Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN Vận dụng phương pháp giải quyết vấn đề vào mọi đối tượng học sinh trong tiết Vật lý 8_2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.68 KB, 18 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VÀO
MỌI ĐỐI TƯỢNG HỌC SINH TRONG TIẾT VẬT LÝ 8"
I - Lý do chọn đề tài
Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học của sự nghiệp giáo dục có rất nhiều
phương pháp mà giáo viên đã áp dụng một trong những phương pháp đó là phương pháp
dạy học nêu cao vấn đề.
Quá trình giảng dạy tôi đã nhận thấy nếu giáo viên không sáng tạo trong việc dạy
học tìm ra những tình huống hấp dẫn học sinh thì gây ra sự nhàm chán cho học sinh đôi
khi giáo viên đem đến cho học sinh cảm thấy xa lạ, học sinh không muốn vượt khó khăn
suy nghĩ, kết quả dạy học sẽ không cao số học sinh yêu thích bộ môn sẽ rất ít, vì vậy tôi
thấy dùng phương pháp nêu tình huống trong các giờ dạy thì kích thích mạnh mẽ tính tìm
tòi, tò mò của học sinh, học sinh nhớ rất lâu khắc sâu kiến thức một cách tự nhiên, giờ
học vui vẻ sôi nổi hơn so với phương pháp cũ. Vì như vậy nên tôi đã mạnh dạn dùng
phương pháp dạy học nêu tình huống này vào một số giờ dạy học hơn nữa phương pháp
dạy học tập là do mục đích giáo dục lại được quyết định bởi nhu cầu của hoạt động thực
tiễn của đời sống xã hội, Đương nhiên đời sống xã hội cần những con người sáng tạo có
khả năng khám phá nhưng vẫn có những công việc, những hoạt động chỉ đòi hỏi con
người biết vận dụng những tri thức trong kho tàng văn hoá nhân loại và không phải do
bản thân mình tìm ra. Bởi vậy trong nhà trường trong khi nhấn mạnh sự cần thiết áp dụng
những phương pháp dạy học mang tính tìm tòi, nghiên cứu, khám phá, chúng ta không
loại trừ phương pháp dạy học ứng dụng những tri thức có sẵn rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo
vậy thì việc dạy học giải quyết vấn đề là rất quan trọng, vì mục đích dạy học là tăng
cường dạy học sinh chiếm lĩnh tri thức trong quá trình hình thành và phát triển. Vì lí do
và cơ sở trên nên tôi đã áp dụng phương pháp này vào một số bài giảng ở những cấp độ
khác nhau được phân biệt tuỳ theo mức độ độc lập của học sinh trong hoạt động học tập
để áp dụng. Vẫn còn quan niệm cho rằng dạy học giải quyết vấn đề chỉ thích hợp với học
sinh khá giỏi, nên tôi đã mạnh dạn áp dụng với cả các học sinh bình thường và rất có hiệu
lực, ngoài ra còn một số lý do song nó chỉ là riêng với bản thân chưa phải là chung nên
trong bản sáng kiến này Tôi không trình bày còn nghiên cứu tiếp.


II. Triển khai
Vấn đề nêu tình huống có rất nhiều cách với mỗi bài ta có thể nêu một tình huống
tuỳ theo nội dung kiến thức của bài để đưa ra tình huống cho hợp lý và mục đích cuối
cùng là học sinh giải quyết và sẽ hiểu bài.
Ví dụ : Tình huống bế tắc.
* Trong khi dạy bài: Các chất được cấu tạo như thế nào ( vật lí 8).
- Giáo viên nêu vấn đề: Các chất có vẻ như liền một khối nhưng có thực chúng liền
một khối hay không.
- Học sinh trả lời: Các chất liền một khối.
- Giáo viên: Vậy thì tại sao đường lại lọt vào cốc nước được?
- Giáo viên hỏi tiếp: Tôi có 30Cm
3
rượu và 20Cm
3
nước tổng thể tích là bao nhiêu.
- Học sinh: V = 30 + 20 = 50 (Cm
3
).
Vậy nếu đổ vào chai 50Cm
3
thì vừa vặn.
- Giáo viên: Khi đổ vào chai 50 Cm
3
thì tổng hỗn hợp nhỏ hơn 50Cm3.
So sánh thể tích hỗn hợp < tổng thể tích V1 + V2 tại sao?
- Học sinh không giải thích được.
Đó là một tình huống rất bế tắc học sinh bằng tri thức bình thường không thể giải
thích được. Muốn giải thích được phải dùng tri thức của tiết tới là học: Cấu tạo phân tử.
Sau khi học song 4 nội dung của thuyết giáo viên quay lại vấn đề đặt ra lúc đầu, vậy
các chất có liền một khối hay không thì học sinh hoàn toàn giải quyết tình huống vừa xảy

ra một cách dễ dàng: Các chất không liền một khối.
* Hay khi dạy bài: Mặt phẳng nghiêng ( Vật lí 6).
Giáo viên đưa ra tình huống phán xét.
- Giáo viên: Tại sao khi lên dốc người ta phải làm đường ngoằn ngèo, tại sao ta
không làm đường thẳng từ dưới chân dốc lên đỉnh núi? Tại sao khi làm cầu thang lên gác
lại làm hình chữ chi nhiều bậc mà không làm dốc đứng lên?
- Học sinh trả lời: Làm thế cho đẹp - vì thừa vật liệu.
Để trả lời câu hỏi trên ta phải dùng tri thức mới, đó là quy luật của mặt phẳng
nghiêng sau khi đọc xong bài mặt phẳng nghiêng học sinh sẽ giải quyết cho đỡ mệt và đó
là sự lựa chọn đúng.
Trong khi giảng dạy vật lý vì nó có đặc trưng bộ môn đôi khi một vấn đề chỉ đúng
đối với toán học, về vật lý thì nó không đúng vì thế giáo viên nên đưa ra những tình
huống không phù hợp khi dạy bài: Bức xạ nhiệt ( lý 8).
Trước khi vào bài giáo viên đưa ra tình huống chất khí dẫn nhiệt kém, vậy ngồi gần
bếp lửa ta thấy rất ấm vậy ở đây có phải nhiệt truyền từ bếp đến ta bằng cách dẫn nhiệt
của chất khí không?
- Học sinh trả lời: Do chất khí dẫn nhiệt.
- Giáo viên: Ta học bài hôm nay bức xạ nhiệt các em sẽ trả lời được vấn đề trên.
Giáo viên có thể đưa ra tình thế đối lập trong khi dạy bài: Sự đối lưu (Lý 8)
- Giáo viên: Trong chất rắn có xảy ra hiện tượng đối lưu hay không? tại sao?
- Học sinh: Có xảy ra sự đối lưu theo thuyết cấu tạo phân tử.
- Giáo viên: Các phân tử của chất rắn chuyển động như thế nào? chỉ giao đông xung
quanh vị trí cân bằng vậy trong chất rắn có xảy ra dòng đảo ngược được không?
- Học sinh: Vậy thì chắc chắn sự đối lưu chỉ xảy ra đối với chất lỏng và chất khí.
Sau đây tôi xin trình bày bài soạn giảng cụ thể về phương pháp dạy học nêu tình
huống để áp dụng vào vật lý lớp 8.
Tôi nêu tình huống có vấn đề khi dạy tiết 19 " Sự chuyển hoá và bảo toàn cơ năng".
Tiết 19: sự chuyển hoá và bảo toàn cơ năng
I - Mục tiêu:
Kiến thức: - Phát biểu được định luật bảo toàn cơ năng ở mức biểu đạt như Sách giáo

khoa.
- Biết nhận ra và lấy ví dụ về chuyển hoá lẫn nhau giữa thế năng và động năng trong
thực tế.
Kỹ năng: - Phân tích, so sánh, tổng hợp kiến thức.
- Sử dụng chính xác các thuật ngữ.
Thái độ: Nghiêm túc trong học tập, yêu thích môn học.
II - Chuẩn bị:
Tranh phóng to - hình 17.1
1 quả bóng cao su.
Con lắc đơn và giá treo.
III - Các bước lên lớp:
1. ổn định tổ chức.
2. Kiểm tra bài cũ.
HS 1: - Khi nào nói vật có cơ năng ?.
- Trong trường hợp nào thì cơ năng của vật là thế năng ?.
Trường hợp nào thì cơ năng là động năng ? lấy ví dụ một
vật có cả động năng và thế năng.
HS 2: - Động năng, thế năng của vật phụ thuộc vào yếu tố nào ?.
- Chữa bài tập 16.1
* Tổ chức tình huống học tập: như phần mở bài SGK.
3. Nội dung bài mới.
phương pháp
nội dung
Hoạt động của Giáo viên
Hoạt động của học
sinh
Hoạt động 2:
GV: Cho HS làm thí nghiệm
hình 17.1; kết hợp với quan
sát tranh phóng to hình 17.1.

Lần lượt nêu các câu hỏi C
1
đến C
4.
GV: Yêu cầu HS hoạt động
nhóm trả lời các câu hỏi này.
HS: làm TN thả quả
bóng rơi như đã hướng
dẫn hình 17.1, quan sát
quả bóng rơi kết hợp
hình 17.1 thảo luận trả
lời câu hỏi từ C
1
đến C
4
I - Sự chuyển hoá của các
dạng cơ năng.
*Thí nghiệm 1:
C
1
: (1) giảm; (2) tăng
C
2
: (1) giảm; (2) tăng
C
3
: (1) Tăng; (2) Giảm
- Qua thí nghiệm 1:
?. Khi quả bóng rơi: năng
lượng đã được chuyển hoá từ

dạng nào sang dạng nào ?.
?. Khi quả bóng nảy lên:
Năng lượng đã được chuyển
hoá từ dạng nào sang dạng
nào ?.
GV: Tóm tắt ghi kết quả lên
bảng.
GV: Hướng dẫn học sinh làm
thí nghiệm 2 theo nhóm,
quan sát hiện tượng sảy ra
thảo luận hoàn thành câu hỏi
từ C
5
đến C
8
.
HS: Thế năng chuyển
hoá thành động năng.
HS: Khi quả bóng nảy
lên: động năng chuyển
hoá thành thế năng.
HS: Làm thí dụ theo
nhóm dưới sự hướng
dẫn của GV
Thảo luận nhóm C
5
đến
C
8
(3) Tăng; (4) Giảm

C
4
: (1).A; (2).B; (3).B;
(4).A
*Nhận xét: - Khi quả bóng
rơi: thế năng chuyển hoá
thành động năng.
- Khi quả bóng nảy lên:
động năng chuyển hoá thành
thế năng.
* Thí nghiệm 2:
C
5
: a, Vận tốc của con lắc
tăng dần.
b, Vận tốc của con lắc
giảm dần.
C
6
: a, Con lắc đi từ A về B:
thế năng chuyển hoá thành
động năng.
b, Con lắc đi từ B lên C
C
7
: ở vị trí A và C thế năng
GV: Qua thí nghiệm 2, các
em rút ra nhận xét gì về sự
chuyển hoá năng lượng của
con lắc dao động xung quanh

vị trí cân bằng B
HS: Nêu đượ nhận xét
như kết luận SGK.
của con lắc lớn nhất. ở vị trí
B động năng của con lắc lớn
nhất.
C
8
: ở vị trí A và C động
năng của con lắc nhỏ nhất
(bằng 0). ở vị trí B thế năng
nhỏ nhất.
* Kết luận: SGK.
II - Hoạt động 3;
GV: Thông báo định luật bảo
toàn cơ năng như chữ in đậm
SGK.
GV: Thông báo chú ý SGK
HS: Ghi định luật bảo
toàn cơ năng của vật.
HS: Chú ý lắng nghe
II - Bảo toàn cơ năng.
* Định luật: SGK
* Chú ý: SGK.
III - Hoạt động 4:
GV: Yêu cầu học sinh phát
biểu định luật bảo toàn
chuyển hoá cơ năng.
- Nêu ví dụ thực tế về sự
chuyển hoá cơ năng.

HS: Học sinh ghi nhớ
định luật bảo toàn cơ
năng tạ lớp.
III - Vận dụng.
C
9
: a, Thế năng của cánh
cung chuyển hoá thành động
năng của mũi tên.
GV: Yêu cầu học sinh làm
câu 9
Chú ý: Phần C, yêu cầu HS
phân tích rõ 2 quá trình vật
chuyển động đi lên cao và
quá trình vật rơi xuống.
HS: Lấy ví dụ thực tế
về sự chuyển hoá cơ
năng.
HS: Cá nhân làm câu
hỏi C
9
b, Thế năng chuyển hoá
thành động năng.
c, Khi vật đi lên động
năng chuyển hoá thành thế
năng. Khi vật đi xuống thì
thế năng chuyển hoá thành
động năng.
4. Củng cố.
- Nêu định luật bảo toàn chuyển hoá cơ năng.

- Làm bài tập 17.1; 17.2
- Đọc mục "Có thể em chưa biết"
5. Hướng dẫn về nhà:
- Học thuộc phần ghi nhớ.
- Làm các bài tập của bài 17.
- Trả lời câu hỏi phần A - ôn tập chương 1 vào vở.
Hướng dẫn bài tập 17.3.
- Yêu cầu học sinh đọc đề bài.
- Phân tích quá trình viên bi chuyển động.
Lưu ý: Vừa ném lên ở độ cao H, viên bi vừa có động năng vừa có thế năng.
6. Rút kinh nghiệm.
Trước khi dạy bài giáo viên nêu được tình huống có vấn đề để học sinh và giáo viên
giải vấn đề, bài giảng dễ hiểu kích thích được tính tò mò sáng tạo của học sinh, học sinh
hiểu bài sâu sắc.
* Ví dụ tiếp theo: Khi dạy bài "Nhiệt năng " Tôi cũng nêu ra các tình huống có vấn
đề.
Bài 21: nhiệt năng
I - Mục tiêu.
1. Kiến thức:
- Phát biểu được định nghĩa nhiệt năng và mối quan hệ của nhiệt năng với nhiệt độ
của vật.
- Tìm được ví dụ về thực hiện công và truyền nhiệt.
- Phát biểu được định nghĩa và đơn vị nhiệt lượng
2. Kỹ năng: Sử dụng đúng thuật ngữ như: Nhiệt năng, nhiệt lượng, truyền nhiệt
3. Thái độ: Trung thực, nghiêm túc trong học tập.
II - Chuẩn bị:
* GV: - 1 quả bóng cao su - 2 miếng kim loại (hoặc 2 đồng xu)
- 1 phích nước nóng - 2 thìa nhôm
- 1 cốc thuỷ tinh - 1 banh kẹp, 1 đèn cồn, diêm.
* Mỗi nhóm học sinh:

- 1 miếng kim loại hoặc 1 đồng tiền bằng kim loại
- 1 cốc nhựa + 2 thìa nhôm.
III - Các bước lên lớp.
1 - ổn định tổ chức
2 - Kiểm tra bài cũ: Hoạt động 1.
HS 1: - Các chất được cấu tạo như thế nào ?.
- Giữa nhiệt độ của vật và chuyển động của các nguyên tử, phân tử
cấu tạo nên vật có quan hệ như thế nào ?.
- Trong quá trình cơ học, cơ năng được bảo toàn như thế nào ?.
HS 2: Chữa bài tập 20.5
* Tổ chức tình huống học tập.
Giáo viên: làm thí nghiệm thả quả bóng rơi, yêu cầu học sinh quan sát mô tả hiện
tượng (học sinh quan sát mô tả )
Giáo viên: Trong hiện tượng này cơ năng của quả bóng giảm dần. Cơ năng của quả
bóng đã biến mất hay chuyển hoá thành dạng năng lượng khác ?. Bài học hôm nay sẽ
giúp chúng ta đi tìm câu trả lời.
3. Bài mới.
Phương pháp
nội dung
Hoạt động của Giáo viên
Hoạt động của học
sinh
Hoạt động 2:
GV: - Yêu cầu học sinh nhắc
lại khái niệm động năng của
HS: Cá nhân nghiên
cứu mục I - Nhiệt năng,
I - Nhiệt năng
một vật.
- Yêu cầu học sinh đọc phần

thông báo mục I - Nhiệt
năng.
Gọi 2 học sinh trả lời câu
hỏi:
+ Định nghĩa nhiệt năng ?
+ Mối quan hệ giữa nhiệt
năng và nhiệt độ ?. Giải thích
?.
GV: Chốt lại kiến thức đúng.
GV: Như vậy để biết nhiệt
năng của một vật có thay đổi
hay không ta căn cứ vào
nhiệt độ của vật có thay đổi
hay không ta căn cứ vào
nhiệt độ của vật có thay đổi
hay không ⇒ có cách nào
trả lời câu hỏi.
HS: - Nêu định nghĩa
nhiệt năng.
- Nêu mối quan hệ giữa
nhiệt năng và nhiệt độ.
+ Nhiệt năng của vật bằng
tổng động năng các phân tử
cấu tạo nên vật.
+ Mối quan hệ giữa nhiệt
năng và nhiệt độ: Nhiệt độ
của vật càng cao thì các
phân tử cấu tạo nên vật
chuyển động càng nhanh và
nhiệt năng của vật càng lớn.

làm thay đổi nhiệt năng của
vật ?.
Hoạt động 3:
GV: Nêu vấn đề để học sinh
thảo luận:
+ Nếu ta có một đồng xu
bằng đồng, muốn cho nhiệt
năng của nó thay đổi (tăng)
ta có thể làm thế nào ?.
Gọi một số học sinh nêu
phương án làm tăng nhiệt
năng của đồng xu. Giáo viên
ghi bảng phân 2 cột ứng với
2 cách làm thay đổi nhiệt
năng.
GV: Yêu cầu HS làm C
1

?. Hãy nêu kết quả làm thí
nghiệm của nhóm em.
?. Tại sao em biết nhiệt năng
của đồng xu thay đổi
(tăng) ?. Nguyên nhân nào
làm tăng nhiệt năng ?.
HS: Thảo luận theo
nhóm đề xuất phương
án làm tăng nhiệt năng
của đồng xu.
HS: Đại diện 2, 3 học
sinh nêu phương án.

HS: Trả lời câu hỏi C
1
HS: Khi thực hiện công
lên miếng đồng, nhiệt
độ của miếng đồng tăng
II - Các cách làm thay đổi
nhiệt năng.
1. Thực hiện công
C
1
: + Cọ sát đồng xu vào
lòng bàn tay
+ Cọ sát đồng xu vào
quần áo
+ Cọ sát đồng xu vào
mặt bàn
2. Giáo viên: Yêu cầu học
sinh làm tăng nhiệt năng của
chiếc thìa nhôm không bằng
cách thực hiện công.
GV: cho học sinh làm thí
nghiệm:
- Sau thí nghiệm GV hỏi: Do
đâu mà nhiệt năng của chiếc
thìa nhôm tăng ?.
- Thông báo: nhiệt năng của
nước nóng giảm. Có thể làm
thay đổi nhiệt năng của vật
không cần thực hiện công gọi
là truyền nhiệt.

GV: yêu cầu HS nêu phương
án làm giảm nhiệt năng của
đồng xu, nêu rõ đó là cách
thực hiện công hay truyền
nhiệt ?.
GV: Chốt lại 2 cách làm thay
đổi nhiệt năng của một vật.
nên nhiệt năng của
miếng đồng tăng.
HS: Nêu các phương án
làm tăng nhiệt năng của
chiếc thìa nhôm.
HS: Suy nghĩ trả lời câu
hỏi
HS: Nêu cách làm
giảm nhiệt năng của
đồng xu thực hiện bằng
cách truyền nhiệt cho
vật khác có nhiệt độ
thấp hơn so với nhiệt độ
2. Truyền nhiệt:
C
2
: Hơ trên ngọn lửa
Nhúng vào nước nóng
- Thả đồng xu vào nước đá.
* Kết luận: 2 cách làm thay
của đồng xu.
HS: Ghi kết luận vào vở
đổi nhiệt năng của vật đó là:

thực hiện công và truyền
nhiệt.
Hoạt động 4:
GV: Thông báo định nghĩa
nhiệt lượng, đơn vị đo nhiệt
lượng.
- Cho học sinh phát biểu lại
nhiều lần.
?. Qua các thí nghiệm khi
cho 2 vật có nhiệt độ khac
snhau tiếp xúc:
+ Nhiệt lượng truyền đi từ
vật nào sang vật nào ?.
+ Nhiệt độ các vật thay đổi
như thế nào ?.
GV: Thông báo: muốn cho
1g nước nóng lên 1
0
thì cần
nhiệt độ khoảng 4J
HS: Ghi vở và phát biểu
lại nhiều lần định nghĩa
nhiệt lượng.
HS: Suy nghĩ trả lời.
III - Nhiệt lượng:
* Định nghĩa: Phần nhiệt
năng mà vật nhận thêm hay
mất bớt đi trong quá trình
truyền nhiệt được gọi là
nhiệt lượng.

Đơn vị là Jun (kí hiệu J)
Hoạt động 5
GV: Qua bài học hôm nay HS: Nêu phần ghi nhớ
IV - Vận dụng:
C
3
: Nhiệt năng của miếng
chúng ta cần ghi nhớ những
vấn đề gì ?. Giáo viên yêu
cầu học sinh trả lời câu hỏi
C
3
, C
4
, C
5.
cuối bài.
HS: Trả lời các câu hỏi
C
3
, C
4
, C
5.
đồng giảm, nhiệt năng của
nước tăng. Đồng đã truyền
nhiệt cho nước.
C
4
: Cơ năng chuyển hoá

thành nhiệt năng. Đây là sự
thực hiện công.
C
5
: Cơ năng của quả bóng
đã chuyển hoá thành nhiệt
năng của quả bóng, của
không khí gần quả bóng và
mặt sàn.
4. Củng cố:
- Nhiệt năng của vật là gì ?. có mấy cách làm thay đổi nhiệt năng, đó là cách nào ?.
- Nhiệt năng và nhiệt độ có mối quan hệ như thế nào ?.
- Nhiệt lượng là gì ?.
- Làm bài tập 21.1; 21.2
5. Hướng dẫn về nhà:
- Học kỹ phần ghi nhớ.
- Làm bài tập 21.3 đến 21.6 (Sách bài tập).
- Đọc mục "Có thể em chưa biết"
- Nghiên cứu trước bài 22, chuẩn bị thí nghiệm trong bài.
VI - Rút kinh nghiệm:
Tình huống nêu ra khắc sâu cho học sinh, vấn đề được giải quyết, học sinh hiểu bài
vận dụng được.
Trên đây là 2 trong số giáo án Tôi đã áp dụng để dạy học sinh lớp 8, Tôi được dạy 2
lớp 8 Tôi đã thử nghiệm và so sánh với các lớp Tôi áp dụng và với một lớp Tôi không áp
dụng, thì 1 lớp kia hiểu bài rõ rệt hơn kết quả học tập cao hơn, lớp sôi nổi hơn.
Qua kiểm tra trắc nghiệm với lớp 8 Tôi không dùng phương pháp này sau khi dạy
kiểm tra 15 phút kết quả như sau:
Lớp Tổng số Giỏi Khá TB Yếu Kém
8A
4

34 0 6 22 6 0
% 100% 0 18% 64% 18% 0
Với lớp 8A
1
khi dạy đã áp dụng nhiều tình huống nên kết quả nâng lên rõ rệt:
Lớp Tổng số Giỏi Khá TB Yếu Kém
8A
1
27 3 11 12 1 0
% 100% 11% 41% 44% 4% 0
* Kết luận
Ngành giáo dục và đào tạo đã có một cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học,
trong đó học giải quyết vấn đề được đề cập và quan tâm như một biện pháp hữu hiệu để
người học hoạt động tự giác, tích cực, độc lập và sáng tạo trong quá trình học tập. Góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Vì vậy tôi cùng các đồng chí trong tổ đã mạnh dạn áp dụng phương pháp dạy học
này vào bộ môn của mình, đặc biệt đối với tất cả các đối tượng giỏi, khá, trung bình, yếu
đều áp dụng được phương pháp này kết quả bước đầu đã có khả quan gây một niềm tin ở
khả năng giáo viên cũng như sự tiếp thu ở học sinh.
Tuy có nhiều khó khăn vì học sinh trong một lớp còn quá đông, chất lượng học sinh
không đồng đều nhưng với sự quan tâm giúp đỡ của chuyên môn, của đồng nghiệp chắc
chắn tôi sẽ vượt qua khó khăn để thực hiện giải pháp làm nâng cao chất lượng học sinh,
đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giáo dục.

×