Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN Hỗ trợ học sinh học Ngữ văn thông qua một số ứng dụng công nghệ thông tin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.12 KB, 25 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“HỖ TRỢ HỌC SINH HỌC NGỮ VĂN THÔNG QUA MỘT SỐ
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN”
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay công nghệ thông tin (CNTT) chiếm vị trí quan trọng trong đời sống xã
hội. Sự phát triển mạnh mẽ của CNTT đã và đang làm thay đổi cuộc sống con người.
Với máy vi tính, CNTT đã trở nên ngày càng phổ biến trong giáo dục. Công nghệ thông
tin được ứng dụng để giải quyết hầu hết các nhiệm vụ quản lý, điều hành và giảng dạy
trong nhà trường. Ứng dụng CNTT vào dạy-học nói chung và dạy học Ngữ Văn nói riêng
là một xu thế tất yếu. Tuy nhiên thực sự là, hiệu quả dạy học với sự hỗ trợ của máy tính
vẫn chưa được như những gì chúng ta mong muốn.
1. Những điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong
dạy học Ngữ Văn.
Nghị quyết TW2 của Đảng, khóa VIII đã nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương
pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy
sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện
vào quá trình dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học
sinh ”
Xuất phát từ định hướng đó, hiện nay các trường phổ thông đều trang bị phòng
máy, phòng trình chiếu đa năng, nối mạng Internet và Tin học được giảng dạy chính thức,
tạo cơ sở hạ tầng CNTT cho giáo viên sử dụng vào quá trình dạy học của mình. Những
ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng được kết nối với nhau và với người sử dụng qua
những mạng máy tính kể cả Internet … có thể được khai thác để tạo nên những điều kiện
cực kì thuận lợi và nhiều khi không thể thiếu để học sinh học tập trong hoạt động và bằng
hoạt động tự giác, tích cực và sáng tạo, được thực hiện độc lập hoặc trong giao lưu.
Một bộ phận lớn học sinh có điều kiện làm quen tiếp xúc với máy tính và Internet
từ khá sớm. Các em thực sự say mê với những ứng dụng công nghệ thông tin. Như vậy,
nếu biết ứng dụng CNTT hợp lý sẽ thúc đẩy sự hứng thú, yêu thích môn Ngữ Văn trong
học sinh.
Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp


và hình thức dạy học. Tất cả điều kiện đó tác động đến việc dạy và học môn Ngữ Văn.
Người giáo viên Ngữ Văn ngày nay không thể tiếp tục giảng dạy chỉ bằng những phương
pháp dạy học truyền thống trong khi yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đặt ra cho
giáo viên những nhiệm vụ mới phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của xã hội.
2. Những khó khăn đặt ra cho việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy
học Ngữ Văn.
Trước hết người giáo viên Ngữ Văn phải chấp nhận một thực tế là một bộ phận
không nhỏ học sinh ngày càng có xu hướng không thích học Văn nói riêng và khoa học
xã hội nói chung, năng lực tự học hạn chế, thiếu sáng tạo, ít say mê với môn Văn.
Từ trước đến nay việc tổ chức hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức văn chương
thường đi theo cách thức truyền thống khiến giờ học thiếu sinh động, học sinh nhàm
chán.
Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng trong
một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ giáo viên hoàn toàn
trong các bài giảng của họ đặc biệt đối với một bộ môn cần nhiều cảm xúc như môn Ngữ
Văn. Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là kết hợp như thế nào để hài hòa giữa phương pháp
dạy học truyền thống với việc vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học Ngữ Văn.
Những mạch kiến thức đòi hỏi giáo viên phải kết hợp với phấn trắng bảng đen và các
phương pháp dạy học truyền thống mới rèn luyện được kĩ năng cho học sinh như đọc
diễn cảm, cảm nhận về tác phẩm
Việc kết nối và sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để và có chiều sâu; sử
dụng không thường xuyên do thiếu kinh phí, do tốc độ đường truyền. Công tác đào tạo,
Công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chỉ mới dừng lại ở việc xoá mù tin
học nên giáo viên chưa đủ kiến thức, mất nhiều thời gian và công sức để sử dụng công
nghệ thông tin trong lớp học một cách có hiệu quả
Xuất phát từ những điều kiện thuận lợi và các khó khăn trên, chúng tôi mạnh dạn
đặt vấn đề cần phải hỗ trợ học sinh học Ngữ Văn thông qua một số ứng dụng công
nghệ thông tin phổ biến hiện nay với mong muốn tạo cho học sinh niềm hứng thú khi
học tập bộ môn, bước đầu tạo cho học sinh làm quen với cách học tập trong đó đòi hỏi
sự sáng tạo, biết cách tự học, chủ động tìm kiếm tư liệu học tập dưới sự tổ chức hướng

dẫn của giáo viên
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Viện Chiến lược và Chương
trình giáo dục, được thực hiện trong 2 năm (2003-2005) thì có 4 mức ứng dụng CNTT cơ
bản nhất căn cứ vào hoạt động của quản lý, của người dạy và người học:
- Mức 1: Sử dụng CNTT để trợ giúp giáo viên trong một số thao tác nghề nghiệp như
soạn giáo án in ấn tài liệu, sưu tầm tài liệu,… nhưng chưa sử dụng CNTT trong tổ chức
dạy học các tiết học cụ thể của môn học.
- Mức 2: Ứng dụng CNTT để hỗ trợ một khâu, một công việc nào đó trong toàn bộ quá
trình dạy học
- Mức 3: Sử dụng phần mềm dạy học để tổ chức dạy học một chương, một số tiết, một
vài chủ đề môn học
- Mức 4: Tích hợp CNTT vào quá trình dạy học.
Như vậy việc hỗ trợ học sinh học Ngữ Văn thông qua một số ứng dụng công nghệ
thông tin thực chất là triển khai mức 2, 3 và 4. Điều này đặt ra cho người thực hiện những
yêu cầu khá cao và cần có một lộ trình hợp lý, vừa sức phù hợp với điều kiện thực tế và
khả năng của học sinh. Chính vì thế các việc làm của người giáo viên không thể vội vàng
và ép buộc học sinh phải thực hiện. Do vậy, trình tự của các bước thực hiện việc hỗ trợ
học sinh có thể diễn ra như sau:
1. Điều tra thực trạng sự dụng công nghệ thông tin trong học sinh
Với điều kiện kinh tế xã hội phát triển trong những năm gần đây, nhiều gia đình đã
mua sắm máy vi tính, nối mạng internet phục vụ cho các mục đích khác nhau. Vì thế đối
với học sinh, máy vi tính đã không còn xa lạ. Nhiều em đã biết sử dụng thành thạo để
chơi điện tử, chat với bạn bè, nghe nhạc, xem phim ngoài ra một số học sinh đã biết sử
dụng máy vi tính, internet cho các mục đích học tập. Tuy nhiên không phải em nào cũng
sử dụng thành thạo, do vậy người giáo viên cần phải điều tra thực trạng sử dụng công
nghệ thông tin để nắm bắt trình độ và khả năng sử dụng máy vi tính của học sinh để có
các giải pháp hỗ trợ phù hợp.
Việc điều tra có thể tiến hành thông qua các bước sau:
+ Tìm hiểu qua giáo viên dạy tin học: Hiện nay Tin học được giảng dạy ở nhà

trường chủ yếu qua các giờ học tự chọn. Học sinh được học một cách hệ thống kĩ năng cơ
bản sử dụng máy tính, sử dụng các phần mềm văn phòng và một số phần mềm khác.
Thông qua giáo viên dạy Tin học có thể nắm bắt trình độ sử dụng máy tính của học sinh.
+ Lập bảng điều tra: Lập bảng điều tra, hướng dẫn học sinh trả lời để có sự phản
hồi chính xác trung thực. Bảng điều tra được phát đến từng học sinh gồm có các nội dung
sau:
- Nhà em có máy vi tính không ?
- Em có biết sử dụng máy vi tính không ?
- Em thường sử dụng máy vi tính để làm gì ?
- Em thường chơi các trò chơi điện tử nào ?
- Máy vi tính nhà em có kết nối internet không ?
- Bố mẹ em có kiểm sóat việc em sử dụng máy vi tính không ?
- Em thường sử dụng máy vi tính bao nhiêu giờ trong tuần,
- Em thường sử dụng máy vi tính ở đâu ?
- Em thường sử dụng các ứng dụng nào ?
- Em có địa chỉ email không ? Địa chỉ email của em là gì ?
- Em có sẵn sàng sử dụng máy vi tính vào mục đích học tập không ?
- Những khó khăn trở ngại của em khi dùng máy vi tính là gì ?
+ Tổng hợp và thống kê kết quả điều tra: Kết quả điều tra phản ánh được thực trạng
sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin của từng cá nhân học sinh. Thống kê kết quả
điều tra để có định hướng hỗ trợ học sinh học tập. Từ kết quả điều tra giáo viên quyết
định các hình thức hỗ trợ học sinh. Qua quá trình điều tra chúng tôi nhận thấy:
- 90% số học sinh thường xuyên sử dụng máy tính ở nhà hoặc ở điểm dịch vụ
Internet. Thời gian sử dụng máy tính trung bình là 30 phút mỗi ngày.
- 80% gia đình học sinh có máy vi tính trong đó 50% có kết nối internet.
- 90% phụ huynh cho phép con em mình sử dụng máy vi tính tại nhà vào các
mục đích học tập và giải trí.
- 100% học sinh cho biết sẵn sàng sử dụng máy vi tính để học tập nếu có
hướng dẫn.
(Kết quả điều tra 43 học sinh lớp 9 tại trường THCS Nguyễn Du)

Từ kết quả điều tra chúng tôi quyết định chủ yếu nghiên cứu và vận dụng việc hỗ trợ học
sinh học Ngữ Văn ở các khâu:
- Tìm tư liệu học tập thông qua mạng internet,
- Tăng cường làm bài tập ở nhà qua trao đổi email với giáo viên,
- Củng cố kiến thức bằng trò chơi ô chữ.
2. Công tác chuẩn bị:
a. Giáo viên:
Nắm vững chương trình và sách giáo khoa, linh hoạt trong vận dụng phương pháp
giảng dạy. Tìm hiểu và lên kế hoạch dự kiến sẽ hỗ trợ học sinh ở các bài nào, vấn đề gì
một cách cụ thể. Sử dụng tương đối thành thạo các phần mềm ứng dụng công nghệ thông
tin phổ biến như Microsoft Word, Microsoft PowerPoint, hiểu biết cơ bản trong việc sử
dụng Internet để tìm kiếm thông tin, sưu tầm địa chỉ các trang WEB có ích, sử dụng
thành thạo việc trao đổi thông tin qua email (thư điện tử). Tham gia vào các diễn đàn có
liên quan trên mạng Internet. Nếu có điều kiện giáo viên nên lập Blog ( một hình thức
trang WEB) để thông tin cho học sinh những nội dung cần thiết và nhận sự phản hồi từ
học sinh.
Thu thập địa chỉ email của học sinh. Thông báo với Ban giám hiệu nhà trường, Hội
phụ huynh học sinh các công việc mà giáo viên tiến hành. Phổ biến cho học sinh những
yêu cầu của giáo viên khi sử dụng internet
Trong quá trình giảng dạy người giáo viên bổ sung vào bài giảng các kênh hình,
tiếng, màu sắc, các hiệu ứng để tăng tính hấp dẫn sinh động cho giờ học Ngữ Văn. Tuy
nhiên không được biến giờ học Ngữ Văn thành giờ trình diễn. Kết hợp các phương pháp
dạy học đổi mới, tích cực, giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học đa dạng phong phú
bằng phương pháp dạy học trình chiếu, dạy học theo nhóm, dạy học theo dự án để giờ
học sinh động, hiệu quả, học sinh chủ động nắm bắt kiến thức.
b. Học sinh:
Tự học hỏi rèn luyện kĩ năng sử dụng máy vi tính. Có ý thức sử dụng máy vi tính
và các ứng dụng CNTT vào những việc có ích.
Lập hộp thư điện tử và thường xuyên sử dụng để trao đổi thông tin. Nếu có điều
kiện trang bị những phương tiện cần thiết như USB.

Cam kết với giáo viên và phụ huynh sử dụng máy tính đúng mục đích. Thường
xuyên thông báo kịp thời cho giáo viên những bạn trong lớp có những biểu hiện sử dụng
internet, trao đổi thông tin không lành mạnh.
3. Các hình thức hỗ trợ học sinh học tập Ngữ Văn thông qua một số ứng dụng công
nghệ thông tin:
a. Hướng dẫn học sinh tìm kiếm thông tin trên internet.
- Mục đích: Thông qua hoạt động này giúp học sinh tìm kiếm, bổ sung những kiến
thức, thông tin về bài học mà sách giáo khoa chưa có điều kiện cập nhật. Ví dụ như
thông tin và ảnh tác giả văn học, toàn bộ tác phẩm văn học, lời bình từ những người yêu
thích tác phẩm. Từ những thông tin này học sinh sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về tác
phẩm, việc làm này cũng tương tự như giáo viên giao cho học sinh tìm tài liệu trong thư
viện. Ngoài ra hoc sinh có thể dựa vào các nguồn thông tin từ các trang WEB chuyên đề
để làm bài tập bổ sung.
- Cách tiến hành: Trong mỗi tiết học Ngữ văn đều có phần hướng dẫn về nhà. Đây
là công đoạn mà giáo viên định hướng công việc về nhà cho học sinh như làm các bài tập,
tìm tư liệu để soạn bài. Giáo viên có thể kết hợp để hướng dẫn học sinh tìm kiếm thông
tin. Các thông tin cần tìm kiếm có thể là: Cuộc đời và sự nghiệp của tác giả văn học
(phần này SGK thường trình bày rất ngắn gọn), những tác phẩm có giá trị nhất của nhà
văn, đánh giá của các nhà chuyên môn và độc giả về giá trị của tác phẩm, toàn bộ tác
phẩm, hình ảnh về tác giả, các bài hát có thể phục vụ minh họa cho tác phẩm Những tư
liệu này thường được trình bày trong những trang WEB như:
- (bách khoa toàn thư Việt Nam) mục
Văn học
- />- trang WEB của hội nhà văn Việt Nam
-
-
-
-
-
- />- />Trên đây là một số trang WEB của các tổ chức uy tín mà chúng tôi đã kiểm chứng

về tính chân thực của thông tin, không vi phạm thuần phong mĩ tục cũng như không có
những bài viết chống phá đất nước. Người giáo viên có thể yêu cầu học sinh tìm kiếm
một vài vấn đề cụ thể mà sách giáo khoa chưa đề cập, không để học sinh tự do tìm kiếm
dẫn đến thông tin sai lạc, không phù hợp. Ví dụ như: Nguyên bản truyện ngắn Chiếc lược
ngà của Nguyễn Quang Sáng, cập nhật năm mất của các tác giả Chính Hữu, Nhà thơ
Phạm Tiến Duật, Có các bản in Truyện Kiều khắc gỗ nào ? Tìm tranh vẽ về truyện
Kiều Chân dung một số nhà văn, tìm bài hát ca ngợi biển đảo Việt Nam Đây là việc
làm cần hướng dẫn cụ thể vì thông tin trên internet rất đa dạng phục vụ cho nhiều mục
đích khác nhau do vậy giáo viên cần cung cấp địa chỉ từng trang web cụ thể chứa thông
tin cần thiết chứ không để học sinh tự tìm.
Một vài thông tin Internet:
Dữ liệu về Nguyễn Tuân trên wikipedia.org
Dữ liệu về Huy Cận trên thivien.net
Giao công việc tìm kiếm thông tin cho từng nhóm hoặc cá nhân cụ thể. Yêu cầu
học sinh ghi lại thông tin lấy từ nguồn nào để giáo viên kiểm chứng. Tập hợp các thông
tin tìm kiếm được, xử lý và lấy thông tin cần thiết. Giáo viên xem trước và chỉnh sửa báo
cáo của học sinh. Trong giờ học gọi các em trình bày hoặc yêu cầu học sinh lưu trữ để
dùng khi cần thiết.
Việc hướng dẫn học sinh tìm kiếm thông tin trên mạng Internet có những mặt tích
cực như kích thích việc chủ động tìm tòi của học sinh, tạo cho các em hứng thú khi học
tập, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, theo dự án Tuy nhiên giáo viên phải chú
ý theo dõi, định hướng kĩ càng cho học sinh bằng các yêu cầu chọn lọc, vừa sức, không
chiếm nhiều thời gian và quan trong hơn là không truy cập vào các thông tin nhạy cảm
liên quan đến chủ trương đường lối chính sách của Đảng, nhà nước, đến thuần phong mĩ
tục Thông qua việc tìm kiếm thông tin, giáo viên dần dần hình thành cho học sinh thói
quen sưu tầm các tác phẩm văn chương có giá trị về nội dung và nghệ thuật.
b. Sử dụng thư điện tử để tăng cường bài tập cho học sinh
- Mục đích: Hiện nay, với thời gian cho một tiết học trên lớp người giáo viên Ngữ
Văn khó có thể đồng thời kiểm tra việc làm bài tập của học sinh. Điều này dẫn đến tình
trạng có học sinh không biết cách làm bài hoặc làm bài sai mà giáo viên vẫn không biết

ngoài ra vì ít được thực hành kiểm tra trắc nghiệm nên khi làm bài, kĩ năng lựa chọn đáp
án của học sinh cũng không được thuần thục. Từ thực tế trên giáo viên có thể tăng cường
cho học sinh rèn luyện thông qua hệ thống bài tập bổ sung sau mỗi đơn vị bài học hay
mỗi tuần học. Sử dụng thư điện tử, người giáo viên có thể trao đổi trực tiếp với từng học
sinh để giao bài tập thêm. Học sinh tranh thủ thời gian sử dụng máy tính để hòan thành
bài tập và gửi cho giáo viên chấm. Hình thức hỗ trợ này giúp học sinh làm thêm các bài
tập cần thiết đa dạng. giúp học sinh tiếp cận cách học tập hiện đại.
- Cách tiến hành: Giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng thư điện tử (email) sẵn có
( có thể dùng email hoặc nickname mà học sinh đang sử dụng để chơi các trò chơi trên
mạng internet) liên lạc với giáo viên. Tập hợp thành danh sách địa chỉ email của học sinh,
giáo viên chia thành nhiều nhóm học sinh theo từng trình độ từ đó có sự điều chỉnh bài
tập cho hợp lý. Đối với học sinh khá giỏi đề ra phải thể hiện được mục tiêu bồi dưỡng,
còn đối với nhóm học sinh trung bình yếu thì chú ý đến mục tiêu phụ đạo với hệ thống
câu hỏi thiên về kiến thức cơ bản. Giáo viên soạn đề theo tiêu chí đã đặt ra. Bài tập tổng
hợp theo đơn vị kiến thức mà các em đã được học trong tuần. Đề ra không được quá dài
và chủ yếu ở dạng trắc nghiệm để học sinh có thể làm nhanh. Đề bài kiểm tra được giáo
viên gửi thẳng vào hộp thư điện tử của học sinh trong đó có hướng dẫn làm bài cụ thể,
qui định thời gian nộp bài. Giáo viên soạn bảng trả lời để đính kèm vào bài tập, học sinh
trả lời bằng cách điền vào bảng trả lời sau đó gửi lại cho giáo viên. Thông qua ứng dụng
Excel giáo viên có thể tạo ra bảng lọc đáp án đúng. Với cách này giáo viên có thể chấm
bài rất nhanh, nhận xét bài làm, yêu cầu học sinh xem xét chữa những câu sai, sau đó gửi
kết quả bài làm cho học sinh,
Một ví dụ về đề kiểm tra:
ĐỀ THI TRẮC NGHIỆM
Bai chi em Thuy Kieu
Thời gian làm bài: phút;
(10 câu trắc nghiệm)
Mã đề thi
CETK4
Câu 1: Có người cho rằng chân dung của Thuý Vân, Thuý Kiều là những chân dung tính

cách số phận. Đúng hay sai?
A. Đúng. B. Sai.
Câu 2: Các phép tu từ đã sử dụng nhằm thể hiện vẻ đẹp gì của Thuý Vân?
A. Quý phái. B. Phúc hậu.
C. Gợi sự hoà hợp êm đềm. D. Cả A ,B đều đúng.
Câu 3: Theo em với cách miêu tả Thuý Kiều, Nguyễn Du dự báo cuộc đời Kiều diễn ra
theo chiều hướng nào?
A. Trắc trở đau khổ. B. Giàu sang phú quý.
C. Hạnh phúc vinh hiển. D. Bình lặng suôn sẻ.
Câu 4: Bốn câu thơ đầu của đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” có tác dụng gì?
A. Gợi tả vẻ đẹp của Thuý Kiều. B. Gợi tả vẻ đẹp của Thuý vân.
C. Giới thiệu khái quát các nhân vật. D. Cả A, B, C đều đúng.
Câu 5: Đoạn “Chị em thuý Kiều” nói về những nhân vật nào?
A. Thuý Kiều và Kim Trọng. B. Thuý Kiều và Từ Hải.
C. Thuý Kiều và Vương Quan. D. Thuý Kiều và Thuý Vân.
Câu 6: Câu thơ “Kiều càng sắc sảo mặn mà”giới thiệu vẻ đẹp Thuý Kiều ở phương
diện nào?
A. Nụ cười và giọng nói. B. Trí tuệ và tâm hồn.
C. Làn da và mái tóc. D. Khuôn mặt và hàm răng.
Câu 7: “Mai cốt cách tuyết tinh thần” - câu thơ ý nói cả hai chị em:
A. đều trắng như tuyết B. đều xinh đẹp như cây mai
C. đều duyên dáng, thanh cao trong trắng D. cả A, B, C đều sai
Câu 8: Khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân, tác giả không sử dụng phép tu từ nào?
A. Ẩn dụ. B. Nhân hoá. C. So sánh. D. Liệt kê.
Câu 9: Điểm chung trong cách tả hai nhân vật Thuý Vân và Thuý Kiều là:
A. Tả hình dáng để thể hiện tính cách, dự báo số phận.
B. Dùng thủ pháp ước lệ.
C. Lấy vẻ đẹp Thuý Vân làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con người.
D. Cả ba ý trên .
Câu 10: Đoạn “Chị em Thuý Kiều” nằm ở phần nào của Truyện Kiều.

A. Gia biến lưu lạc. B. Gặp gỡ và đính ước.
C. Đoàn tụ với gia đình. D. Cả A,B đều đúng.

HẾT
Điền đáp án vào phần ô trống bên dưới rồi copy phần trả lời này vào thư gửi bài cho
thầy
made cauhoi dapan
CETK4 1
CETK4 2
CETK4 3
CETK4 4
CETK4 5
CETK4 6
CETK4 7
CETK4 8
CETK4 9
CETK4 10

Ngoài ra, thông qua thư điện tử, giáo viên trả lời, giải quyết các các thắc mắc của
học sinh khi thời gian trên lớp không cho phép. Giáo viên cũng có thể gửi cho học sinh
các tư liệu văn học có liên quan
c. Vận dụng trò chơi ô chữ để củng cố kiến thức Ngữ Văn:
- Mục đích: Tạo ra một hoạt động có khả năng thu hút sự chú ý của học sinh trong
những phút cuối của tiết dạy, sinh động hóa giờ học. Học sinh được chơi một trò chơi
ngôn ngữ đòi hỏi sự tư duy nhưng không khô cứng và quá hàn lâm. Nội dung của các từ
hàng ngang, hàng dọc trong ô chữ là nội dung học sinh đã tìm hiểu trong các hoạt động
dạy - học trước đó. Bằng cách này góp phần khắc sâu kiến thức thay vì đặt câu hỏi
hoặc thuyết giảng. Môn Ngữ Văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Kiến thức
của nó liên quan mật thiết đến ngôn ngữ và dựa trên ngôn ngữ. Do vậy áp dụng một trò
chơi ngôn ngữ để khắc sâu kiến thức là việc làm cần thiết. Theo quan điểm dạy học mà

sách giáo khoa mới đã đề ra, học sinh được phát huy tối đa tính tích cực, tính sáng tạo
thông qua các hoạt động, trò chơi chính là “đất lành” để các em thể hiện.
- Cách tiến hành: Khi thiết kế ô chữ giáo viên tập trung vào nội dung kiến thức
học sinh được học trước đó. Kiến thức phải trọng tâm. Tốt nhất là kiến thức có trong sách
giáo khoa. Kiến thức phải có cả phần văn bản, đọc hiểu văn bản, nội dung tiếng Việt và
nội dung tập làm văn. Vì thời gian cho phần củng cố của mỗi tiết học khá ít ( thông
thường là 5phút) nên tổng số các từ hàng ngang và hàng dọc không nên quá 8 từ, đối với
bài tổng kết cả tác phẩm thì không quá 20 từ. Cụm từ không quá dài. Các gợi ý phải được
diễn đạt rõ ràng, trong sáng về ngữ nghĩa. dễ hiểu, nhưng không được dùng chính các từ
có thể tiết lộ thông tin của cụm từ. Nên gợi ý bằng cách hiểu vui, bất ngờ.
Trong bài viết này xin trình bày một kinh nghiệm thực hiện nhanh và có hiệu quả
nhất mà người viết đã lựa chọn trong nhiều cách. Đó là sử dụng phần mềm tin học HOT
POTATOES phiên bản 6.0 - sản phẩm giáo dục của trung tâm máy tính và truyền
thông thuộc đại học Victoria Humanities – Địa chỉ website
Phần mềm này cũng đã được TS Vũ
Hùng giới thiệu trên trang tài nguyên mạng edu.net.vn ( mạng giáo dục – Bộ
GDĐT). Đây là phần mềm miễn phí. Sau khi cài đặt phần mềm này, chúng ta chọn
Jcross trên thẻ Potatoes. Để chương trình có thể tự động giúp tạo ô chữ chúng ta
chọn lệnh Automatic Grid – Maker sau đó đánh các cụm từ đa lựa chọn vào và nhấn
nút lệnh Make the grid máy sẽ tự động tạo ra ô chữ. Sửa chữa các lỗi về Font tiếng
Việt xong chúng ta sẽ có một ô chữ hoàn chỉnh. Mọi hoạt động chỉ mất khoảng 5
phút để hoàn thành ô chữ. Kết hợp trình chiếu để hướng dẫn học sinh củng cố bài học.
Giáo viên cũng có thể sử dụng các ô chữ phức tạp hơn để gửi bài tập cho học sinh.
Ô chữ được thiết kế bằng phần mềm Hotpotatoes
Sau đây là ô chữ tổng kết Truyện Kiều- Giáo viên đã sử dụng ô chữ này như một
bài tập gửi cho học sinh qua thư điện tử:
Ô CHỮ TRUYỆN KIỀU
Ô chữ gồm 16 hàng ngang và 1 cụm từ chìa khóa ở hàng dọc.
Em hãy xem gợi ý bên dưới và điền vào ô chữ. ( chú ý từ không dấu và không có khỏang
cách, vd: THUYKIEU ) Hoặc điền ô chữ vào bảng trả lời bên dưới phần gợi ý rồi gửi

mail cho thầy.
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
1. Thúy Kiều đã khen người này là “khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”
2. Người “thông minh tài mạo tót vời”
3. Người cưu mang giúp đỡ Thúy Kiều
4. Người bị lừa chết đứng giữa trận tiền
5. Nguyễn Du đã dùng điệp ngữ này miêu tả tâm trạng Kiều ở lầu Ngưng Bích
6. Nơi Thúy Kiều hết kiếp đoạn trường
7. Tên một bản nhạc mà Thúy Kiều đã chơi
8. Người có vẻ đẹp “trang trọng khác vời”
9. Người cùng kiếp hồng nhan bạc mệnh như Kiều
10. Đối tượng ghen hờn trước vẻ đẹp của Kiều
11. Một ngày hội trong truyện Kiều
12. Địa danh quê hương của Nguyễn Du
13. Nơi Tú Bà đưa Kiều đến giam lỏng

14. Người bạn đồng môn với Kim Trọng
15. Tên chữ của Nguyễn Du
16. Kẻ đã phô bày bộ mặt con buôn xảo trá đê tiện trong cuộc mua bán Kiều

BẢNG TRẢ LỜI
HÀNG TRẢ LỜI
NGANG
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
Hàng dọc là :
III. KẾT QUẢ ỨNG DỤNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Kết quả:
Từ đầu năm học 2008 – 2009 chúng tôi bắt đầu sử dụng các ứng dụng công nghệ
thông tin hỗ trợ học sinh học Ngữ Văn. Đến nay tổng số học sinh được hỗ trợ mới được
44 học sinh. Trong số này 2/3 học sinh thường xuyên trao đổi trực tiếp với giáo viên qua
email, số còn lại vì không có điều kiện dùng máy tính ở nhà nên các em trao đổi với giáo

viên trên lớp.
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn, học sinh đã thực hiện 8 chuyên đề tìm
kiếm thông tin (Nguyễn Du và truyện Kiều, những mẩu chuyện về lối sống giản dị của
Hồ Chí Minh, một số tác phẩm trong Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, thành ngữ
trong Truyện Kiều, Tiểu sử các nhà thơ hiện đại: Chính Hữu, Phạm Tiến Duật, Huy Cận,
Nguyễn Duy, Các bài thơ tám chữ, Nguyễn Quang Sáng nói về nghề văn và học văn,
Nguyễn Đình Chiểu và Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) nội dung phong phú: văn bản, hình
ảnh, âm thanh
Giáo viên bộ môn cũng đã thực hiện việc giao bài tập bổ sung cho học sinh qua thư
điện tử được 6 bài ( 4 bài trắc nghiệm và hai bài viết cảm nhận tác phẩm văn học.
Đối với việc củng cố kiến thức bằng trò chơ ô chữ: Từ năm học 2005-2006 đến nay
chúng tôi đã tiến hành thực hiện việc vận dụng trò chơi ô chữ để củng cố tiết dạy môn
Ngữ Văn 6 và một số tiết lớp 7. Đến nay số tiết có sử dụng trò chơi này là 10 tiết trong
đó :
- Dạy bình thường: 5 tiết
- Dạy trong tiết thanh tra tại trường : 04 tiết ( được xếp loại Giỏi :3 tiết)
- Dạy thao giảng cụm: 01 tiết ( vận dụng ở lớp 7)
Trong các tiết học sau đó ởû các lớp học áp dụng trò chơi chúng tôi đều sử dụng
chính các nội dung kiến thức trong ô chữ để kiểm tra bài cũ kết quả như sau:
Số HS được
kiểm tra
Trả lời
đúng-
nhanh
Trả lời
đúng
Trả lời
chưa đúng
20 10 7 3
Ở các lớp không áp dụng trò chơi:

Số HS được
kiểm tra
Trả lời
đúng-
nhanh
Trả lời
đúng
Trả lời
chưa đúng
20 7 8 5
Theo đánh giá chủ quan của chúng tôi, giờ học có sử dụng trò chơi ô chữ sôi nổi và
hứng thú hơn. Cho đến nay mặc dù đã tiến hành được gần ba năm học nhưng hoạt động
này vẫn còn mang tính thử nghiệm nên việc tổng kết chưa thể tiến hành. Tuy nhiên có thể
khẳng định các mục đích đặt ra ban đầu đều có kết quả tốt.
2. Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tiễn vận dụng việc hỗ trợ học sinh thông qua các ứng dụng CNTT những
năm học vừa qua và trong học kì I năm học 2008-2009 tại trường THCS Nguyễn Du,
chúng tôi đã bước đầu tổng kết và rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
- Muốn làm tốt việc hỗ trợ học sinh học Ngữ Văn thông qua các ứng dụng công
nghệ thông tin, người giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, sách giáo khoa và
vận dụng tốt phương pháp dạy học môn Ngữ Văn. Ngoài ra người giáo viên cần phải có
kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin tương đối thành thạo.
- Kĩ năng sử dụng máy tính và các ứng dụng internet là việc làm mới mẻ và tương
đối khó nên đối tượng sử dụng phải là học sinh lớp 8, 9 và áp dụng có chọn lọc đối với
học sinh lớp 6, 7.
- Giáo viên phải lập kế hoạch, nghiên cứu bài một cách hệ thống. Chọn lựa những
đơn vị kiến thức thật phù hợp để áp dụng. Các thao tác phải tiến hành cẩn thận. Giáo viên
đóng vai trò là người tổ chức, tư vấn, hướng dẫn học sinh chứ không làm thay học sinh.
-Phải tận dụng được thế mạnh của các phần mềm tin học giáo dục. Thường xuyên
tìm hiểu, cập nhật kiến thức công nghệ thông tin. Đề xuất bàn bạc với lãnh đạo nhà

trường, tổ chuyên môn để tranh thủ được kinh nghiệm cũng như những sự hỗ trợ cần
thiết.
- Giáo viên phải nắm được năng lực thật sự của học sinh để thiết kế chương trình
hỗ trợ phù hợp với từng đối tượng.
- Quán triệt yêu cầu tích hợp 3 phân môn Văn – Tiếng Việt và Tập Làm Văn trong
quá trình xây dựng chương trình hỗ trợ để hoạt động này thực sự bổ ích cho các em khi
học Ngữ Văn trong một chỉnh thể hoàn chỉnh. Mục tiêu cuối cùng của hoạt động phải là
giúp học sinh tiếp thu kiến thức Ngữ Văn và rèn luyện kĩ năng học tập một cách toàn
diện, từng bước tiếp cận với phương pháp dạy học hiện đại.
IV. KẾT LUẬN
Học môn Ngữ Văn đối với học sinh trước hết phải là một niềm vui. Hỗ trợ các em
học tốt sẽ nhen nhóm niềm vui ấy trở thành ngọn lửa đam mê sau này. Nó góp phần tích
cực trong việc đổi mới phương pháp dạy, học trong nhà trường phổ thông. Kết quả mà
chúng tôi có được chưa nhiều nhưng cũng đủ để chúng tôi đủ tự tin và tiếp tục mạnh dạn
áp dụng. Chúng tôi đánh giá rằng một số vấn đề về mặt lý luận vẫn chưa được làm rõ
trong đề tài này vì tài liệu tham khảo còn quá ít, khả năng nghiên cứu còn có hạn tuy
nhiên nó sẽ là tiền đề để chúng tôi tiếp tục làm rõ và áp dụng trong thời gian sắp đến.
Với tinh thần cầu thị chúng tôi xin được lắng nghe ý kiến đóng góp từ các thầy cô
giáo, đồng nghiệp xa gần để đề tài này có thể được đưa vào sử dụng rộng rãi trong quá
trình dạy học ở trường phổ thông.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu nhà trường, các đồng nghiệp
trong tổ Ngữ Văn đã giúp đỡ chúng tôi về tư liệu, phần mềm, phương tiện, đóng góp
nhiều ý kiến bổ ích cho đề tài này.
Pleiku, tháng 12 năm 2008
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 6 + 9
- Sách Giáo viên Ngữ Văn 6 + 9
- Phương pháp giảng dạy Tiếng Việt cấp 2 phổ thông ( Chử Anh Đào –
Nguyễn Chương – 1992)
- Tạp chí Tài hoa trẻ số 37

- Bài trắc nghiệm Ngữ Văn 6+ 9 ( NXB Giáo dục )
- Teaching Practice Handbook - NXB Heinemann
- A Course in Language Teaching – NXB Cambridge
- Phần mềm HOT POTATOES 6.0
- website />- website />- website
- website
- Một số WEBSITE khác có liên quan

×