng sẽ trở nên quá lớn
hay quá quan trọng sau tái cấu trúc.
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
8
Chương 2

THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Sơ lược về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay
Đối với bất cứ quốc gia nào, hoạt động ngân hàng (NH) luôn là huyết mạch của
nền kinh tế, sự ổn định và lành mạnh của hệ thống ngân hàng giữ vai trò trọng yếu trong
việc ổn định và phát triển nền kinh tế đất nước. Ngân hàng huy động tiền nhàn rỗi trong
xã hội để đáp ứng vốn cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của xã hội. Vì vậy, để đảm
bảo ổn định và lành mạnh hệ thống ngân hàng thì hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu
dùng của xã hội (trong đó có chi tiêu của Chính phủ và tiêu dùng của cá nhân và doanh
nghiệp) cũng phải được lành mạnh hóa. Người vay tiền sử dụng đồng vốn không hiệu
quả, những khó khăn đó cũng sẽ đổ dồn gánh nặng cho ngân hàng. Chính vì vậy, tái cấu
trúc ngân hàng đạt hiệu quả phải gắn liền với tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế, trong đó
đặc biệt quan tâm tái cấu trúc đầu tư công và tái cấu trúc doanh nghiệp.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu gần đây nhất (2007-
2009) xuất phát từ việc cho vay “dưới chuẩn” của các NH, đặc biệt là ở Mỹ, buộc các
quốc gia phải quan tâm, đánh giá lại toàn bộ hoạt động của các NH. Việc tái cấu trúc NH
trở nên phổ biến và cấp thiết ở mỗi quốc gia, đảm bảo cho các NH thích nghi được với
nhu cầu phát triển mới trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đầy biến động. Ở Việt Nam,
khi mà thị trường chứng khoán chưa phát triển, gánh nặng về vốn còn dồn lên vai NH,
thì việc giữ cho hệ thống NH ổn định và lành mạnh càng phải đặc biệt quan tâm.
Có thể nói, nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng Việt Nam đã cơ bản vượt
qua cơn khủng hoảng 2007-2009. Tuy nhiên, trước những biến động phức tạp thời gian
gần đây của nền kinh tế thế giới, để ôn định và phát triển nền kinh tế hiệu quả và bền
vững, Đảng và Nhà nước ta đã ra Nghị quyết tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó tái cấu
trúc NH, tái cấu trúc đầu tư công và tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước là 3 trụ cột
trong tiến trình tái cấu trúc nền kinh tế.
Cho đến nay, chúng ta đã có 5 NHTM Nhà nước (mặc dù một số NH đã được Cổ
phần nhưng Nhà nước chiếm giữ cổ phần chi phối), 1 NH Chính sách xã hội, 1 nh phát
triển, 37 NHTMCP, 48 chi nhánh NH nước ngoài, 5 NH liên doanh, 5 NH 100% vốn
nước ngoài, 48 văn phòng đại diện NH nước ngoài, 17 công ty tài chính, 13 công ty cho
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề

9
thuê tài chính, 1 QTDTW với 24 chi nhánh và hơn 1000 QTDND cơ sở. Có thể nói, Việt
Nam đã đa dạng hóa hình thức sở hữu và loại hình hoạt động NH, phát triển mạnh mẽ về
quy mô, tạo điều kiện cho hệ thống NH huy động vốn trong và ngoài nước để đáp úng
vốn cho phát triển nền kinh tế. Năm năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng tín dụng trung
bình khoảng 33% năm, so với thế giới thì tốc độ này là cao, nguyên nhân là do thị trường
chứng khoán của Việt Nam chưa phát triển, nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh và
tiêu dùng chủ yếu dựa vào NH. Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của
Chính phủ về những giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an
sinh xã hội, ngành NH phải đảm bảo tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 xuống dưới
20%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 15-16%; tăng tỷ trọng cho vay nông
nghiệp, nông thôn, sản xuất kinh doanh, xuất khẩu; giảm cho vay BĐS, chứng khoán. Từ
đó đến nay, ngành NH cơ bản đã thực hiện tốt các yêu cầu của Chính phủ đặt ra; lạm
phát đã được kiểm soát. Tuy nhiên, hệ thống NH đã bộc lộ những bất cập cần được tái cơ
cấu để đáp ứng yêu cầu phát triển mới.
Tại phần trả lời chất vấn của các đại biểu quốc hội Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa
XIII, Thống đốc NHNN cũng đã khẳng định: Việc tái cấu trúc hệ thống NH là việc
làm bình thường và thường xuyên của NH, đảm bảo cho hệ thống NH lành mạnh, hiệu
quả, ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo cạnh tranh trong môi trường đầy
biến động của thế giới, đảm bảo cho hệ thống NH đáp ứng đủ vốn cho phát triển kinh tế
- xã hội, tạo điều kiện cho mọi người dân cả ở vùng sâu, vùng xa đều được tiếp cận với
dịch vụ NH, tạo ra một hệ thống NH đa dạng về loại hình, về sở hữu, về quy mô, trong
đó có những NH có đủ tiềm lực để cạnh tranh với các NH trong khu vực và trên thế giới,
làm trụ cột cho các NH trong nước. Đồng thời cũng có những NH nhỏ nhưng lành mạnh
hoạt động trong các phân khúc thị trường khác nhau. Dự kiến sau 5 năm tái cấu trúc, hệ
thống NH Việt Nam sẽ có khoảng 2 NH có đủ sức cạnh tranh với các NH trong khu vực,
có khoảng 10-15 NH đủ lớn làm trụ cột cho các NH trong nước, khoảng 8 NH nhỏ hoạt
động lành mạnh với quy mô phù hợp. Để tái cấu trúc, NHNN sẽ phân loại các NH thành
3 nhóm: Nhóm thứ 1, gồm các NH có tình hình tài chính lành mạnh có năng lực và quy
mô đủ lớn để tiếp tục phát triển thành những NH trụ cột, đủ sức cạnh tranh với khu vực

và quốc tế. Dự kiến sẽ có khoảng 15 NH loại này chiếm khoảng 80% thị phần hoạt động
của cả hệ thống NH. Nhóm thứ 2, là nhóm các NH có tình hình tài chính lành mạnh
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
10
nhưng có quy mô nhỏ, không có nhu cầu hoặc không có điều kiện phát triển quy mô cao
hơn nữa. Sẽ có quy định đảm bảo giám sát chặt chẽ cũng như phân khúc thị trường để
đảm bảo cho các NH này hoạt động hiệu quả. Nhóm 3, là nhóm NH đang có tình hình tài
chính khó khăn cần phải cầu trúc lại. NHNN sẽ tham gia giám sát chặt chẽ, yêu cầu các
NH lớn sẽ tham gia mua cổ phần, tham gia vào quản trị điều hành và cơ cấu lại các
khoản mục đầu tư; mua lại hoặc hợp nhất, sáp nhập nếu cần.
Phương châm của quá trình tái cơ cấu là không để NH nào đổ vỡ, đảm bảo quyền
lợi của người gửi tiền và khách hàng của NH. Đây cũng là nguyên tắc được Chính phủ
đảm bảo trong quá trình tái cơ cấu các NH.
Kinh nghiệm các nước sau khủng hoảng tài chính (2007-2009), nhiều quốc gia áp
dụng tiêu chuẩn Basel làm tiêu chuẩn mang tính bắt buộc cho hoạt động của mỗi NH. Hệ
thống tiêu chuẩn Basel III có thể đảm bảo cho sự cân đối giữa tài sản có và các nghĩa vụ
trả nợ của mỗi NH, đảm bảo thanh khoản ngay cả khi rút vốn ồ ạt. Tuy nhiên, không
phải quốc gia nào áp dụng cũng thành công mỹ mãn, việc thành công còn phụ thuộc vào
tình hình thực tế của sự phát triển NH của mỗi nước. Ở những nước áp dụng thành công,
do chú trọng đến những tiều chí cơ bản: Tỷ lệ an toàn vốn (thường là 8% theo quy định
của Basel), tỷ lệ này đã được đúc rút từ kinh nghiệm quản trị NH từ nhiều năm, nó đảm
bảo cho NH hoạt động bình thường. Đảm bảo tính thanh khoản, nghĩa là luôn phải đảm
bảo một khoản dự phòng đảm bảo cho các khoản phải thanh toán ngay. Tăng cường quản
trị và giám sát hoạt động NH từ mỗi NH cũng như toàn hệ thống, đảm bảo hoạt động của
mỗi NH luôn trong tầm kiểm soát của các cơ quan quản lý. Minh bạch hóa thông tin
công khai các thông tin cơ bản về hoạt động của mỗi NH, để không chỉ cơ quan quản lý
biết mà toàn thể người dân đều biết và tham gia quản lý hoạt động NH. Việc đánh giá,
xếp hạng của các tổ chức chuyên nghiệp có uy tín và công khai, việc đánh giá xếp hạng
cũng có tác động tích cực buộc các NH phải đẩy mạnh mọi hoạt động NH theo chuẩn
mực để giữ uy tín, đảm bảo an toàn, hiệu quả.

Điều đầu tiên cần quan tâm trong tái cơ cấu NH là phải có 1 bộ tiêu chuẩn để
phân loại các NH. Có thể lấy hệ thống các chỉ tiêu của Basel và một số tiêu chí có tính
thực tế của nước sở tại phân làm 3 loại: Loại hoạt động bình thường; loại hoạt động kém
bình thường cần có cơ chế hỗ trợ (có điều kiện) để hoạt động trở lại bình thường; loại
hoạt động không bình thường để có thể khuyến khích tự nguyện sáp nhập, hợp nhất hoặc
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
11
cưỡng chế sáp nhập, hợp nhất, thậm chí cho đóng cửa. Ở nhiều quốc gia, Chính phủ trao
quyền cho NHTW, cơ quản bảo hiểm tiền gửi, cơ quan giám sát NH tham gia giám sát
chặt chẽ các NH yếu kém, có thể thành lập một tổ giám sát trực tiếp các hoạt động của
NH này, lên phương án tái cấp vốn cũng như mua lại các khoản nợ để tái cấu trúc lại các
khoản mục đầu tư của mỗi NH. Đồng thời, yêu cầu các NH lớn hoạt động bình thường
tham gia vào quá trình tái cấu trúc các khoản đầu tư, thậm chí mua lại những khoản nợ
của NH yếu kém. Cũng có một số nước, tổ giám sát có quyền can thiệp sâu vào việc sắp
xếp lại mô hình hoạt động, có thể yêu cầu cắt giảm chi nhánh, thay đổi lãnh đạo quản lý
điều hành để đảm bảo sau khi tái cấu trúc NH đó có quy mô hoạt động phù hợp, đội ngũ
lãnh đạo điều hành có năng lực và phẩm chất đảm bảo điều hành hiệu quả hoạt động NH.
Trong trường hợp cần thiết cũng có thể bán bớt cổ phiếu cho NH mạnh trong nước hoặc
NH nước ngoài.
Trong quá trình tái cấu trúc, việc sửa đổi các quy định để nâng cao các tỷ lệ an
toàn cũng phải được coi trọng. Việc chọn mô hình hoạt động, quy mô hoạt động và cấu
trúc lại các khoản mục đầu tư cho mỗi NH có ý nghĩa quan trọng, ưu tiên tăng tỷ trọng
đầu tư vào lĩnh vực ít rủi ro; giảm tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao như bất
động sản, chứng khoán; mở rộng các dịch vụ mới. Chỉ khi các NH được tái cấu trúc đi
vào hoạt động ổn định, Nhà nước (tổ giám sát trực tiếp) mới có thể trao quyền tự điều
hành hoạt động NH và rút dần vốn hỗ trợ của Nhà nước.
Việc tái cấu trúc đầu tư công cũng vô cùng quan trọng. Chính phủ phải đảm bảo
rằng các khoản đầu tư công có hiệu quả thiết thực cả trước mắt và lâu dài, không dàn
trải, tránh lãng phí và tham nhũng. Việc tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước cũng đòi
hỏi cấp bách, thúc đẩy nhanh cổ phần hóa, công khai minh bạch thông tin về hoạt động

của DNNN, đảm bảo hoạt động hiệu quả.
Trong thế giới đầy biến động hiện nay, mỗi quốc gia có cách thức tái cấu trúc nền
kinh tế khác nhau. Việt Nam cần phải có những nghiên cứu, đánh giá kỹ để có biện pháp
phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước. Sự phát triển của hệ thống NH không
chỉ chịu tác động từ bên ngoài mà còn chịu sự chi phối của các yếu tố lịch sử, văn hóa-xã
hội, trình độ dân trí, trình độ quản lý. Tái cấu trúc NH phải gắn liền với tái cấu trúc tổng
thể nền kinh tế, tái cấu trúc đầu tư công, tái cấu trúc doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp Nhà nước, nâng cao chất lượng quản trị và hệ thống giám sát, nâng cao khả năng
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
12
dự báo… một cách đồng bộ thì mới có kết quả cao. Những động thái của Chính phủ và
NHNN vừa qua cho thấy Việt Nam đang đi đúng hướng, hy vọng công cuộc tái cấu trúc
nền kinh tế và NH sẽ đạt kết quả như mong muốn.
Một số ví dụ về sáp nhập và hợp nhất ngân hàng thành công ở Việt Nam:
* Hợp nhất 3 ngân hàng SCB, Ficombank và NH Việt Nam Tín Nghĩa: Ngày
01/01/2012, Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn (Ngân hàng hợp nhất) chính thức
đi vào hoạt động sau khi hợp nhất từ 3 ngân hàng: Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài
Gòn (SCB), Ngân hàng Đệ nhất (Ficombank) và Ngân hàng Việt Nam Tín nghĩa. Trước
khi hợp nhất, ba ngân hàng nói trên lâm vào tình trạng mất khả năng thanh khoản trầm
trọng. Nguyên nhân chủ yếu do họ sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn
(chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản), gặp khi thị trường biến động, nhất là khi nguồn vốn
huy động ngắn hạn không còn dồi dào như trước nên rủi ro thanh khoản xảy ra. Trước
tình hình này, hội đồng quản trị của ba ngân hàng đã tự nguyện sáp nhập với nhau thành
một ngân hàng dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV),
và cần tới sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước thông qua khoản vay tái cấp vốn. Tổng số
vốn hỗ trợ liên ngân hàng của BIDV cho ba nhà băng (tính đến tháng 12/2012) là trên
2.400 tỷ đồng (trên tổng số tài sản được ba nhà băng đem ra đảm bảo là 30.000 tỷ đồng).
Ngân hàng hợp nhất có vốn điều lệ 10.000 tỷ đồng, tổng tài sản là 150.000 tỉ đồng, và có
hơn 200 chi nhánh, phòng giao dịch. Theo thỏa thuận hợp tác chiến lược toàn diện BIDV
ký với 3 ngân hàng được hợp nhất, các bên tiến hành hợp tác trong các lĩnh vực: quản

trị, điều hành, kiểm soát, nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ, tín dụng, tài trợ thương mại,
thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế,… BIDV sẽ cấp cho FicomBank,
TinNghiaBank và SCB hạn mức chung về nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ, ngân hàng
hợp nhất sẽ kế thừa hạn mức đó nhằm hỗ trợ chi trả cho người gửi tiền. Lộ trình hợp
nhất được thiết kế trong đề án hợp nhất của ba ngân hàng và kéo dài trong ba năm, trong
đó, năm đầu tiên tập trung xử lý nợ. Trong khoảng thời gian này, số tiền hỗ trợ từ BIDV
cho ba ngân hàng hợp nhất đều là tiền vay mượn dưới dạng thế chấp bằng tài sản đảm
bảm.
Theo Ngân hàng Nhà nước, sau 1 năm tái cơ cấu, SCB đã được những tiến triển tích cực,
cải thiện đáng kể tình trạng thanh khoản, năng lực tài chính thông qua các giải pháp tăng
vốn điều lệ, gọi vốn của nhà đầu tư nước ngoài, củng cố giá trị tài sản đảm bảo, đẩy
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
13
mạnh xử lý nợ và huy động vốn từ nền kinh tế của SCB tăng 35,9% trong năm 2012 và
tăng 7% trong 2 tháng đầu năm 2013. Nhờ vậy, SCB đã bảo đảm an toàn tài sản của Nhà
nước, chi trả bình thường các đối với các khoản tiền gửi của dân chúng và thanh toán
được hầu hết các khoản nợ vay tái cấp vốn của NHNN. Hiện tại, dưới sự giám sát chặt
chẽ của NHNN, SCB đang đẩy mạnh triển khai các giải pháp cơ cấu lại tổng thể, bao
gồm cả cơ cấu lại các khoản tiền vay/tiền gửi của các TCTD và tổ chức tài chính nhận ủy
thác của TCTD theo kế hoạch tái cơ cấu giai đoạn 2013-2014 và Phương án cơ cấu lại
nợ thị trường 2 (thị trường liên NH) đã được NHNN phê duyệt.
* Sáp nhập Habubank vào SHB: Ngày 28/8/2012, Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà
Hà Nội (Habubank) chính thức sáp nhập vào ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn –
Hà Nội (SHB). Với Habubank, các khoản cho vay và đầu tư trái phiếu gắn với Tập đoàn
Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) được xác định là gánh nặng lớn nhất dẫn
đến những khó khăn phải tính đến sáp nhập. Tỷ lệ nợ xấu của Habubank trước khi sáp
nhập là 23,66% (tương đương 3.729 tỷ đồng). Ngân hàng SHB sau khi sáp nhập
Habubank sẽ có tổng tài sản gần 120.000 tỷ đồng (tương đương với quy mô của các nhà
băng trong khối G14). Tổng vốn điều lệ sẽ gần 9.000 tỷ đồng. Sau sáp nhập, tổng số
nhân viên của SHB sẽ đạt gần 5.000 người, bằng nhân viên của hai nhà băng cũ gộp lại.

SHB sẽ tiếp quản 90 điểm giao dịch, chi nhánh, quỹ tiết kiệm của Habubank. Sau khi sáp
nhập, ngân hàng SHB mới sẽ có hệ số an toàn vốn CAR là 11,39%, đạt tiêu chuẩn quốc
tế (CAR của Habubank trước đây chỉ hơn 4%).
Theo báo cáo kết quả kinh doanh 2012, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà
Nội lãi 1.000 tỷ đồng trong quý IV giúp giảm số lỗ cả năm xuống còn 95 tỷ đồng. Nếu
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
14
tính cả khoản lợi nhuận còn để lại của năm trước (122 tỷ đồng), nhà băng này vẫn lãi lũy
kế 27 tỷ đồng. Năm 2011, khi chưa sáp nhập với Habubank, SHB lãi sau thuế hơn 1.000
tỷ đồng. So với năm 2011, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh (trước khi trừ chi
phí dự phòng rủi ro) của SHB giảm 59% khi chỉ đạt 460 tỷ đồng. Một trong những
nguyên nhân khiến lợi nhuận của SHB đảo chiều so với năm 2011 là do chi phí hoạt
động của năm 2012 lên tới 2.309 tỷ đồng (gấp 2 lần của năm 2011), chi phí dự phòng rủi
ro tín dụng cũng tăng gấp 5 lần. Dư nợ cho vay đến hết ngày 31/12/2012 đạt gần 55.562
tỷ đồng, tăng trưởng tới 95%. Tuy nhiên, SHB phải trích lập DPRR cho vay khách hàng
tới 1.251 tỷ đồng. Lượng tiền gửi của khách hàng tính đến cuối năm 2012 của SHB đạt
77.598 tỷ đồng, tăng tới 120% so với năm 2011. Sau khi sáp nhập Habubank, SHB phải
gánh thêm những khoản lỗ và nợ xấu. Theo báo cáo tài chính của SHB, tính đến
31/12/2012, nợ xấu của SHB còn khoảng 4.847 tỷ đồng (tương đương 8,5% tổng dư nợ).
*Ngân hàng Đại Tín -TrustBank: Vào trung tuần tháng 9/2012, NHNN đã có văn bản
chấp thuận về nguyên tắc cho Trust Bank triển khai phương án tái cơ cấu. Theo tiến trình
này, TrustBank tập trung sử dụng nguồn lực từ các tập đoàn, tổ chức, cá thể kinh tế tư
nhân trong nước để tái cơ cấu, mà không sử dụng vốn ngân sách. Hiện ngân hàng này
đang gọi vốn từ cổ đông chiến lược trong nước với tỷ lệ cổ phần chi phối tương đối lớn,
nhằm xử lý thanh khoản và cải thiện công tác quản trị rủi ro khi có sự tham gia của nhân
tố mới. Trong ngắn hạn, TrustBank tiếp tục phát triển các sản phẩm dịch vụ tài chính
ngân hàng truyền thống, phát huy vai trò ngân hàng “tam nông” tại khu vực trọng điểm
ĐBSCL, dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại các trung tâm kinh tế và bước đầu triển khai nhóm
sản phẩm, các dịch vụ phục vụ ngành vật liệu xây dựng, nhà ở bình dân. Sau khi hoàn
thành tiến trình tái cơ cấu, hoạt động của TrustBank sẽ đảm bảo an toàn, lành mạnh và

hiệu quả.
* Ngân hàng Phương Tây (Western Bank) hợp nhất với PVFC: Western Bank, tiền
thân là một ngân hàng từ nông thôn với vốn điều lệ ban đầu chỉ 320 tỷ đồng, đến 2011
thì lên đến 3.000 tỷ đồng. Do lớn quá nhanh nên cũng như nhiều ngân hàng khác, việc
quản trị và kiểm soát rủi ro trở thành một vấn đề lớn đối với Western Bank. Bên cạnh đó,
một tỷ lệ rất lớn tín dụng của nhà băng lại dành cho các doanh nghiệp sân sau, cổ đông
nội bộ dẫn đến nhiều rủi ro cho Ngân hàng.
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
15
Nằm trong tiến trình tái cơ cấu bắt buộc, Western Bank đã gây chú ý nhiều cho thị
trường tài chính gần đây về việc sáp nhập với Tổng công ty cổ phần Tài chính dầu khí
(PVFC). Ngày 16/3/2013, tại Cần Thơ, NHTMCP Phương Tây (Western Bank) Đại hội
cổ đông năm 2013 đã thông qua kế hoạch hợp nhất với PVFC. Western Bank đã trình
NHNN Đề án hợp nhất với PVFC.
Một trong những mục đích của việc hợp nhất giữa Western Bank và PVFC được nêu ra
là giải quyết được sự tồn tại của Western Bank; nâng cao hiệu quả, năng lực hoạt động,
sức cạnh tranh cho PVFC và giảm được phần vốn góp của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia
Việt Nam (PVN) tại PVFC. Như vậy, Western Bank vừa có tiền để giải quyết các món
nợ, làm trong sạch tình hình tài chính của mình. Bên cạnh đó, với tỷ lệ sở hữu hiện tại
của PVN tại PVFC là 78% có thể sẽ giảm xuống còn 48% sau hợp nhất. Điều này sẽ
giúp PVN từng bước thực hiện lộ trình thoái vốn tại các công ty con theo quy định. Ngân
hàng sau hợp nhất dự kiến có tổng tài sản 105.641,59 tỷ đồng, với số vốn điều lệ 9.000
tỷ đồng sẽ được duy trì trong 3 năm 2012, 2013, 2014 và được tiếp tục tăng lên 12.000 tỷ
đồng trong năm 2015.
Ngoài ra, còn một số NH tự tái cơ cấu như NaviBank, TrustBank, TienphongBank và GP
Bank.
Theo đánh giá của các chuyên gia, tái cơ cấu ngân hàng đạt được kết quả bước đầu sau 1
năm thực hiện. Trong đó, đáng chú ý là an toàn hệ thống các TCTD được cải thiện rõ rệt;
nguy cơ đổ vỡ hệ thống từng bước được đẩy lùi; tài sản của Nhà nước và nhân dân được
bảo đảm an toàn; tiền gửi của nhân dân được chi trả bình thường, kể cả ở ngân hàng yếu

kém. Các TCTD yếu kém có nguy cơ đổ vỡ đã được NHNN kiểm soát chặt chẽ và từng
bước được xử lý bằng các giải pháp thích hợp nhờ đó thị trường tiền tệ dần đi vào ổn
định… /.
2.2. Những cơ hội và thách thức mà hệ thống ngân hàng Việt Nam phải đối mặt
trong tình hình hiện nay
2.2.1. Cơ hội
- Trong quá trình hội nhập và

mở cửa thị trường tài chính trong nước,
khuôn khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến
sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân chia lại thị
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
16
phần giữa các nhóm ngân hàng theo

hướng cân bằng hơn,

thị phần của từng
NHTM có thể giảm và nhường chỗ cho các nhóm ngân hàng khác, nhất là tại
các

thành phố



khu đô

thị

lớn.


Tùy theo

thế

mạnh của

mỗi

ngân

hàng,

sẽ
xuất hiện những ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên môn hóa như ngân
hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, đồng thời hình thành một
số ngân hàng qui mô lớn, có tiềm lực tài chính và kinh doanh hiệu quả.
- Kinh doanh theo nguyên tắc thị trường cũng buộc các NHTM phải có
cơ chế quản lý và sử dụng lao động thích hợp, đặc biệt là hoạt động quản trị
ngân

hàng,

qua

đó

nâng

cao


hiệu

quả

hoạt

động



sức

cạnh

tranh

trên

thị
trường tài chính.

Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng uy tín và vị thế của hệ thống
ngân hàng VN, nhất là trên thị trường tài chính khu vực.
-






hội

khai

thác



sử

dụng

hiệu

quả

lợi

thế

của

các

hoạt

động
ngân hàng hiện đại đa chức năng, có thể sử dụng vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý từ ngân hàng các nước phát triển.
- Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường

tài chính quốc tế dễ dàng hơn,

hiệu quả tăng lên trong huy động

và sử dụng
vốn. Các ngân hàng trong nước sẽ phản ứng nhanh nhạy, điều chỉnh linh hoạt
hơn theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận
và giảm thiểu rủi ro.
- Hội nhập còn tạo ra động lực thúc đẩy trong việc nâng cao tính minh
bạch của hệ thống ngân hàng VN.
2.2.2. Thách thức
Cùng với cả nước, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đang tích cực chuẩn
bị những điều kiện cần thiết để tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, nâng dần vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế, điều này tạo ra cơ hội
để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế trong nước, đồng thời cũng đặt ra
không ít những thách thức cần phải vượt qua:
- Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm
lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý. áp lực cạnh tranh cũng
tăng dần theo lộ trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước
ngoài, nhất là về thành lập các ngân hàng 100% vốn nước ngoài, mở chi nhánh
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
17
và các điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về đối tượng khách hàng
và tiền gửi được phép huy động, khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng, trong
khi các tổ chức tài chính Việt Nam còn nhiều yếu kém, trình độ chuyên môn
và trình độ quản lý còn bất cập, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh thấp, nợ
quá hạn cao, khả năng chống đỡ rủi ro còn kém. Vì thế, các NHTM Việt Nam
sẽ

mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô,


khách hàng và

hệ thống kênh phân
phối, nhất là sau năm 2010, khi những hạn chế nêu trên và sự phân biệt đối xử
bị loại bỏ căn bản. Sau thời gian đó, qui mô hoạt động và khả năng tiếp cận thị
trường,

các

nhóm

khách

hàng,

chủng

loại

dịch

vụ

do

các

ngân


hàng

nước
ngoài cung cấp sẽ tăng lên. Đáng chú ý, rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt
Nam có thể tăng lên do các ngân hàng nước ngoài nắm quyền kiểm soát một
số tổ chức tài chính trong

nước thông qua

hình thức

góp

vốn,

mua cổ

phần,
liên kết kinh doanh;

một số tổ chức tài chính trong nước sẽ gặp rủi ro

và có
nguy cơ thua lỗ, phá sản do sức cạnh tranh kém và không có khả

năng kiểm
soát rủi ro khi tham gia các hoạt động ngân hàng quốc tế.
- Mở cửa thị trường tài chính trong nước cũng làm tăng rủi ro do những
tác


động

từ

bên

ngoài,



hội

tận

dụng

chênh

lệch

tỉ

giá,

lãi

suất

giữa


thị
trường trong nước và thị trường quốc tế giảm dần. Hệ thống Ngân hàng Việt
Nam cũng phải đối mặt với các cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ
khủng hoảng. Trong trường hợp đó, thị trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ
thống ngân hàng phải chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây lên.
2.3. Những điểm yếu trong hệ thống ngân hàng hiện nay
Mất cân đối kỳ hạn, thanh khoản và chi phí xã hội:
Theo đánh giá chung của các nhóm tập trung, sự mất cân đối giữa kỳ hạn tiền gửi và cho
vay đã và đang trở nên nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng Việt nam. Cụ thể, các
khoản cho vay dài hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn và có quy mô lớn hơn nhiều so với các
khoản tiền gửi có cùng kỳ hạn. Điều này được giải thích là do nhiều ngân hàng trong một
thời gian dài đã được sử dụng như là sân sau của những ông chủ ngân hàng, thực hiện
việc cho vay vào những dự án đầu tư dài hạn mà trong đó chủ yếu là bất động sản dẫn tới
sự mất cân đối về kỳ hạn. Trong điều kiện chính sách tiền tệ nới lỏng, tiền rẻ xuất hiện
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
18
và các dòng tiền ngắn hạn có thể quay vòng liên tục để tài trợ gối đầu cho các dự án dài
hạn mà không gặp phải vấn đề về thanh khoản. Nhưng khi chính sách tiền tệ thắt chặt trở
lại, vòng quay vốn ngắn hạn bị hạn chế làm cho vòng quay vốn ngắn hạn bị đứt đoạn,
dẫn tới rủi ro thanh khoản lớn buộc các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, phải huy
động bằng mọi giá, đưa mặt bằng lãi suất lên cao.
Một điểm nhấn hết sức đáng chú ý về vấn đề này được Hoàn Trần và Thuân Nguyễn
(2011) bình luận là vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng còn thể hiện ở việc nhiều
cán bộ tín dụng được giao nhiệm vụ huy động đã có những sự mặc cả với khách hàng để
có được vốn tiết kiệm và thực sự rất hiếm nơi đâu như ở Việt Nam, người gửi tiết kiệm
lại được “mặc cả” với ngân hàng về lãi suất. Hoàn Trần và Thuân Nguyễn (2011) cũng
đưa ra một ví dụ là khi Lehman Brothers phá sản vào thời điểm tháng 10/2008, thị
trường tiền tệ hoảng loạn các ngân hàng không còn tin tưởng nhau nữa và dừng cho vay
lẫn nhau hoặc đòi lãi cao, lãi suất LIBOR qua đêm đã tăng lên đến 8% trong khi đó lãi
suất LIBOR kỳ hạn 6 tháng chỉ có 3%.

Những vấn đề nêu trên cho thấy rằng hệ quả nợ xấu, xuất phát từ nhiều lý do (xem các lý
do khác bên dưới) nhưng trong đó có sự mất cân đồi về kỳ hạn, đã trở nên nghiêm trọng
có thể dẫn tới sự đổ vỡ hệ thống nếu không có những giải pháp kịp thời. Kể cả khi việc
mất thanh khoản của các ngân hàng nhỏ có được sự cứu trợ mạnh mẽ từ phía ngân hàng
nhà nước, thì sự tồn tại một hệ thống ngân hàng với cả hai thị trường một và thị trường
hai đều hoạt động rầm rộ là điều đặc thù của hệ thống ngân hàng Việt nam. Hệ thống
hiện tại đã tạo ra cơ hội cho một nhóm các ngân hàng có tiềm lực vốn tốt để sống trên
lưng các ngân hàng nhỏ, nhưng lại đẩy xã hội phải gánh chịu những chi phí trung gian
rất lớn. Chúng ta thực sự đang sống trong một nền kinh tế mà ở đó tồn tại một hệ thống
ngân hàng trong đó chức năng dẫn dắt vốn trong nền kinh tế đã phải được thực hiện qua
nhiều cầu trung gian, đẩy chi phí chung trong nền kinh tế lên tới mức quá cao, làm cho
nhiều doanh nghiệp trở nên khó khăn và đình đốn sản xuất và thất nghiệp.
Quản trị kém và rủi ro mất vốn:
Việc quản trị kém được nhìn nhận ở hai giác độ quan trọng là thiết chế quản trị
(corporate governance) và quản trị hoạt động. Ở giác độ thứ nhất, nhóm đánh giá rằng hệ
thống quản trị chưa thực sự rõ ràng và minh bạch. Nhiều ý kiến cho rằng thực sự không
thể biết chính xác thực trạng hoạt động của các ngân hàng Việt nam bởi họ thực sự có
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
19
thể dễ dàng giấu những khoản nợ xấu thông quan hệ thống các công ty con, cháu một
cách dễ dàng và đơn giản. Những vấn đề công bố thông tin và chuẩn hóa thông tin công
bố chưa bao giờ là điểm được giới đầu tư hài lòng. Quan trọng hơn, xuất phát từ mâu
thuẫn lợi ích cốt lõi giữa vấn đề chủ sở hữu và người thực hiện (principal agent
problem), tại một số ngân hàng có cổ phần chi phối của nhà nước, những quyết định
quản trị được đưa ra không thực sự phù hợp với thông lệ phục vụ lợi ích của cổ đông.
Nói một cách ngắn gọn, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt nam đã có một bước chuyển
biến mạnh mẽ trong quá trình cổ phần hóa hơn 10 năm qua, nhưng gần như cơ chế quản
trị không có sự thay đổi đáng kể nào.
Ở giác độ thứ hai, việc quản trị hoạt động kém đã dẫn tới mức độ rủi ro nợ xấu cao. Theo
báo cáo của Ngân hàng nhà nước, nợ xấu và nợ dưới chuẩn (Non Performing Loan

“NPL”) của các ngân hàng Việt Nam ở mức 3.1% tổng dư nợ tại ngày 30/6/2011, tương
đương gần 4 tỷ USD. Tuy nhiên, những thông tin về các vụ vỡ nợ tín dụng tại nhiều địa
phương diễn ra sau đó có thể sẽ là một lý do để tín rằng nợ xấu của hệ thống ngân hàng
có thể sẽ cao hơn thế. Đồng thời, theo Hoàn Trần và Thuân Nguyễn (2011), hệ thống
ngân hàng có khoảng 12% dư nợ tương đương 12 tỷ đô la trong lĩnh vực bất động sản và
chứng khoán. Với thực tế ảm đạm của cả hai thị trường này và sự sụt giảm giá, có thể tin
rằng một tỷ lệ lớn trong số dư nợ này đã rơi vào tình trạng nợ xấu và nợ dưới chuẩn.
Nhóm cũng đánh giá rằng nếu cân nhắc thêm về khoản nợ của của Vinashin thì con số
nợ xấu thực tế của hệ thống ngân hàng chắc chắn sẽ còn tồi hơn rất nhiều.
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
20
Biểu đồ về nợ xấu của một số ngân hàng ở Việt Nam năm 2012
Hệ quả tất yếu của vấn đề nợ xấu là khả năng mất vốn trong hệ thống ngân hàng. Theo
Hoàn Trần và Thuân Nguyễn (2011), mặc dù nhiều ngân hàng của Việt Nam đã đạt mức
tỷ lệ đảm bảo vốn tự có tối thiểu (Capital Adequacy Ratio “CAR”) trên 8% nhưng tỷ lệ
này sẽ bị sụt giảm rất nhanh nếu như hạch toán đúng dự phòng cho các khoản nợ NPL.
Lý do là chất lượng tài sản suy giảm làm cho chi phí dự phòng gia tăng, làm ăn mòn lợi
nhuận lũy kế và từ đó giảm vốn tự có. Theo số liệu của StoxPlus, vốn chủ sở hữu của 43
ngân hành thương mại (không tính ngân hàng phát triển và 5 ngân hàng 100% vốn nước
ngoài) là 276 ngàn tỷ đồng (khoảng 14 tỷ USD) vào thời điểm 30/12/2010. Giả sử nếu
như NPL của hệ thống tăng thêm 10% (từ mức 3.1% theo số liệu của NHNN tại
30/6/2011 lên 13.1%) và giả sử phải lập dự phòng đầy đủ (100% cho tất cả nợ nhóm 2
đến nhóm 5) thì mức chi phí sẽ tăng thêm khoảng 10 tỷ USD. Khi đó, vốn chủ sở hữu
của hệ thống ngân hàng Việt nam sẽ chỉ còn 4 tỷ USD và khi đó tỷ lệ CAR sẽ thấp hơn
nhiếu so với con sô 8% yêu cầu hiện tại.
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
21
Biểu đồ về tình hình tăng trưởng nợ xấu trong 5 năm 2008 – 2012
Như vậy, có thể thấy rằng các số liệu báo cáo có thể làm hài lòng một số người về mặt
giấy tờ, còn con số khả năng thực tế sẽ làm chúng ta giật mình về thực trạng. Theo đánh

giá của nhóm, những nguyên nhân dẫn tới hệ quả này bao gồm (i) thiết chế quản trị kém
dẫn tới những khoản cho vay vào những doanh nghiệp (sân sau) không được định giá
một cách đầy đủ; (ii) có quá nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ trong một
nền kinh tế khiêm tốn khoảng 100 tỷ đô la Mỹ. Với trên dưới 100 ngân hàng và các tổ
chức tín dụng và hơn 100 công ty chứng khoán có những hoạt động tương đồng thì sức
ép cạnh tranh tất yếu dẫn tới rủi ro và không hiệu quả; (iii) đội ngũ tín dụng không được
đưa ra quyết định độc lập; và (iv) các ngân hàng có mối quan hệ chằng chịt nhưng không
chính thức với hệ thống tín dụng đen.
Chiến lược và sản phẩm:
Hệ thống ngân hàng Việt nam đã có bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua. Theo
đánh giá của tạp chí Asia Focus số tháng Sáu 2011, hệ thống ngân hàng Việt nam được
kỳ vọng là một trong những khu vực phát triển nhanh nhất Châu Á trong thời gian tới,
được khích lệ bởi tăng trưởng kinh tế ở mức cao trong thời gian dài trong khi sự bao phủ
của hệ thống ngân hàng hiên tại lại khá hạn chế.
Cụ thể, tổng tài sản nội địa trong hệ thống ngân hàng Việt nam đã tăng gấp đôi từ 1,097
nghìn tỷ năm 2007 lên 2,690 nghìn tỷ năm 2010. Con số này được kỳ vọng sẽ tăng lên
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
22
3,667 nghìn tỷ vào năm 2012. Lý do chính cho sự tăng trưởng mạnh mẽ này là tăng
trưởng kinh tế, qua đó thụ nhập của người dân được cải thiện và kéo theo là nhu cầu về
các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng. Chẳng hạn, dịch vụ thẻ tín dụng và thẻ thanh toán
đã trở nên phổ biến, tăng gần như gấp đôi chỉ trong giai đoạn từ 2008 đến 2010 lên mức
28.5 triệu thẻ. Số lượng các máy ATM cũng đã tăng nhanh chóng, từ 1,800 máy năm
2005 lên khoảng 11,000 máy vào tháng 12/2010.
Mặc dù vậy, tỷ lệ bao phủ dịch vụ của hệ thống ngân hàng còn ở mức thấp, tính đến
tháng 12/2009 mới có khoảng 20% dân số có tài khoản ngân hàng và chỉ một nửa trong
số đó thực sự dùng các dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Tỷ trọng dư nợ tín dụng so với tổng giá
trị sản phẩm trong nước mặc dù đã tăng lên từ khoảng 70% năm 2007 lên mức 120% vào
cuối năm 2010, nhưng vẫn ở mức thấp hơn nhiều so với trung bình của các quốc gia trên
thế giới, nếu trừ nợ chính phủ cũng ở mức khoảng trên dưới 200%. Có thể thấy rằng còn

nhiều khoảng trống giữa khả năng đáp ứng và nhu cầu thực tế và do vậy, tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng là một yêu cầu cấp thiết nhằm đáp ứng nhu cầu dịch vụ ngày càng tăng,
đảm bảo rằng dịch vụ ngân hàng đến được những nơi cần đến.
Lý do chính cho những kết quả nêu trên là một hệ thống ngân hàng không có chiến lược
phát triển và chiến lược sản phẩm cụ thể. Với hơn 100 ngân hàng và tổ chức tín dụng,
dường như chúng ta không nhìn thấy bất cứ một sự khác biệt nào trong chiến lược phát
triển và sản phẩm của các ngân hàng. Một số ngân hàng có yếu tố tư nhân và yếu tố nước
ngoài đang cố gắng tạo sự khác biệt, nhưng trên bình diện chung, có thể nói rằng các
ngân hàng Việt nam gần như là giống nhau về chiến lược, cạnh tranh trên cùng địa bàn,
cùng loại sản phẩm và hệ quả tất yếu sẽ là những “chiêu trò” cạnh tranh không dựa trên
nguyên tắc thị trường, hoặc nếu không thì cũng sẽ dẫn tới sự lỏng lẻo trong nguyên tắc
hoạt động.
Tính phụ thuộc của ngân hàng nhà nước:
Đây là đặc thù của nền kinh tế Việt nam và tất nhiên khó để so sánh với các nước có hệ
thống ngân hàng phát triển trong đó vai trò của ngân hàng trung ương là độc lập khỏi
chính phủ, thì yếu tố này cũng được nhóm đánh giá cho là một lý do quan trọng dẫn tới
sự thiếu tính cạnh tranh lành mạnh trong hệ thống ngân hàng Việt nam nói chung. Mặc
dù sự phụ thuộc của Ngân hàng trung ương được nhìn nhận là sẽ giúp tạo ra sự đồng bộ
trong việc mang lại lợi ích chung cho toàn bộ nền kinh tế theo định hướng của chính
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
23
phủ, nhưng điều này cũng sẽ là cản trở cho một chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng
dài hạn bởi hoạt động của ngân hàng trung ương phụ thuộc nhiều vào chu kỳ kinh tế hơn
là theo nhiệm kỳ của chính phủ.
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
24
Chương 3
GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
3.1. Bài học kinh nghiệm của tái cấu trúc thành công
Thứ nhất, cần có quyết tâm chính trị cao đồng thời với sự ủng hộ của toàn xã hội

củng như các nhà tài trợ.
Thứ hai, các quốc gia thành công trong tái cấu trúc đều đánh giá đưng thực trạng,
bản chất và mức độ nghiêm trọng của những yếu kém trong hệ thống ngân hàng, xác
định đúng nguyên nhân và đưa ra chương trình tái cấu trúc thổng thể.
Thứ ba, yếu tố đặc biệt quan trọng tác động tới sự thành công của tái cấu trúc là “
tốc độ” hay tính nhanh nhạy và kịp thời. Kế hoạch chấn chỉnh ngay hệ thống ngân hàng
là một phần quan trọng trong tái cấu trúc.
Những quốc gia thành công trong tái cấu trúc đều thực hiện kế hoạch hành động này
trong vòng một năm ngay khi các yếu kém của hệ thống ngân hàng bộc lộ.
Hawkins và Tunner (1999) đã so sánh phản ứng khác nhau của Nhật Bản và các nước
vùng Scandinava đối với hai cuộc khủng hoảng nghiêm trọng trước đây là kết luận rằng
những hành động quyết đoán và kịp thời của các nước Scandinava đã giúp hệ thống ngân
hàng của các nước này phục hồi nhanh hơn Nhật Bản.
Thứ tư, các quốc gia cần kết hợp nhiều biện pháp tái cấu trúc và thực thi một cách
tổng thê nhưng linh hoạt. Bên cạnh đó, cơ quan thực hiện tái cấu trúc và việc tổ chức tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng.
Tại Thái Lan, Ủy ban tư vấn tái cấu trúc tài chính được thành lập để ban hành các hướng
dẫn cần thiết.
Tại Indonesia, cơ quan tái cấu trúc ngân hàng Indonesia lãnh đạo việ tái cấu trúc gồm
các thành viên của các cơ quan quản lý nhà nước.
3.2. Tại sao Việt Nam cần thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
- Tính dễ bị tổn thương của hệ thống ngân hàng (rủi ro nợ xấu gia tăng, quản trị, công
nghệ và nguồn nhân lực chủ yếu, rủi ro thanh khoản, rủi ro thể chế, rủi ro tín dụng, …)
- Hoạt động chưa thực sự hiệu quả ( bản thân hệ thống ngân hàng và tác động lan tỏa tới
nền kinh tế)
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề
25
- Đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế (quốc tế hóa, chuẩn mực quốc tế, tăng cường
cạnh tranh, phản ứng với các cú sốc từ bên ngoài, …)
- Đáp ứng những yêu cầu đặt ra của thời kì phát triển mới nền kinh tế - xã hội Việt Nam

(phát triển theo hướng chất lượng, hiệu quả, và bền vững cả nền kinh tế, xã hội, môi
trường)
3.3. Một số giải pháp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam
3.3.1. Tái cấu trúc về vốn tự có
Mục tiêu chính của nhóm biện pháp này là phải xác định được mức vốn chủ sở hữu thực
tế (sau khi đã lập dự phòng đầy đủ cho các khoản cho vay không hiệu quả và giảm giá
các tài sản) của hệ thống ngân hàng. Từ đó Chính phủ mới đưa ra được các biện pháp cụ
thể, ví dụ như yêu cầu các ngân hàng tăng vốn, hoặc yêu cầu các ngân hàng có mức an
toàn vốn thực tế dưới mức tối thiểu phải sáp nhập hoặc giải thể.
Mua lại ngân hàng hay quốc hữu hóa một phần để tăng vốn
Chính phủ có thể đầu tư vào vốn cổ phần của các ngân hàng. Giải pháp này đã được thực
hiện tại Mỹ và nhiều nước châu Âu. Khởi đầu là Chính phủ Anh đã mua cổ phiếu RBS
(Royal Bank of Scotland) với giá 50,5 xu/cổ phiếu, sở hữu 84% ngân hàng này và yêu
cầu RBS thực hiện tái cấu trúc, trong đó bao gồm bán đi hết các tài sản không thuộc
phạm vi hoạt động cốt lõi. Chính phủ Anh hiện cũng sở hữu 43% Ngân hàng Lloyds.
Chính phủ Hà Lan hiện sở hữu Ngân hàng ABN Amro. Tuy nhiên, việc đầu tư vào các
ngân hàng chỉ là tạm thời, chính phủ sẽ bán lại cổ phần cho khối tư nhân khi các ngân
hàng này hồi phục. Trước đó, năm 2008, RBS đã lỗ 24,1 tỉ bảng Anh (tương đương 34,2
tỉ USD) do phải hạch toán dự phòng nợ NPL vào chi phí, “ăn” gần hết vốn của RBS.
Hậu quả là tỉ lệ an toàn vốn CAR của RBS thấp hơn nhiều so với mức tối thiểu 8% theo
yêu cầu.
RBS có hệ số cho vay/tiền gửi là 163% vào năm 2008, có nghĩa là RBS phải đi vay 63%
số vốn trên thị trường liên ngân hàng. Một điểm quan trọng và có thể khác với ở Việt
Nam là khi RBS có hệ số CAR rất thấp thì các ngân hàng và định chế tài chính khác sẽ
cắt đứt quan hệ tín dụng với RBS. RBS sẽ mất khả năng vay vốn trên thị trường liên
ngân hàng do lo ngại số vốn còn lại của RBS không đủ bù đắp các khoản lỗ trong tương
lai. Trong tình huống này, RBS mất thanh khoản hoàn toàn và Chính phủ đã phải ra tay.
Chuyển các khoản vay của Ngân hàng Nhà nước sang cổ phần
Nhóm 19 Đề tài chuyên đề

×