Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

PHÂN TÍCH GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.64 KB, 44 trang )

1
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
 
TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY
GVHD: THS. NGUYỄN THỊ HAI HẰNG
SVTH: NGUYỄN THỊ BÍCH CHI K094040518
NGUYỄN VŨ HOÀNG ĐÍNH K094040533
Lớp: K09.404.A
Nhóm: 09
TP.HỒ CHÍ MINH, năm 2013
Nhóm 09
2
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
MỤC LỤC
Nhóm 09
3
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
DANH MỤC VIẾT TẮT
NH: Ngân hàng
NHNN: Ngân hàng nhà nước
TCTD: Tổ chức tín dụng
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
Nhóm 09
4
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
CHƯƠNG 1


THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ
1993- ĐẾN NAY
1.1. Vài nét về hệ thống ngân hàng Việt Nam
Hệ thống ngân hàng được coi là “huyết mạch” của nền kinh tế, đóng vai trò quan
trọng nhất trong hệ thống trung gian tài chính. Bởi vậy, hoạt động ngân hàng cần phải
luôn thông suốt, hiệu quả và an toàn để duy trì sự vận hành trôi chảy các hoạt động trong
nền kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Sau hơn hai thập kỷ tiến hành cải cách, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua
bốn giai đoạn phát triển đáng chú ý:
- Giai đoạn 1990 - 1996: ghi nhận sự tăng lên nhanh chóng về số lượng và loại
hình tổ chức tín dụng (TCTD) nhằm đáp ứng sự tăng vọt của cầu về dịch vụ tài chính
trong giai đoạn đầu “bung ra” trong thời kỳ chuyển đổi.
- Giai đoạn 1997 - 2005: củng cố, chấn chỉnh hệ thống ngân hàng hai cấp mới
được hình thành trong bối cảnh khủng hoảng tiền tệ châu Á.
- Giai đoạn 2006 - 2010: nâng mức vốn pháp định và tăng cường các quy chế
điều tiết; các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) nông thôn được chuyển đổi lên
thành ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần đô thị; một số ngân hàng mới được thành
lập, xuất hiện loại hình ngân hàng 100% vốn nước ngoài.
-Giai đoạn 2011 đến nay: hệ thống ngân hàng bộc lộ những yếu kém, dễ tổn
thương vì những yếu kém tồn tích từ lâu, đe dọa gây đổ vỡ hệ thống, dẫn tới yêu cầu cấp
thiết phải tiến hành tái cơ cấu hệ thống các TCTD.
1.2. Phân loại các nhóm ngân hàng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam
Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay bao gồm 3 nhóm ngân hàng chính:
+ Các NHTM nhà nước
+ Các NHTM cổ phần
+ Các NHTM nước ngoài
+ Ngoài ra, còn có các ngân hàng liên doanh và các văn phòng đại diện của các
TCTD nước ngoài
Nhóm 09
5

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
Cụ thể, tính đến cuối năm 2011, có 5 NHTM nhà nước (trong đó có 3 ngân hàng
là: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - VCB, Ngân hàng Công thương Việt Nam -
Vietinbank, và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV đã được cổ phần hóa,
tuy nhiên, Nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối trên 70%), 1 ngân hàng chính sách, 37
NHTMCP, 5 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng có 100% vốn nước ngoài, và 54 chi
nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra còn có các TCTD phi ngân hàng, bao gồm 18
công ty tài chính, 13 công ty cho thuê tài chính và hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân
(gồm 1 Quỹ Tín dụng nhân dân Trung ương với hơn 1.073 quỹ thành viên).
1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của các nhóm ngân hàng
1.3.1. Kết quả kinh doanh
Năm 2009 với biết bao gánh nặng đối với hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Gánh
nặng từ cuộc khủng hoảng bên ngoài, gánh nặng từ trách nhiệm mà Chính phủ đặt lên
vai với vai trò làm kênh dẫn xuất các chính sách tài khoá, tiền tệ phục vụ tăng trưởng
kinh tế, ưu tiên hàng đầu của Nhà nước trong bối cảnh suy thoái chung toàn cầu. Điều
này đặt ra nhiều cơ hội, nhưng sẽ có rủi ro nếu các ngân hàng thương mại (NHTM)
không có một quy trình kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng. Nhận thức được
những khó khăn này, rất nhiều ngân hàng đã thận trọng hơn với các khoản cho vay, tìm
mọi cách giảm rủi ro trong quá trình cho vay; đề phòng và miễn dịch với các dự án đầu
tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là cao; tập trung vào các khoản mục
sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao và có sự phát triển trong tương lai. Đồng thời, chủ
động chuyển hướng sang các dịch vụ ngân hàng bán lẻ và dịch vụ phi tín dụng. Vì vậy,
có không ít ngân hàng thuộc nhóm các ngân hàng lớn trong khối cổ phần đã có tỷ trọng
nguồn thu phi tín dụng khá cao. Tỷ trọng đó tại ACB hay Techcombank hiện ở khoảng
50%, tại Sacombank khoảng 40%. Cũng nhờ thế, đến giữa năm 2009, hệ thống Ngân
hàng Việt Nam đã dần đi vào hoạt động ổn định
Tăng trưởng tín dụng cao từ năm 2008,tăng trưởng tín dụng cao luôn luôn là một
tín hiệu cảnh báo do tăng trưởng tín dụng quá nóng thường dẫn đến đổ vỡ tín dụng sau
đó. Các ngân hàng chỉ có thể tăng trưởng tín dụng đến một mức độ nào đó vì số lượng
khách hàng vay đáng tin cậy không nhiều. Ở Việt Nam, tổng dư nợ tín dụng đã tăng từ

Nhóm 09
6
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
1.068.000 tỷ đồng vào cuối năm 2007 lên 2.655.000 tỷ đồngvào cuối năm 2011. Đây là
giai đoạn nền kinh tế không tăng trưởng mạnh mẽ. Vậy thì tất cảsố tiền đó đã đi đâu?
Dư nợ tín dụng ngân hàng và tăng trưởng tín dụng (cột phải: % so với cùng kỳ năm
trước)
Năm 2011, thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, ngành Ngân hàng đã chủ động
trong điều hành chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, linh hoạt và phù hợp với tình hình
thực tế, khẳng định vị trí huyết mạch của nền kinh tế. Trong năm này, NHNN cùng với
các NHTM đã thực hiện kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng ở
mức thấp hơn đáng kể so với chỉ tiêu của Chính phủ đề ra trong Nghị quyết số 11/NQ-
CP, góp phần tích cực kiềm chế lạm phát và từng bước giảm dần tốc độ tăng giá. Ước cả
năm 2011, tổng phương tiện thanh toán (M2) ước tăng khoảng 10% so với tháng
12/2010 (chỉ tiêu là khoảng 15-16%); tổng dư nợ tín dụng tăng khoảng 12% (chỉ tiêu là
dưới 20%); kiểm soát tăng trưởng tín dụng; giám sát việc bảo đảm các tỷ lệ an toàn
trong hoạt động cũng như tình hình thanh khoản của các TCTD; xử lý nghiêm các vi
phạm phát sinh; tăng cường công tác thông tin truyền thông; tổ chức các cuộc đối thoại
giữa NHNN với các ngân hàng thương mại (NHTM) có thị phần lớn để nắm bắt diễn
biến thị trường tiền tệ, tìm ra các giải pháp nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc; đưa
Nhóm 09
7
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
ra khỏi danh mục tín dụng phi sản xuất đối với một số loại hình cho vay; Nghiệp vụ thị
trường mở được điều hành linh hoạt với khối lượng và lãi suất hợp lý nhằm kiểm soát và
ổn định thị trường tiền tệ, hạn chế tối đa sử dụng các biện pháp hành chính.Lãi suất huy
động tăng cao ở những tháng đầu năm, nhưng từ tháng 9/2011, hầu hết các NHTM thực
hiện nghiêm túc quy định của NHNN về trần lãi suất huy động bằng VIỆT NAMD ở
mức không quá 14%/năm. Lãi suất liên ngân hàng ở mức cao trong 4 tháng đầu năm
nhưng đã giảm từ tháng 5/2011 đến nay, đặc biệt là đối với lĩnh vực sản xuất nông

nghiệp, nông thôn, xuất khẩu từ mức phổ biến 18-21%/năm xuống còn 16-19%/năm.
Bên cạnh đó, cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, phù hợp với chỉ
đạo của Chính phủ ; thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát triển.
Năm 2012 là năm thực hiện chương trình tái cấu trúc nền kinh tế, mà một trong
những trọng tâm là cơ cấu lại hệ thống các ngân hàng thương mại, với phương châm:
Thận trọng nhưng quyết liệt, toàn diện, từng bước nâng cao tính an toàn, lành mạnh và
hiệu quả của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
1.3.2 Nợ xấu của các ngân hàngViệt Nam
Chuyện nợ xấu không phải nói lần đầu. Đó là hệ quả tất yếu của quá trình tăng
trưởng tín dụng quá nóng trong những năm trước đó, cộng với cơn sốt cho vay bất động
sản, chứng khoán ồ ạt thời kỳ 2006-2007, bên cạnh đó là những khoản đầu tư chéo, sở
hữu chéo giữa các định chế tài chính, các trung gian như công ty bảo hiểm, công ty tài
chính với khách hàng…
Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các ngân hàng thương mại phải hạn chế
tăng trưởng tín dụng không quá cao, nhưng trên thực tế trong 10 năm trở lại đây tốc độ
tăng trưởng tín dụng luôn ở mức hơn 20%/năm (chỉ có năm 2006 đạt 19,2%). Đáng chú
ý là năm 2007, tăng trưởng tín dụng lên đến 51,39%, 2009 là 37,7% và 2010 tuy có giảm
song vẫn cao, ở mức 29,8%. Chính sách cho vay lỏng lẻo những năm trước đã để lại
nhiều hệ lụy, trong đó là vấn đề nợ xấu.NHNN thì vẫn cho rằng nợ xấu đangở mức an
toàn và kiểm soát được.
Tuy nhiên, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings không nghĩ thế. Họ vừa
công bố tỉ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam là 13% tổng dư nợ năm 2011, theo
Nhóm 09
8
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
chuẩn mực quốc tế (theo chuẩn mực quốc tế, nếu phần nợ đến hạn không trả được thì
toàn bộ khoản nợ phải được xếp vào nợ xấu).
Tăng trưởng tín dụng ngân hàng (% so với cùng kì năm trước)
Giai đoạn năm 2008 tăng trưởng tín dụng rất cao, từ đó đã đưa tới hệ lụy nợ xấu
cho toàn ngành ngân hàng Việt Nam.Theo số liệu công bố của NHNN ngày 12/7/2012,

nợ xấu năm 2009 khoảng 45 nghìn tỷ đồng chiếm tỷ lệ 2,5% tổng dư nợ; năm 2010
khoảng 38 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 2,1%.Số liệu từ đơn vị nghiệp vụ của Ngân hàng
Nhà nước cho thấy tính đến hết tháng 8/2011 nợ xấu ( nhóm 3,4,5 ) của toàn hệ thống
ngân hàng thương mại chiếm 3,21%/ tổng dư nợ, vào khoảng 76 nghìn tỉ đồng. Trong
đó, nợ nhóm 3 chiếm 30,18%, nhóm 4 chiếm 20,53% và nhóm 5 chiếm trên 49%. Điều
đó đồng nghĩa các NHTM có nguy cơ mất trắng khoảng 33 nghìn tỉ đồng.Trong khi đó,
nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng tính đến thời điểm cuối tháng 10/2012 chiếm vào
khoảng từ 8,8% - 10%/tổng dư nợ.Số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)
cho biết, 9 tháng đầu năm 2012, tổng tài sản của hệ thống các tổ chức tín dụng đạt hơn
4.866 nghìn tỷ đồng, giảm 1,89% so với cuối năm 2011. Nhóm ngân hàng cổ phần có
Nhóm 09
9
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
tổng tài sản tại thời điểm cuối tháng 9 đạt gần 2.102,5 nghìn tỷ đồng, giảm 7,06% so với
cuối năm 2011. So với mức 2.224,6 nghìn tỷ đồng cuối tháng 8, con số này cũng giảm
xấp xỉ 5,5%. Trong tháng 9, tổng tài sản của khối ngân hàng nhà nước cũng giảm từ
2.075 nghìn tỷ đồng hồi cuối tháng 8 xuống còn 2.069 nghìn tỷ đồng… Nhiều khả năng
khối tài sản của các ngân hàng bị "bốc hơi" là do nợ xấu…
Những con số này cho thấy, nợ xấu có xu hướng gia tăng và trở thành vấn đề
nóng bỏng đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay
 Câu hỏi đặt ra là tại sao nợ xấu khó giải quyết?
Thứ nhấtvì không có thông tin chính xác về gánh nặng tổng nợ xấu. Nguồn tin
chính thức nhất là số liệu do NHNN công bố dựa trên việc tổng hợp số liệu báo cáo của
từng tổ chức tín dụng. Con số này vào ngày 7/7/2012 là 4,47%, tiếp theo là những con số
cao hơn cũng của NHNN (8,6% từ Thanh tra NHNN và 10% từ Thống đốc NHNN trước
Quốc hội), và sau đó là 11,8% từ Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia. Ngoài ra, còn có
số cao nhất là hơn 13% do Fitch công bố, sử dụng số liệu tài chính của tổ chức tín dụng
Việt Nam nhưng phân loại nợ theo chuẩn mực kế toán quốc tế thay vì chuẩn mực kế toán
Việt Nam.
Thứ hai, sự không đồng nhất về số liệu được luận giải là do các tiêu chí phân loại

nợ xấu khác nhau giữa NHNN (cơ quan giám sát nhận báo cáo) và các ngân hàng thương
mại (các cơ quan báo cáo). Các ngân hàng này cố ý khai giảm nợ xấu để tránh phải lập
dự phòng rủi ro cao làm giảm số lợi nhuận báo cáo.Báo cáo với NHNN một sổ, còn làm
cho mình một sổ riêng. Đây là vấn đề báo động trong hệ thống ngân hàng về quản trị rủi
ro
Thứ ba, nguyên nhân căn bản nữa, việc duy trì lãi suất huy động trần từ quá lâu
khiên các ngân hàng thương mại cho các con số báo cáo để tuân theo qui luật lãi suất
trần khác với các con số thực về nhiều mức lãi suất thỏa thuận cao hơn. Hơn nữa, các
ngân hàng còn áp dụng giống như năm ngoái là hình thức cho vay ngầm để tránh giới
hạn về tín dụng.Ngoài ra, đảo nợ khá thông dụng ở một số ngân hàng Việt Nam.Khi tiền
lãi không trả được của một số khách hàng lớn được thay bằng một “dòng nợ mới” trong
Nhóm 09
10
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
sổ sách của cả 2 bên. Đây là điều hết sức rủi ro khi khủng hoảng ngân hàng bùng nổ vì
các lợi nhuận “khủng” có được trên sổ sách chưa chắc đã là lợi nhuận thực. Do đó, nợ
xấu cũng không báo cáo đúng vì phải báo cáo theo sổ sách đã công bố với NHNN. Và
cũng vì thế, báo cáo về thực trạng nợ xấu của ngành ngân hàng có nhiều con số như đã
nói trên.Thêm vào đó, tình trạng tài chính không minh bạch còn dễ dẫn đến các rủi ro
đạo đức của hệ thống ngân hàng hay hệ lụy vỡ nợ, mất khả năng chi trả. Do vướng trần
lãi suất của NHNN, buộc các ngân hàng phải lách bằng cách đưa ra 2 sổ sách
1.3.3. Rủi ro đạo đức trong ngành NH
Ngân hàng là ngành nghề kinh doanh gắn chặt với tiền, rất nhiều tiền nên bị các
vấn đề đạo đức bủa vây là hiển nhiên.Mấu chốt của vấn đề là kiểm soát, kiềm chế thế
nào các vấn đề này thôi.Tuy nhiên, đây là chuyện không dễ nhất là khi các ngân hàng
Việt Nam còn yếu kém về kiểm soát, chủ quan và dễ dãi trong quản lý. Trên lý thuyết,
rủi ro đạo đức gồm rủi ro đạo đức của nhân viên và cả rủi ro đạo đức của khách
hàng.Không loại trừ có những khách hàng xấu cố tình lừa đảo, làm giả giấy tờ để lừa đảo
ngân hàng.Những vụ lừa đảo rất nghiêm trọng như Huỳnh Thị Huyền Như lừa đảo trong
lĩnh vực ngân hàng gây thiệt hại lên đến hàng ngàn tỷ. Rõ ràng, trong nhiều vụ lừa đảo,

đồng thời khởi tố bị can đối với kẻ lừa đảo là khởi tố đối với các nhân viên ngân hàng.
Đây chính là dấu hiệu cấu kết, liên minh là có, rủi ro đạo đức của khách hàng và của
nhân viên là đi liền với nhau. Tình trạng này là hệ quả của việc làm ăn theo quan hệ, do
mối quan hệ và chủ quan. Sau đây là những ví dụ về rủi ro đạo đức của nhân viên ngân
hàng. Mà bất cứ ngân hàng lớn nhỏ nào cũng đều có thể vấp phải và sẽ gánh chịu những
tổn thất lớn nếu chủ quan “căn bệnh ung thư” này.
Tại Agribank, tháng 5/2012, cơ quan công an cũng đã khởi tố, bắt giam nguyên
Giám đốc, Trưởng, Phó Phòng Tín dụng CN Hồng Hà khi lợi dụng chức vụ, quyền hạn
ký khống 8 bảo lãnh không hồ sơ, không hạch toán, không thu phí. Theo số liệu của
Viện Kiểm sát nhân dân TP. Hà Nội, năm 2011, các cơ quan pháp luật của thành phố đã
xử lý 22 vụ tham nhũng thì có tới 10 vụ liên quan đến các cán bộ ngân hàng, khởi tố 27
bị can là nhân viên các nhà băng. Theo Tổng cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm, trong
năm 2010 và 9 tháng đầu năm 2011, cơ quan này đã xử lý 69 vụ, khởi tố 40 vụ, khởi tố
bị can 70 cán bộ ngân hàng, thiệt hại 8.000 tỷ, thu hồi được có 2.000 tỷ.
Nhóm 09
11
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
Trước đây, khi nhắc tới tiêu cực, bộ phận hay bị để ý nhất là tín dụng. Đây là
những cán bộ trực tiếp làm việc với khách hàng, thẩm định hồ sơ, ra phán quyết tín
dụng… Điều này có thể chứng minh khi những thông tin khởi tố các cán bộ quản lý, cán
bộ tín dụng các ngân hàng liên tục trên các mặt báo vì những hành vi sai phạm của mình.
Các hành vi phổ biến như thiếu trách nhiệm trong thẩm định, cấu kết với khách hàng, ăn
chia hoa hồng trên số tiền vay được, liên kết với nhau để vay mượn lòng vòng, thậm chí
là vay ké của khách hàng… Tuy nhiên, các rủi ro đạo đức không chỉ xảy ra với cán bộ
tín dụng mà có thể ở các bộ phận nghiệp vụ khác của ngân hàng, thậm chí là giao dịch
viên, thủ quỹ. Các hình thức quen thuộc vẫn là lập khống, tất toán khống sổ tích kiệm
của khách, cạo sửa sổ tiết kiệm, cầm cố khống các giấy tờgiả.
Những năm vừa qua, ngành ngân hàng làm ăn tốt và các nhân viên được tiếng là
thu nhập cao, thưởng tốt, đặc biệt là giới lãnh đạo. Đây là uy tín ngầm và nhiều khi được
sử dụng, tạo sự tin tưởng để đivay tiền. rất nhiều cán bộ ngân hàng đã rơi vào cảnh vỡ nợ

do vay mượn ở bên ngoài, như Nguyễn Hữu Giang của SeABank Hải Phòng, Võ Hoàng
Nhật, nhân viên SHB Kiên Giang…
Mấu chốt là vấn đề con người
Muốn làm tốt công tác quản trị rủi ro thì cần phải tìm ra được những điểm yếu
trong quy trình hệ thống. Rất nhiều ngân hàng đã bắt đầu công cuộc tái cơ cấu, nhưng
vấn đề các ngân hàng quan tâm là đi tìm mô hình tổ chức hợp lý cho mình, tổ chức, sắp
xếp lại… Nhưng khi xét đi xét lại, nhiều ngân hàng thành lập gần 20 năm mà quy định
nội bộ gần như không có gì, hoặc có thì rất chung chung.
Trong khi đó, cơ chế kiểm soát tín dụng của nhiều ngân hàng đang bộc lộ nhiều
nhược điểm. Trong những năm qua, các ngân hàng đều phát triển nóng với các đơn vị
kinh doanh (chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm) trải dài trên cả nước dẫn đến sự
phân tán nhất định của các nguồn lực. Đặc biệt là sự phân tán thẩm quyền phán quyết tín
dụng. Theo đó, việc giao quyền cho các giám đốc chi nhánh quá lớn còn hội sở ở xa, quy
định nội bộ lờ mờ, công tác quản lý giấy tờ, con dấu thiếu chuẩn chỉnh, chặt chẽ thống
nhất…rất dễ dẫn đến các vấn đề rủi ro đạo đức.Hiện nay, mới chỉ vài ngân hàng đã áp
dụng được công tác quản lý tín dụng tập trung. Trong đó, hội sở kiểm soát chặt chẽ được
Nhóm 09
12
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
các hồ sơ tín dụng, lực lượng kiểm soát tín dụng được trao thực quyền, tổ chức tốt và đặc
biệt là được nắm quyền hạch toán giải ngân nên đã hạn chế được nhiều rủi ro đạo đức
Vấn đề nhân sự của các ngân hàng cũng rất đang quan tâm, nhất là bộ phận tín
dụng và bộ phận tái thẩm định. Các cán bộ tín dụng hàng năm đều được bổ sung từ
nguồn sinh viên mới tốt nghiệp. Nhiều khi, các sinh viên này trực tiếp được giao nhiệm
vụ làm cán bộ tín dụng duy nhất của 1 PGD. Đương nhiên, một người không thể ảnh
hưởng đến cả quyết định cho vay vì còn rất nhiều bộ phận đi kèm nhưng các cán bộ tín
dụng này rất dễ thành “máy ký” dưới sự chỉ đạo của các lãnh đạo PGD. Đây cũng là rủi
ro cần thấy, và trên thực tế là có xảy ra.
Bộ phận tái thẩm định của các ngân hàng cũng cần được củng cố.Có chi nhánh
ngân hàng đã tuyển cả người mới tốt nghiệp đại học, chưa kinh qua công tác tín dụng, tái

thẩm định để làm công tác này với khẩu hiệu “đào tạo từ từ”.Thiết nghĩ, các bộ phận như
tái thẩm định thì cần phải có những người xuất sắc, chứ không phải có kinh nghiệm là
đủ.
Rủi ro đạo đức là điều không thể tránh khỏi.Nhưng, vấn đề là phải làm sao để
quản trị tốt, giảm thiểu những rủi ro này.Đây cũng là một câu hỏi lớn dành cho các ngân
hàng trong quá trình tái cấu trúc sắp tới, cũng nhưng quá trình vận hành ngân hàng sau
tái cấu trúc sau này.
Nhóm 09
13
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
CHƯƠNG 2
GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ CHÍNH PHỦ VIỆT NAM
2.1.Lý do dẫn đến quyết định tái cấu trúc hệ thống NH Việt Nam của NHNN và
Chính phủ
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu gần đây nhất (2007-
2009) xuất phát từ việc cho vay “dưới chuẩn” của các NH, đặc biệt là ở Mỹ, buộc các
quốc gia phải quan tâm, đánh giá lại toàn bộ hoạt động của các NH. Việc tái cấu trúc NH
trở nên phổ biến và cấp thiết ở mỗi quốc gia, đảm bảo cho các NH thích nghi được với
nhu cầu phát triển mới trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đầy biến động. Ở Việt Nam,
khi mà thị trường chứng khoán chưa phát triển, gánh nặng về vốn còn dồn lên vai NH,
thì việc giữ cho hệ thống NH ổn định và lành mạnh càng phải đặc biệt quan tâm.
Thứ nhất, nhìn tổng thể nền kinh tế vĩ mô hiện nay,có thể khẳng định lĩnh vực gây
xáo trộn cho nền kinh tế nhiều nhất là ngân hàng. Vì hoạt động sản xuất kinh doanh của
tất cả các doanh nghiệp đều phụ thuộc vào hai chữ "vốn và lãi suất" của ngân hàng. Hiện
tượng lãi suất cho vay cao thực sự gây bất ổn lớn, điều đó thật sự bất lợi đối với các DN
vừa và nhỏ, số lượng DN lâm vào tình trạng phá sản ngày càng tăng. Do vậy cải cách hệ
thống ngân hàng thương mại(NHTM)là nhiệm vụ phải làm.
Thứ hai, thời gian qua, thanh khoản của ngân hàng thực sự có vấn đề.Lãi suất trên
thị trường liên ngân hàng có những lúc lên đến 30 - 40% và duy trì ở mức cao trong một

thời gian dài.Cuộc chạy đua lãi suất giữa các NHTM đẩy lãi suất cho vay tăng cao gây
khốn đốn cho các DN, dẫn đến nợ xấu. Nợ xấu thậm chí đã xuất hiện trên cả thị trường
liên ngân hàng, gây tổn hại uy tín và mất sự tin tưởng lẫn nhau giữa các NH, do vậy càng
làm tăng tính rủi ro và làm căng thẳng thêm tình hình thanh khoản.Đặc biệt là nợ xấu của
bất động sản (BĐS) có nguy cơ tăng lên vì thị trường BĐS vẫn tiếp tục đóng băng.Một
khi các nhà đầu tư không thể cầm cự được nữa thì nó sẽ thành một quá trình gia tốc nợ
xấu của khu vực ngân hàng, và nếu không được kiểm soát tốt thì quá trình này thậm chí
có thể dẫn đến những vụ sụp đổ lớn.
Nhóm 09
14
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
Thứ ba, khu vực ngân hàng của Việt Nam hiện nay tiềm ẩn nhiều rủi ro hệ thống,
có thể là nhân tố kích hoạt cho sự đổ vỡ kinh tế.Do đó Chính phủ phải đặt ưu tiên cao độ
cho việc cải cách khu vực ngân hàng. Mặt khác ưu tiên tái cấu trúc hệ thống NHTM còn
xuất phát từ những tác động lan tỏa của nó. Nếu sau tái cấu trúc mà các NHTM chỉ cần
làm được một việc, đó là cho vay có tính thương mại (chứ không phải cho vay có tính
quan hệ hay tính chính trị) thì chúng đã thực hiện một chức năng vô cùng quan trọng là
phân bổ nguồn lực hữu hạn, cụ thể là nguồn tín dụng và tài chính của quốc gia, đến tay
những người sử dụng một cách hiệu quả nhất.Có nghĩa là hoạt động kinh doanh của hệ
thống ngân hàng thương mại phải đảm bảo tính cạnh tranh bình đẳng và công bằng theo
đúng quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường.Đó chính là việc làm có tác động
tăng hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời giúp giảm lạm phát. Khi mối quan hệ giữa ngân
hàng và doanh nghiệp là mối quan hệ thương mại thì lập tức nó sẽ làm giảm sự ảnh
hưởng quá lớn của khu vực DNNN - khu vực được cho là kém hiệu quả, và lúc đó sẽ
phân bổ lại nguồn vốn cho khu vực dân doanh - nơi tạo ra đa số công việc làm và tạo ra
¾ tăng trưởng của nền kinh tế.
Thứ tư, là tính khả thi.Trong 43 ngân hàng thương mại trong nước có trên dưới 10
ngân hàng là có vấn đề thật sự.10 ngân hàng không phải là con số quá áp lực với NHNN.
Thứ năm, một trong những nguyên nhân khiến rất nhiều NHTM gặp khó khăn về
thanh khoản hay tín dụng trong thời gian qua ngoài nguyên nhân chủ quan còn có cả

nguyên nhân khách quan từ sự điều hành mang tính tình thế, chính sách đi sau thực tế,
chưa hoàn toàn theo kịp thời biến động thị trường của NHNN. Bên cạnh đó, năng lực
quản trị điều hành của các NHTM là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự khó khăn
của các NHTM
Có thể nói, nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng Việt Nam đã cơ bản vượt
qua cơn khủng hoảng 2007-2009. Tuy nhiên, trước những biến động phức tạp thời gian
gần đây của nền kinh tế thế giới, để ôn định và phát triển nền kinh tế hiệu quả và bền
vững, Đảng và Nhà nước ta đã ra Nghị quyết tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó tái cấu
trúc NH, tái cấu trúc đầu tư công và tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước là 3 trụ cột
trong tiến trình tái cấu trúc nền kinh tế.
Nhóm 09
15
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
2.2. Tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng:
Chương trình TCT chia làm 3 giai đoạn và được khởi động từ cuối năm 2011.
- Giai đoạn đầu tiên là tái cấu trúc một số ngân hàng có nguy cơ khủng hoảng thanh
khoản, đồng thời khắc phục thiếu hụt thanh khoản của toàn hệ thống. Kết quả có một số
ngân hàng được sáp nhập hoặc NHNN đưa vào dạng giám sát đặc biệt đã được tái cấp
vốn.
Có thể nói, cho đến nay giai đoạn 1 là củng cố thanh khoản đã thành công.Thanh
khoản của hệ thống ngân hàng hiện khá ổn định.Mặc dù vẫn còn một số ngân hàng khó
khăn nhất định về thanh khoản, nhưng vấn đề này không trở thành một nguy cơ cho toàn
hệ thống nữa.
- Giai đoạn 2: NHNN cũng đã khởi động của quá trình tái cấu trúc vào đầu năm 2012. Bắt
đầu từ việc chấn chỉnh lại thị trường tiền tệ liên ngân hàng; chấn chỉnh thị trường tín
dụng, đặc biệt đưa ra các hạn mức tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống cũng như từng
nhóm TCTD.
Đồng thời, NHNN cũng bắt tay vào xử lý nợ xấu NHNN đã ra hàng loạt chỉ thị và
tập trung chủ yếu vào việc tái cơ cấu lại nợ, trong đó biện pháp được tập trung chủ yếu là
giãn nợ và khoanh nợ cho một số DN khó khăn còn có khả năng phục hồi và phát triển.

Bên cạnh đó, NHNN cũng yêu cầu các TCTD trích lập dự phòng rủi ro (DPRR)
đủ và đúng theo quy định, từ đó có thể sử dụng DPRR để xử lý nợ xấu. Trên thực tế năm
2012, các NHTM đã sử dụng khoảng trên 40.000 tỷ đồng DPRR để xử lý nợ xấu và cũng
đã giãn nợ cho các DN còn có khả năng tồn tại và phát triển với tổng trị giá khoảng trên
200 nghìn tỷ đồng. Điều này làm cho nợ xấu giảm xuống nhanh, đến nay theo thông báo
của NHNN chỉ còn khoảng 6%.
Ngoài ra, NHNN cũng đã trình một dự án tổng thể về xử lý nợ xấu trong đó có
việc thành lập công ty AMC. Công ty này hiện đang hoàn thiện các thủ tục để có thể
thành lập vào quý II năm nay.
Nhóm 09
16
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
- Giai đoạn 3 - giai đoạn tái cấu trúc tổ chức và hoạt động.Trong năm 2012, NHNN
cũng đã xây dựng các chương trình về hiện đại hóa các TCTD. Trong đó có một số trọng
tâm như: tái cấu trúc hệ thống TCTD về mặt tổ chức và quản lý theo mô hình quản trị
DN của OECD; tái cấu trúc lại hệ thống quản trị rủi ro (QTRR); chấn chỉnh và xây dựng
mới các sổ tay tín dụng; dự thảo về áp dụng các chuẩn mực quốc tế về kế toán và báo
cáo tài chính và đặc biệt là sửa đổi quyết định 493 về phân loại tài sản và trích lập
DPRR.
Ngoài ra, NHNN cũng đang chuẩn bị hàng loạt các quy định về tỷ lệ an toàn cho
hoạt động ngân hàng; các chỉ thị về hệ thống giám sát từ xa theo chuẩn của CAMELS
hay áp dụng các nguyên tắc về QTRR và an toàn hệ thống của Basel II, một phần Basel
III.
Như vậy có thể thấy chương trình tái cấu trúc hệ thống các TCTD là một trong
những chương trình được khởi động một cách thực tế với những bước đi khá tích cực.
 Những điểm chưa được của tiến trình.
Có 2 vấn đề chủ yếu mà dư luận chưa hài lòng đó là:
- Tiến độ xử lý những ngân hàng yếu kém vẫn còn chậm. Hiện vẫn còn một số ngân hàng
đang có khó khăn lớn về thanh khoản chưa được xử lý dứt điểm và họ đang gây nên
những khó khăn nhất định cho hệ thống, nhất là tính ổn định của lãi suất.

- Vấn đề thứ hai là tiến độ XLNX, đặc biệt là công ty AMC ra đời chậm, không đúng với
kế hoạch ban đầu của NHNN, vì vậy có thể tạo ra những khó khăn cho việc thực thi các
biện pháp của giai đoạn 3. Đặc biệt, theo kinh nghiệm của quốc tế, XLNX làm càng
nhanh càng tốt. Để chậm ngày nào thì sẽ có thêm nhiều DN phá sản, nhiều con nợ gặp
khó khăn và gây rất nhiều khó khăn lớn về tài chính cho các NHTM.
2.3. Giải pháp tái cấu trúc hệ thống NH Việt Nam
Quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam đã bắt đầu được tiến
hànhtheo Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”. Hệ
thống ngân hàng Việt Nam đang chủ động tiếp cận với việc tái cấu trúc, lành mạnh hóa
Nhóm 09
17
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
hệ thống ngân hàng, từ đó tiến đến hoàn thành các mục tiêu đề ra. Tuy nhiên với tình
tình kinh tế bất ổn nói chung và thị trường tiền tệ nhiều khó khăn nói riêng như hiện nay,
việc xem xét và lựa chọn các giải pháp tái cấu trúc hợp lý nhằm giúp hệ thống NH hoạt
động hiệu quả hơn cần được nghiên cứu, bổ sung và cụ thể hóa.
Tiếp theo việc thực thi Luật các TCTD sửa đổi (có hiệu lực năm 2011), vào đầu
năm 2012 hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam đã bắt đầu quá trình tái cơcấu
theo Đề án mới được ban hành (Quyết định số 254/QÐ-TTG, ngày 1/3/2012 củaThủ
tướng Chính phủ: “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 2015"). Đề
án đã đưa ra các mục tiêu chung đến năm 2020 và các mục tiêu cụ thể đếnnăm 2015, xác
định rõ các quan điểm, định hướng, giải pháp và lộ trình thực hiện táicơ cấu các tổ chức
tín dụng (TCTD) Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015. Riêng đốivới các NHTM, đề án
chia các ngân hàng thành 02 nhóm đối tượng: NHTMNN và NHTM cổ phần, trong đó
NHTM cổ phần lại được chia thành 03 nhóm: nhóm ngânhàng lành mạnh, nhóm ngân
hàng thiếu thanh khoản tạm thời và nhóm ngân hàng yếukém. Trên cơ sở đó, đề án cũng
đã đưa ra các định hướng và giải pháp tái cơ cấu khácnhau đối với từng nhóm ngân
hàng.
 Sáp nhập giữa các ngân hàng
( Nguồn: Đề tài nghiên cứu “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng- Những ẩn số nhìn từ

thông lệ quốc tế” )
Nhóm 09
18
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
Mặc dù có nhiều luồng ý kiến trái chiều hiện nay, tuy nhiên có hai nhóm giải
pháp tái cấu trúc đang được tập trung thực hiện ở Việt Nam đó là: sápnhập các ngân
hàng trong nước với nhau và khuyến khích các NH nước ngoài nắm giữcổ phần tại các
NH trong nước, tăng mức cho phép hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh
vực tàichính ngân hàng. Trong đó, giải pháp sáp nhập NH mạnh với NH yếu để vực dậy
các NH yếu được đánh giá đạt mức hiệu quả cao nhất mặc dù vậy vẫn có nhiều ý kiến
cho rằng giải pháp này sẽ phát sinh chi phí nhất định và có thể làm cho NH mạnh yếu đi.
Giải pháp tái cấu trúc được đồng thuận hiện nay là sáp nhập các NH để phân chia theo
khu vực hoạt động. Tuy nhiên đã phần các vụ sáp nhập hiện nay chủ yếu là gộp “nhỏ”
thành “lớn”, gộp các ngân hàng đang gặp vấn đề khó khăn, quy mô nhỏ lại với nhau.
Mộttrong những thương vụ sáp nhập khá lớn diễn ra giữa 3 ngân hàng TMCP: Sài Gòn
(SCB), Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và Đệ Nhất (Ficombank) tháng 12-2011.
Thương vụ này được nhìn nhận là mang màu sắc "cơ cấu", bởi cả 3 đều không đủ "sức
khỏe" để duy trì hoạt động. Thương vụ khác được nhắc đến nhiều là Ngân hàng TMCP
Nhà Hà Nội (Habubank) sáp nhập vào Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) cũng
có màu sắc "cơ cấu" khi Habubank rơi vào tình trạng yếu về thanh khoản tại thời điểm
đó. Những thương vụ khá lớn khác là Ngân hàng TNHH Mizuho (MHCB) - thành viên
của Tập đoàn Tài chính Mizuho (Nhật Bản) mua 15% vốn tính trên số cổ phần đã phát
hành của Ngân hàng TMCP Ngoại thương (Vietcombank), tương đương 567,3 triệu
USD và Ngân hàng Tokyo-Mitsubishi UFJ (Nhật Bản) mua 20% cổ phần của Ngân hàng
TMCP Công thương (Vietinbank) với giá 743 triệu USD. Trước đó, thương vụ mua bán,
sáp nhập được đánh giá cao phải nói đến Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam (VIỆT
NAMPOST) góp vốn vào Ngân hàng TMCP Liên Việt (LienVietBank) với việc sáp
nhập Công ty Dịch vụ tiết kiệm Bưu điện (VPSC) và LienVietBank. Sau sáp nhập, ngân
hàng có tên gọi mới là Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank).Cuộc
"kết hôn" này đã cho ra đời mô hình ngân hàng bưu điện đầu tiên tại Việt Nam, kết hợp

giữa ngân hàng thương mại truyền thống với dịch vụ tiết kiệm bưu điện.Nhờ đó, vốn
điều lệ của LienVietPostBank tăng từ 5.650 tỷ đồng lên 6.010 tỷ đồng, địa bàn hoạt động
của LienVietPostBank tăng lên hơn 10.000 điểm giao dịch trên toàn quốc.
Dự báo, năm 2013 sẽ có thêm 2 ngân hàng hợp nhất, đó là Ngân hàng TMCP
Phương Tây (WTB) và Tổng Công ty CP Tài chính dầu khí (PVFC). Mặc dù chưa đưa ra
Nhóm 09
19
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
những thông tin chính xác và đầy đủ về cuộc sáp nhập này, song đây có thể cũng là
thương vụ đình đám. Theo các chuyên gia, xu thế sáp nhập để phát triển nguồn lực, cũng
như có thêm kinh nghiệm lớn hơn, sẽ là tất yếu và mua bán, sáp nhập sẽ là giải pháp
"vàng" cho những ngân hàng muốn phát triển
Như vậy, có thể thấy các giải pháp sáp nhập ngân hàng đang được thực hiệnthiên về
giải pháp ngắn hạn, nhằm giải quyết yếu kém về thanh khoản cho các một sốngân hàng
yếu.
Các NHTM Việt Nam được và mất gì từ hoạt động M&A?
Đối với hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng nói riêng,
đây không phải là một vấn đề đơn giản bởi cái được và cái mất luôn đan xen. M&A sẽ
mang lại những giá trị lớn cho cả bên bán lẫn bên mua và đặc biệt hữu ích khi các ngân
hàng rơi vào suy thoái do sức ép cạnh tranh, hay thị trường thay đổi… Những cái được
lớn nhất có thể kể đến là:
Thứ nhất, gia tăng quy mô vốn cũng như tổng tài sản
Sau M&A, các ngân hàng đều có cơ hội gia tăng quy mô vốn và tổng tài sản.
Việc sáp nhập của Habubank vào SHB hay như việc sáp nhập của 3 ngân hàng SCB,
TinNghiaBank và FicomBank thành SCB đã làm tăng giá trị tài sản, vốn điều lệ cũng
như các chỉ số tài chính khác. Sau sáp nhập, tổng tài sản của SHB tăng 28% từ 80.985 tỷ
lên 103.785 tỷ đồng và vốn điều lệ của SHB tăng gần gấp đôi lên 8.865 tỷ đồng, rút ngắn
chênh lệch với các ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu. Vốn điều lệ của SCB tăng
2.5 lần từ 4 ngàn tỷ lên hơn 10 ngàn tỷ đồng, giúp SCB “mới” vươn lên vị trí thứ 5 xét
về quy mô vốn điều lệ, chỉ đứng sau EximBank, VietinBank, VietcomBank, BIDV và

Agribank. Tương tự, việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng khiến tổng
vốn điều lệ của các ngân hàng Việt Nam gia tăng đáng kể. Sau 2 thương vụ bán cổ phần
cho đối tác chiến lược, vốn điều lệ Vietinbank giờ tăng lên 32.661 tỷ VIỆT NAMD, tăng
vốn tự có lên khoảng 45.000 tỷ VIỆT NAMD, đưa VietinBank sẽ trở thành ngân hàng
thương mại có vốn điều lệ lớn nhất và cơ cấu cổ đông mạnh nhất ở Việt Nam.
Thứ hai, nâng cao vị thế ngân hàng nhờ vị thế của đối tác
Việc M&A với các công ty hay ngân hàng lớn sẽ góp phần nâng cao vị thế của
ngân hàng, không chỉ trong nước mà cả trên trường quốc tế. Điều này đã được thể hiện
rõ nét qua các thương vụ M&A ngân hàng tại Việt Nam, đặc biệt ở các thương vụ mua
Nhóm 09
20
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
bán cổ phần có yếu tố nước ngoài. Có thể nói rằng hầu hết các thương vụ trên đều góp
phần làm tăng vị thế ngân hàng. Đơn cử như với việc IFC nắm giữ 10% hay Mitsubishi
Tokyo UFJ nắm giữ 20% cổ phần, vị thế của VietinBank đã tăng lên đáng kể trong con
mắt nhà đầu tư. Ngày 28/12/2012, Công ty xếp hạng danh tiếng Standard & Poor’s đã
tăng mức xếp hạng tín nhiệm nhà phát hành dài hạn của VietinBank từ B+ lên BB- với
triển vọng “ổn định”. S&P cũng tăng mức xếp hạng dài hạn theo khu vực ASEAN của
VietinBank từ “axBB” lên “axBB+”. Mức xếp hạng tín nhiệm nhà phát hành ngắn hạn
của VietinBank vẫn giữ nguyên ở mức B. Đồng thời, trái phiếu không đảm bảo có độ ưu
tiên cao của VietinBank cũng được nâng từ B+ lên BB Tương tự vậy, ngày 16/11/2012,
S&P cũng nâng xếp hạng tín nhiệm EximBank ở mức B+ với triển vọng ổn định
EximBank sẽ được hưởng lợi từ sự hợp tác với cổ đông chiến lược nước ngoài nắm giữ
15% vốn là Tập đoàn Sumitomo Mitsui Banking Corp.
Thứ ba, mở rộng mạng lưới chi nhánh và tiết kiệm chi phí hành chính
Với M&A, thay vì việc gây dựng chi nhánh và phòng giao dịch từ đầu với rất
nhiều chi phí thành lập, xây dựng, mở rộng hệ thống, triển khai mạng lưới phân phối,
ngân hàng có thể tận dụng ngay hệ thống mạng lưới, con người sẵn có của các đối tác.
Điều này không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn giúp giảm đến mức tối đa thời gian thâm
nhập thị trường. Đối với thương vụ ngân hàng Liên Việt sáp nhập với công ty Dịch vụ

Tiết kiệm Bưu điện (VPSC), bởi bản thân đối tác đã có hệ thống mạng lưới lớn nhất
trong cả nước với hơn 10.000 điểm giao dịch tại các bưu cục, vì thế, sau khi sáp nhập họ
đã trở thành một trong các ngân hàng có mạng lưới lớn nhất cả nước, lớn hơn rất nhiều
so với con số 60 điểm giao dịch trên toàn quốc trước khi sáp nhập. Tương tự, với việc
sáp nhập với Habubank, số lượng chi nhánh và phòng giao dịch của SHB tăng gấp rưỡi
từ 141 chi nhánh và phòng giao dịch lên 211 chi nhánh và phòng giao dịch.
Song song với việc tăng điểm giao dịch, việc sáp nhập cũng giúp giảm chi phí thuê văn
phòng, chi phí tiền lương nhân viên, chi phí hoạt động của chi nhánh, phòng giao dịch.
Chi phí giảm xuống đồng nghĩa với doanh thu tăng lên là yếu tố sẽ làm cho hoạt động
của ngân hàng sau sáp nhập-mua lại hoạt động hiệu quả cao hơn.
Thứ tư, tăng cơ sở khách hàng
Bên cạnh việc gia tăng số lượng điểm giao dịch, việc mua bán và sáp nhập còn
làm tăng cơ sở khách hàng nhờ tận dụng hệ thống khách hàng của nhau. Vì mỗi ngân
Nhóm 09
21
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
hàng có một đặc thù kinh doanh riêng phù hợp với tiềm năng vốn có của nó, do vậy khi
kết hợp lại sẽ có những lợi thế riêng để khai thác, bổ sung cho nhau. Thực tế cho thấy,
lũy kế từ thời điểm sáp nhập với Habubank ngày 28/8 đến ngày 28/9/2012, số lượng
khách hàng cá nhân tại SHB tăng thêm là 9.611 khách hàng; số lượng khách hàng tổ
chức tăng thêm là 182 khách hàng; số lượng tài khoản cá nhân tăng thêm là 115.592 tài
khoản và tăng thêm 2.713 tài khoản của các tổ chức kinh tế. Còn đối với các thương vụ
mua bán cổ phần, số lượng khách hàng tăng lên không chỉ là kết quả của phép cộng đơn
thuần từ khách hàng của các đối tác mà chính là nhờ tận dụng lợi thế cộng hưởng và sự
gia tăng vị thế của ngân hàng trên thị trường.
Ngoài những lợi thế trên, hoạt động M&A còn đem lại cho ngân hàng lợi thế về
đa dạng hóa hệ thống dịch vụ, chọn lọc nhân tài cũng như được hưởng những lợi ích về
thuế. Chẳng hạn, sau khi Standard Chartered Bank trở thành cổ đông chiến lược của
ACB, các khách hàng VIP của ACB sẽ được phục vụ trọn gói các yêu cầu giao dịch tài
chính và tư vấn riêng theo phương thức đầu tư tài chính sinh lợi nhất tại Standard

Chartered Bank cũng như có cơ hội nhận ưu đãi tại các địa điểm giao dịch của Standard
Chartered Bank tại Singapore và Malaysia… Đối với vấn đề nhân sự, việc sáp nhập sẽ
tạo cho ngân hàng có cơ hội lựa chọn được đội ngũ nhân sự thực sự có tài, đặc biệt là đội
ngũ cán bộ quản lý cấp trung, từng bước xây dựng được nguồn nhân lực vừa có tâm, vừa
có tầm và lại vừa có tài.
Rõ ràng, đối với các ngân hàng M&A sẽ mở ra một chu kỳ phát triển mới, làm
thay đổi cơ cấu sở hữu, khả năng kiểm soát, điều hành, năng lực tài chính và quy mô
kinh doanh, từ đó góp phần mở ra những cơ hội kinh doanh mới, tăng cường vị thế cạnh
tranh và hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận,
ngân hàng sẽ phải đối mặt với những khó khăn không nhỏ, cả trong và sau quá trình
M&A.
Nhược điểm của việc sáp nhập các ngân hàng
Thứ nhất tổng tài sản tăng nhưng chất lượng tài sản sau M&A lại giảm do các
khoản lỗ và nợ xấu tăng
Trong trường hợp một ngân hàng phải sáp nhập với một ngân hàng yếu và tỷ lệ
nợ xấu cao, mặc dù tổng tài sản có tăng lên nhưng nếu chất lượng tài sản sau M&A
không đảm bảo thì khó có thể nói rằng việc tích hợp giữa hai bên sẽ mang lại cho ngân
Nhóm 09
22
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
hàng mới lợi thế cạnh tranh hơn, hoặc ngang ngửa so với những ngân hàng đang có khối
lượng tài sản tương đương. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh, đến
thương hiệu, vị thế của ngân hàng và sau đó là đến thu nhập của từng người lao động.
Đây chính là một trong những rào cản lớn nhất trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng Việt Nam hiện nay.Với việc sáp nhập Habubank, SHB phải xử lý khoản lỗ nghìn tỷ
và hàng tỷ đồng nợ xấu. Sau khi sáp nhập với Habubank, lợi nhuận trước thuế 9 tháng
của SHB lỗ 1.105 tỷ đồng, trong khi 6 tháng (thời điểm trước sáp nhập) ngân hàng này
lãi hơn 600 tỷ đồng. Nợ xấu của SHB ở thời điểm 30/09/2012 đạt hơn 6.200 tỷ đồng,
chiếm 13,23% tổng dư nợ, trong khi đầu năm trước khi sáp nhập, tỷ lệ nợ xấu của SHB
chỉ ở mức 2,23%.

Thứ hai, ảnh hưởng tới niềm tin của khách hàng
Nếu chỉ thực hiện một phép tính số học, ngân hàng mới sẽ có sự gia tăng về số
lượng khách hàng.Song điều đó chỉ đúng trên sổ sách tại thời điểm sáp nhập, còn sau đó,
ngân hàng có duy trì được cơ sở khách hàng này hay không là cả một vấn đề. Bởi lẽ,
kinh doanh dịch vụ nói chung và dịch vụ ngân hàng nói riêng, yếu tố tâm lý lựa chọn
“nhà cung cấp” luôn là yếu tố đóng vai trò quan trọng quyết định. Hơn nữa, ngân hàng là
lĩnh vực mà hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa vào uy tín và niềm tin.Mọi biến động đều
có thể ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin của khách hàng. Mặc dù một số khách hàng cho
rằng, sáp nhập, hợp nhất sẽ tạo ra một hệ thống NHTM với diện mạo mới hơn, an toàn
hơn và lành mạnh hơn nhờ sự gia tăng về quy mô, nâng cao chất lượng phục vụ và đáp
ứng nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất, nhưng cũng có không ít khách hàng cho
rằng sau khi hợp nhất sáp nhập sẽ có sự thay đổi trong chính sách đãi ngộ khách hàng
hay hoài nghi về hiệu quả hoạt động ngân hàng sau sáp nhập. Điều này có thể dẫn đến sự
sụt giảm số lượng của cả khách hàng hiện hữu và khách hàng tiềm năng.Đây tiếp tục là
một rào cản không nhỏ khi tiến hành hợp nhất, sáp nhập.
Ngoài nguyên nhân khách quan do tâm lý khách hàng, sự cắt giảm nhân sự cũng là
nguyên nhân gây ra tổn thất về khách hàng trong quá trình M&A. Khi một nhân viên rời
khỏi ngân hàng sẽ dẫn đến một phần những khách hàng thân thiết của nhân viên đó cũng
chuyển sang dùng dịch vụ của ngân hàng khác. Việc lấy lại lòng tin của khách hàng hiện
hữu cũng như thu hút khách hàng tiềm năng là một thách thức không nhỏ đối với ngân
hàng hậu sáp nhập.
Nhóm 09
23
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
Thứ ba, khó khăn trong việc tích hợp công nghệ thông tin
Hệ thống ngân hàng lõi là hệ thống phần mềm tích hợp các ứng dụng tin học
trong quản lý thông tin, tài sản, giao dịch, quản trị rủi ro… trong hệ thống ngân hàng. Hệ
thống ngân hàng Việt Nam hiện đang sử dụng rất nhiều hệ thống core banking khác
nhau, như T24, I-flex, TCBS… Khi 2 ngân hàng sáp nhập với nhau, ngoài việc kết hợp
hệ thống cơ sở hạ tầng, nhân sự… thì việc tích hợp hệ thống CNTT là một vấn đề cần

lưu tâm khi các ngân hàng sử dụng core khác nhau. Các ngân hàng đều tốn khoảng thời
gian nhất định khi muốn vận hành một hệ thống core banking mới, bao gồm việc “làm
mới” ngân hàng, cải tổ toàn bộ hoạt động từ tổ chức, đào tạo người, quy trình làm việc…
Do đó, trong khoảng thời gian đầu sáp nhập, hệ thống khách hàng hiện hữu của ngân
hàng bị sáp nhập sẽ vẫn được quản lý dưới hệ thống core banking cũ. Việc này chắc
chắn sẽ gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc quản trị và điều hành ngân hàng do
cùng lúc quản lý hai hệ thống khách hàng riêng rẽ.
Thứ tư, bất ổn về nhân sự
Nguồn nhân lực có chất lượng là tài sản quý giá của ngân hàng và các nhà quản
trị công ty. Nhưng những xáo trộn và những bất ổn trong bản thân đội ngũ nhân sự trước,
trong và sau khi sáp nhập sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động kinh doanh
của các ngân hàng. Chắc chắn những vị trí trùng lặp sẽ được giản lược, đặc biệt những vị
trí lãnh đạo cao nhất ở các vị trí sẽ chỉ còn 1. Việc “ra đi” của nhà quản lý trực tiếp sẽ
kéo theo một ekip các cán bộ cấp trung, đôi khi có thể dẫn tới cạnh tranh nội bộ, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường làm việc trong ngân hàng.
Ngoài sự xáo trộn về hệ thống nhân sự, sự khác biệt về văn hóa công ty và mâu
thuẫn về mục tiêu, tầm nhìn của các Lãnh đạo cũng là những cản trở trong giao dịch sáp
nhập và mua lại. Do đó, chính sách giữ người tài nên được thể hiện rõ ràng và minh bạch
với các tiêu chí cụ thể trong quá trình sáp nhập, không chỉ ở các cấp quản lý mà còn ở tất
cả các cấp trong doanh nghiệp.
 Giải pháp về sự can thiệp của Nhà nước vào tăng vốn tự có của các NHTM
Sau sự lộn xộn của hệ thống ngân hàng những năm đầu thế kỉ 21, thì sự tăng
cường giám sát của NHNN là vấn đề tất yếu xảy ra, NHNN hay Chính phủ tham gia góp
vốn vào các NHTM đã góp phần làm minh bạch hơn hoạt động của hệ thống NH và tạo
được niềm tin cho dân chúng.
Nhóm 09
24
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
Một trong những điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam là quy mô nhỏ, vốn
tự có thấp, theo thông lệ của quốc tế có 4 biện pháp giúp cải thiện vốn cho các NH trong

điều kiện kinh tế khó khăn.
( Nguồn: Đề tài nghiên cứu “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng- Những ẩn số nhìn từ
thông lệ quốc tế” ).
Với cách tăng room cho các nhà đầu tư nước ngoài được đánh giá khá cao.
Các NHTMCP đã chủ động liên kết với các ngân hàng nước ngoài để gia tăng sức mạnh
cạnh tranh của mình. Điển hình là sự liên kết giữa NHTMCP Xuất nhập khẩuViệt Nam
(Eximbank) với Tập đoàn tài chính SUMITOMI MITSUI BANKINGCORPORATION
(SMBC) của Nhật Bản. Theo đó, Eximbank bán 15% vốn cổ phầncho SMBC lấy 225
triệu USD, với giá phát hành cổ phiếu cao gấp 6,42 lần mệnh giá.SMBC cam kết trợ
giúp Eximbank về mặt kỹ thuật, công nghệ, quản gia Hội đồngquản trị của Eximbank.
Những ngân hàng cổ phần khác như ACB, Sacombank,VPbank, Habubank,
Techcombank, đã bán cổ phần cho các cho các đối tác nước ngoàinhư ANZ, HSBC, IFC.
Tuy nhiên, việc mở rộng "room" cho nhà đầu tư nước ngoài trong thời điểm này cũng
không nên coi các ngân hàng nước ngoài là cứu cánh trong bối cảnh khó khăn hiện nay
mà phải đặt chủ quyền quốc gia nên được đặt lên hàng đầu và hãy coi đó là công việc nội
bộ trước khi cần đến sự can thiệp của các tổ chức tài chính quốc tế.
Nhóm 09
25
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hai Hằng
Giải pháp Chính phủ góp vốn đối ứng bên cạnh vốn của tư nhân, mặc dù được
đánh giá đạt mức hiệu quả khá cao, nhưng lại gây ảnh hưởng lớn hơn tới chính sách tài
khóa, tiền tệ làm tăng lượng nắm giữ của nhà nước đối với ngân hàng và có thể dẫn đến
rủi ro đạo đức, giải pháp này chỉ nên thực hiện trong ngắn hạn.
 Giải pháp cải thiện thanh khoản
Để cải thiện khả năng thanh khoản của các NH hiện nay:
Thứ nhất, NHNN cho vay trên cơ sở các tráiphiếu bảo đảm do NHTM phát hành
với mức độ hiệu quả khá cao, tuy nhiên,giải pháp này hiện nay chưa được thực hiện
mạnh ở Việt Nam.
Thứ hai,NHNN bơm vốn cho các NH gặp khó khăn về thanhkhoản được đánh giá
ở mức độ hiệu quả thấp, thì giải pháp này đang được ápdụng khá phổ biến hiện nay. Như

thương vụ sáp nhập ba ngân hàng: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đệ Nhất
(Ficombank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và
Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB). Dù khá nhiều ý kiến cho rằng, việc 3
ngân hàng sáp nhập với nhau không thể tính là mốc đầu tiên đánh dấu sự khởi động của
quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng (bởi ở thời điểm sáp nhập, 3 ngân hàng này
thực sự "trống rỗng"). Nhờ sự đảm bảo của NHNN, vấn đề thanh khoản của ngân hàng
hợp nhất về cơ bản được giải quyết để không gây ra đổ vỡ.
Thứ ba, việc các NH lớn hỗ trợ, hợp tác các NH nhỏ giải quyết khó khăn về thanh
khoản cũng là giải pháp được đánh giá có mức hiệu quả cao nhất, như trường hợp:với sự
tham gia của BIDV với tư cách là đại diện phần vốn của NHNN trong quá trình tái cơ
cấu 03 ngân hàng hợp nhất , những lo lắng về việc hợp nhất ba ngân hàng yếu sẽ không
thể nào cho ra một ngân hàng mới khoẻ mạnh được giải toả; hay việc VCB hỗ trợ một số
NH nhỏ. Ngân hàng nhỏ có một ngân hàng lớn hoặc thành viên HĐQT của ngân hàng
lớn nắm tỷ lệ chi phối.Những ngân hàng nhỏ này có thể sẽ có xu hướng hợp nhất vào
ngân hàng lớn, giúp cho vấn đề về thanh khoản được giải quyết và đảm bảo tốt
hơn.Chẳng hạn, hiện tại ACB là cổ đông lớn tại các ngân hàng như ngân hàng Kiên
Long, ngân hàng Đại Á và ngân hàng Việt Nam Thương Tín.
Nhóm 09

×