Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Luận Văn Nghiên cứu đặc điểm các hệ thống sản xuất ở vùng ven đô thành phố Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.54 KB, 48 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Bất kì một quốc gia nào trên thế giới cũng đều được tạo hoá ban tặng đầy đủ
cho các vùng đất như: như vùng đồng bằng, vùng ven biển, vùng ven đô, vùng gò đồi.
Tuy nhiên về diện tích và sự phân bố của các vùng ở các nước cũng như trong một
nước là khác hẳn nhau. Việt Nam với 3/4 diện tích gò đồi là một thí dụ điển hình. Các
vùng này có sự khác biệt đáng kể về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội. Do đó mà đã
hình thành nên các hệ thống sản xuất đặc trưng cho các vùng ( đánh bắt và nuôi trồng
thuỷ sản là hệ thống sản xuất chính ở vùng ven biển…). Điều này lí giải sự đa dạng về
sản phẩm nông nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên hiện nay ở các vùng còn đang xảy ra tình trạng đó là việc bố trí cơ
cấu cây trồng, vật nuôi là chưa hoàn toàn hợp lí, chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế
của vùng. Do đó mà hiệu quả mang lại từ sản xuất nông nghiệp là chưa cao. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến điều này nhưng nguyên nhân sâu xa vẫn là do người dân của các
vùng chưa xác định được hệ thống sản xuất nào phù hợp với điều kiện của vùng. Với
mục đích là được biết rõ hơn về hệ thống sản xuất ở vùng ven đô nên em sẽ tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm các hệ thống sản xuất ở vùng ven đô thành
phố Huế (xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế). Phú Mậu là một xã
của huyện Phú Vang, cách thành phố Huế 5Km về phía đông bắc.
1.2. Mục Tiêu Nghiên Cứu
- Mục tiêu chung:
Nghiên cứu đặc điểm hệ thống sản xuất ở vùng ven đô thành phố Huế ( xã Phú
Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
- Mục tiêu cụ thể
+ Tìm hiểu đặc điểm nguồn lực của nông hộ:
+ Nghiên cứu các hệ thống sản xuất ở cấp nông hộ: TT, CN, NTTS, chế biến.
+ Nghiên cứu hệ thống cung ứng về đầu vào và đầu ra của các sản phẩm của hệ
thống
+ Nghiên cứu hệ thống sản xuất ở cấp độ cộng đồng
1
PHẦN 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Khái niệm sản xuất, đầu vào, đầu ra
Sản xuất là quá trình sử dụng các yếu tố đầu vào để tạo ra các sản phẩm đầu ra.
* Đầu vào là các nguồn lực. nhờ có nó mà các hoạt động sản xuất mới diễn ra đựơc.
* Đầu ra là kết quả mong đợi của một quá trình sản xuất.
2.1.2. Khái niệm hệ thống.
Theo Đào Thế Tuấn thì hệ thống là các tập hợp trật tự bên trong ( hay bên ngoài )
của các yếu tố có liên quan với nhau ( hay tác động lẫn nhau ). Thành phần của hệ thống là
yếu tố. Các mối liên hệ và tác động giữa các yếu tố bên trong mạnh hơn so với yếu tố bên
ngoài hệ thống và tạo nên một trật tự bên trong của hệ thống. một hệ thống là một nhóm
các yếu tố tác động lẫn nhau hoạt động chung cho một mục đích chung [1].
2.1.3. Khái niệm hệ thống nông nghiệp.
Hệ thống nông nghiệp ( HTNN) là sự hiểu biết không gian của sự phối hợp các
nghành sản xuất và các kĩ thuật do một xã hội thực hiện để thỏa mãn các nhu cầu. Nó
biểu hiện đặc biệt sự tác động qua lại giữa một hệ thống sinh học và sinh thái mà môi
trường tự nhiên là đại diện và một hệ thống xã hội văn hóa qua các hoạt động xuất
phát từ những thành quả kĩ thuật khoa học [2].
2.1.4. khái niệm hệ thống canh tác (HTCT) ,
Một số nhà khoa học mĩ cho rằng: HTCT là sự bố trí một cách thống nhất và các
nghành nghề trong nông trại, được quản lí bởi hộ gia đình trong môi trường tự nhiên,
kinh tế xã hội phù hợp với mục tiêu và nguồn lực của nông hộ.
2.1.5. Khái niệm hệ thống trồng trọt (HTTT).
Hệ thống trồng trọt là một hệ thống con và trung tâm của hệ thống nông nghiệp,
cấu trúc của nó quyết định sự hoạt động của các hệ thống phụ khác như chăn nuôi, chế
biến [3].
Với khái niệm về HTCT như trên thì HTTT là bộ phận chủ yếu của HTCT.
Hệ thống cây trồng là việc thực hiện mô hình canh tác cây trồng có sự liên quan
giữa những cây trồng này với môi trường bên ngoài bao gồm thích nghi điều kiện tự
nhiên, lao động và cách quản lí để cho hiệu quả kinh tế cao [2].
2

- Khái niệm về cơ cấu cây trồng
Cơ cấu cây trồng là thành phần và các loại giống cây trồng bố trí theo không
gian và thời gian trong một cơ sở hay một vùng sản xuất nông nghiệp [3]
Nghiên cứu về hệ thống sản xuất là một vấn đề rất phức tạp vì nó liên quan đến
nhiều yếu tố như: Đất đai, khí hậu, vốn, trình độ khoa học kĩ thuật, vấn đề sâu bệnh,
dịch bệnh, thị trưòng…Mục đích của việc nghiên cứu các hệ thống sản xuất là nhằm sử
dụng có hiệu quả đất đai, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi Đồng thời xem xét
sự tác động qua lại giữa các cây trồng, giữa trồng trọt với chăn nuôi, với nuôi trồng
thủy sản và tới hệ thống chế biến.
2.1.6. Thành phần của hệ thống nông nghiệp
Theo Đào Thế Tuấn thành phần của hệ thống nông nghiệp bao gồm: môi trường
tự nhiên như đất, khí hậu, nước ; môi trường kinh tế, xã hội như thể chế quan hệ tổ
chức, nhà nước, thị trường, xã hội dân sự và hộ nông dân. Trong môi trường kinh tế xã
hội thì thể chế đóng một vai trò cực kì quan trọng. Thành phần của hệ thống nông
nghiệp được biểu diễn ở sơ đồ sau:
3
Thể chế là các cản trở do con người đặt ra để hình thành các mối quan hệ giữa
người, giữa các tổ chức.
Thể chế bao gồm các luật chơi của xã hội bao gồm có các luật hình thức (hiến pháp,
điều lệ, luật lệ và quy định) và các ràng buộc phi hình thức (tiêu chuẩn, công ước và
các quy tắc đối xử) và các đặc điểm ép buộc của chúng. Bản thân thị trường cũng là
một thể chế. Thể chế tạo ra thị trường có hiệu quả. Thị trường hiệu quả là các thể chế
có chi phí trao đổi thấp và tạo ra lợi ích kinh tế để các tác nhân cạnh tranh với nhau qua
giá và chất lựơng.
2.1.7. Các đặc tính của hệ thống
Đất
Nướ
c
Quyết định
Môi trường tự nhiên

Hộ nông dân
Môi trường kinh tế xã hội
Trồng trọt
Phi nông
nghiệp
Chăn nuôi
Thể chế
quan hệ
tổ chức
Khí
hậu
4
Thị trường
Nhà nước
Xã hội dân sự
Vốn
Lao
động
Theo Kepas(1983), Cao Liêm và các cộng sự (1998) hệ sinh thái nông nghiệp bao
gồm 6 đặc tính cơ bản sau:
- Sức sản xuất
- Sức sản xuất là khả năng sản xuất ra giá trị sản phẩm trên một đơn vị tài nguyên
( đất, lao động, năng lượng, tiền vốn ) đơn vị đo lường có thể là tấn/ha, tạ/ha sức
sản xuất của hệ thống nông nghiệp tăng, giảm hay cân bằng theo thời gian.
- Khả năng sinh lợi: khả năng sinh lợi là hiệu quả kinh tế ( cho người sản xuất và xã
hội) của một hệ thống nông nghiệp.
- Tính ổn định: tính ổn định của một hệ thống nông nghiệp là khả năng duy trì sức
sản xuất khi có rủi ro hay thay đổi điều kiện thời tiết, điều kiện kinh tế thị trường.
Tính ổn định này đựoc đo lường từ hệ số biến động của sức sản xuất.
- Tính bền vững: là khả năng duy trì sức sản xuất của hệ thống trong thời gian dài

khi chịu tác động của stress hoặc sự đảo lộn. Một hệ thống nông nghiệp bền vững
được coi là bền vững khi bị stress xảy ra sức sản xuất có thể bị giảm nghiêm trọng sau
đó sức sản xuất đựợc phục hồi và duy trì ổn định.
- Tính công bằng: đựơc đo lường bằng sự phân bố tài nguyên đến những người tham
gia sản xuất trong cùng hệ thống.
- Tính tự chủ: tính tự chủ của hệ thống đựoc biểu thị bằng khả năng tự vận hành sao
cho có hiệu quả mà ít lệ thuộc vào môi trường.
Trong sáu đặc tính trên gồm cả đặc tính về sinh học và đặc tính về xã hội của hệ
thống.
2.1.8. Các loại hệ thống nông nghiệp
- Nông nghiệp du canh: Nông nghiệp du canh là sự thay đổi nơi sản xuất từ vùng
này sang vùng khác, từ khu vực đất này sang khu vực đất khác sau khi độ phì của đất
đã nghèo kiệt.
- Hệ thống du mục: Du mục là một phương thức sản xuất nông nghiệp chủ yếu gắn
liền với các hệ thống chăn nuôi được di chuyển liên tục từ vùng này sang vùng khác.
Các kiểu du mục: Du mục hoàn toàn là sự di chuyển đàn gia súc của họ từ vùng này
đến vùng khác quanh năm. Họ đều không có nhà cửa cố định và không có hoạt động
trồng trọt. Bán du mục là những người dân chỉ nuôi và chăn thả đàn gia súc theo mùa
của đồng cỏ tự nhiên.
5
- Hệ thống nông nghiệp cố định: Là các hoạt động sản xuất nông nghiệp của
người dân được tiến hành trên những vùng, khu vực hay trên các mảnh đất cố định qua
các năm. Bao gồm các kiểu hệ thống nông nghiệp sau:
+ Hệ thống nông nghiệp chuyên môn hóa: Là những hệ thống nông nghiệp chuyên
sản xuất một hoặc hai loại sản phẩm nhất định. Từ đặc điểm của điều kiện tự nhiên, vị
trí đại lí của vùng, hay tập quán xã hội của một vùng nào đó. Được phân công của xã
hội mà được sản xuất một hoặc 2 loại sản phẩm chính.
+ Hệ thống nông nghiệp cố định hỗn hợp: Là hệ thống sản xuất bao gồm nhiều
loại sản phẩm cả sản phẩm trồng trọt lẫn sản phẩm chăn nuôi
+ Một số hệ thống nông nghiệp cố định phát triển có tính điển hình như: Hệ thống

VACR, SALT
2.1.9. Vai trò của các hệ thống sản xuất
Các hệ thống sản xuất như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản có vai trò
vô cùng quan trọng tới đời sống của mỗi hộ gia đình nói riêng và cả xã hội nói chung.
Vì nó cung cấp lương thực, thực phẩm là những sản phẩm vô cùng thiết yếu cho sự
sống của mỗi con người. Đồng thời các hệ thống sản xuất này hàng năm đem về cho
nước ta một nguồn thu ngoại tệ tương đối lớn thông qua việc xuất khẩu các sản phẩm
của hệ thống. Thật vậy việt nam là quốc gia đứng hàng đầu trện thế giới về xuất khẩu
các sản phẩm nông nghiệp như: Gạo, tiêu, hải sản
Chế biến là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất, đây là khâu vô cùng quan
trọng vì nó là yếu tố để nâng cao giá trị sản phẩm của các hệ thống trồng trọt, nuôi
trồng thủy sản, chăn nuôi. Nhưng nhìn chung so với các hệ thống trên thì hệ thống này
là còn kém phát triển hơn. Do đó mà các sản phẩm nông nghiệp của nước ta bán ở dạng
thô chiếm tỉ lệ cao.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Các nghiên cứu có liên quan
* Các nghiên cứu về hệ thống trồng trọt
Trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu (kể cả trong nước và
ngoài nước) về lĩnh vực nông nghiệp của nước ta. Các nghiên cứu này tìm ra những
điểm hạn chế cản trở sự phát triển nền nông nghiệp, từ đó có cơ sở để đề xuất với nhà
6
nước đưa ra những chính sách và giải pháp đồng bộ làm cho nền nông nghiệp ngày
càng phát triển.
Các nhà nghiên cứu đã điều tra được sự ảnh hưởng của việc tăng thời gian và sự
phức hợp luân canh trên sản lượng cây trồng trong các hệ thống nông nghiệp hữu cơ
trong giai đoạn mười năm. Họ đã phát hiện ra rằng sự luân phiên phức tạp hơn và lâu
hơn bằng cách sử dụng ngô, đậu nành, lúa mì và cỏ khô sẽ mang lại sản lượng ngô
nhiều hơn 30% so với một vụ luân canh ngô và đậu nành đơn giản. Nhiều loại cây
trồng phụ và thời gian luân phiên giúp cung cấp đầy đủ khí nitơ và làm giảm đi sự cạnh
tranh của cỏ ,do đó làm tăng sản lượng cây trồng. [9]

Vào mùa đông ở vùng đồng bằng và các tỉnh phía bắc trồng các cây có nguồn
gốc xứ lạnh ( khoai tây, cải bắp, xu hào ) hoặc các nhóm cây xứ nóng ngắn ngày như
( ngô, đậu rau các loại ) không nhũng nâng cao sản lượng, tăng hiệu quả kinh tế mà
còn có tác dụng bảo vệ và bồi dưỡng đất [4].
Theo tác giả Bùi Huy Đáp [5] với “cơ sở khoa học của cây vụ đông” đã di sâu
nghiên cứu bố trí cây vụ đông cho nhiều vùng sinh thái có hệ thống luân canh 2 vụ lúa
– 1 vụ đông hoặc 1 vụ lúa – 1 vụ màu – 1 vụ đông
Lê Quốc Hưng (1994) [6] khi nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu cây trồng cho vùng gò
đồi tỉnh Hà Tây đã đề xuất mô hình canh tác mới đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn mô
hình cũ
- Trên chân đất cao thiếu nước: Cây ăn quả - lúa – cá
- Trên đất gò đồi đang canh tác: Chè – cây ăn quả - dứa
- Trên đất gò đồi hoang hóa: cây keo tai tượng cải tạo đất, đến năm thứ 6 thu
hoạch và trồng cây công nghiệp dài ngày
* Các nghiên cứu liên quan đến hệ thống chăn nuôi
Các tác giả Vũ Đình Tôn, Phan Đăng Thắng ( trung tâm nghiên cứu liên
nghành và phát triển nông thôn, đại học nông nghiệp hà nội), S. Desvaux (CIRAD,
PRISE Consortium in Vietnam, Viện thú y quốc gia, Hà Nội), M. Peyre, J-F. Renard,
F. Roger (Trung tâm hợp tác quốc tế về nghiên cứu và phát triển nông nghiệp, F34398,
Montpellier, Pháp) thực hiện nghiên cứu về mối quan hệ giữa các hệ thống chăn nuôi
gia cầm và HPAI. Nghiên cứu tiến hành từ tháng 3-8/2007 tại tỉnh Hà Tây (Đồng bằng
sông Hồng) và Long An (Đồng bằng sông Cửu Long). Kết quả nghiên cứu là có 3 hệ
7
thống chăn nuôi gia cầm chính bao gồm các hệ thống chăn nuôi gia cầm quy mô hàng
hóa với sự đầu tư tốt chuồng trại (hệ thống 1); các hệ thống chăn nuôi gia cầm quy mô
hàng hóa không có đầu tư chuồng trại (hệ thống 2); hệ thống chăn nuôi gia cầm quy
mô nhỏ (hệ thống 3). Số lượng gia cầm được nuôi trong các hệ thống chăn nuôi gia
cầm quy mô hàng hóa nhiều hơn rất nhiều hệ thống chăn nuôi gia cầm quy mô nhỏ. Số
lượng các loài gia cầm được nuôi trong các hệ thống 2 và 3 nhiều hơn trong hệ thống 1.
Tỷ lệ các nông hộ có đàn gia cầm bị mắc H5N1 trong giai đoạn 2003-2005 ở hệ thống

2 và 3 nhiều hơn hệ thống 1 (21%-59% so với 33%-36%). Hệ thống 2 và 3 có mức độ
an toàn sinh học thấp, nhiều loại gia cầm được nuôi trong cùng một hộ gia đình với
một diện tích dành cho chăn nuôi hạn chế hoặc chăn thả tự do… Hiểu biết về vệ sinh
dịch tễ, phòng bệnh bằng vắc-xin cho đàn gia cầm còn hạn chế. Đây là những nguy cơ
tiềm ẩn của dịch bệnh trong đó có bệnh cúm H5N1. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, toàn
bộ đàn gia cầm trong hệ thống 1 đều được tiêm phòng vắc-xin, trong khi chỉ có từ 875-
90% trong hệ thống 2, 58% trong hệ thống 3 được tiêm vắc-xin phòng bệnh. Việc bán
chạy gia cầm, gồm cả gia cầm bị bệnh khi có dịch là phổ biến trong chăn nuôi, đây là
một trong những nguyên nhân làm tăng thêm dịch bệnh trong chăn nuôi. Nguồn con
giống gia cầm được cung cấp phần lớn từ các lò ấp trứng gia cầm tư nhân, xong khâu
kiểm soát vệ sinh ấp nở, chất lượng con giống còn bị hạn chế. Biện pháp tiêm vắc-xin
phòng bệnh cúm gia cầm đã góp phần ngăn chặn dịch bệnh bùng phát trên đàn gia cầm
được tiêm. [7]
Một dự án toàn diện mới được thực hiện liên quan đến chăn nuôi lợn thịt hữu
cơ. Liên quan đến việc xây dựng chuồng trại với sân chơi ngoài trời, Mứller (2000),
Olsen (2001) và Olsen và ctv. (2001) nghiên cứu chi tiết ảnh hưởng của loại nền bên
trong chuồng (hố đằm và một phần sàn gỗ), kích thước sân ngoài trời và một phần bao
phủ sân ngoài trời đến chăn nuôi và tập tính. Trong mọi trường hợp, những chuồng
nuôi này phải được để thông thoáng tự nhiên và nền của sân chơi phải chắc chắn (làm
bằng bêtông). Tổng thể, các kết quả chăn nuôi rất tốt đã thu được từ hệ thống này,
>900 g tăng trọng/ngày, khả năng tiêu thụ thức ăn thấp và lượng thịt nạc xấp xỉ 60%.
Mức độ đánh nhau trong đàn là thấp và không khí trong chuồng tốt với nồng độ
amoniac, CO2 và bụi bẩn thấp. Kết quả này có được một phần là hầu hết lượng phân
8
(>80%) được thải ra ở sân chơi bên ngoài. Việc này làm việc sử dụng rơm thấp hơn so
với những phương thức khác dựa vào ổ rơm dày.
Về công tác chữa trị, có rất ít sự khác nhau. Những kiểu chuồng này được mô tả
chi tiết bởi Olsen (2001) không có nghi vấn gì rằng chúng có thể hoạt động rất tốt
nhưng xây dựng chúng sẽ đắt.
Một mô hình khác mà lợn được nuôi từ khi cai sữa đến khi giết mổ trong hệ

thống chuồng có sân chơi, đường chạy đã được nghiên cứu chi tiết. Đường chạy được
đặt trên cao của vùng đất được tạo bởi một lớp vỏ trên một màng chống thấm. Do vậy,
nước mưa và nước tiểu được lưu lại, điều đó có nghiã là không bị ngấm xuống đất.
Nhìn chung, một hệ thống như vậy mang lại kết quả chăn nuôi rất tốt (Jensen và
Andersen, 2000). Tuy nhiên, việc kiểm soát ký sinh trùng là rất khó. Một điểm thú vị
khác của phương thức này là lượng Nitơ mất đi từ khu vực bên ngoài nhỏ hơn nhiều so
với những gì dự đoán (Mứller et al., 2000) và lượng Nitơ lỏng thu được trong vùng đất
này là cực kỳ thấp, thể hiện rằng lượng Nitơ này được tạo gắn sâu vào ổ rơm dày qua
con đường vi sinh vật.
Đối với lợn nái nuôi ngoài trời. Vaarst và cs (2000) theo dõi một vài bệnh lâm
sàng. Những tổn thương cơ học gây gãy chân, tổn thương da và cháy nắng là những
biểu hiện lâm sàng nổi bật nhất. Feenstra (2000) đã nghiên cứu sự lan truyền mầm
bệnh qua các mẫu máu và kiểm tra phổi lúc giết mổ từ 4 đàn lợn nuôi hữu cơ. Kết luận
rằng phổi của chúng tốt hơn so với những đàn nuôi theo phương thức truyền thống,
điều này tương tự như kết quả cuộc điều tra của Thụy điển tiến hành tại lò mổ (Hansen
và Cs 1999).
Kháng thể đối với vi khuẩn Mycoplasma hyopneumonia và Salmonella có xuất
hiện ở lợn nái từ tất cả các đàn. Những kháng thể này không có ở lợn con nhưng kháng
thể với vi khuẩn Salmonella được tìm thấy ở lợn nuôi đến giai đoạn kết thúc tại độ
chuẩn thấp. Bệnh tiêu chảy của lợn sau cai sữa do vi khuẩn Escherichia coli là vấn đề
sức khỏe nổi bật nhất.
Trong một nghiên cứu so sánh độ tuổi cai sữa lúc 5 và 7 tuần tuổi, Andersen và
ctv (2000) thấy rằng không có sự khác nhau nào về sự giảm khối lượng (giảm 4 - 3 kg),
hay sự xâm phạm đối với lợn con về tuổi cai sữa.[8]
* Các nghiên cứu liên quan đến hệ thống chế biến
9
Trường đại học Nông Lâm TP.HCM đã kết hợp với Sở Công Thương Tiền
Giang thực hiện đề tài “Nghiên cứu công nghệ và hệ thống thiết bị chế biến hủ tiếu quy
mô vừa và nhỏ năng suất 1 tấn/ngày” nhằm tìm ra giải pháp về công nghệ và thiết bị để
giải quyết những khó khăn trên trong việc sản xuất, đáp ứng nhu cầu sản xuất hủ tiếu

của địa phương; Đề tài do PGS.TS Nguyễn Hay và KS. Nguyễn Văn Công đồng chủ
nhiệm. Với mục tiêu giảm bớt các công đoạn thủ công và hạn chế việc phụ thuộc vào
thời tiết trong quá trình sản xuất hủ tiếu, chủ động trong sản xuất, và bảo đảm an toàn
vệ sinh thực phẩm, nhóm thực hiện đề tài đã nghiên cứu thiết kế, chế tạo các thiết bị
chính đưa vào sử dụng trong các công đoạn sản xuất truyền thống. Kết quả nghiên cứu
cho thấy. Một là:Việc nghiên cứu chế tạo hệ thống chế biến hủ tiếu đáp ứng nhu cầu
chế biến hủ tiểu của các hộ, các cơ sở hủ tiếu. Hai là: Hệ thống chế biến hủ tiếu được
chế tạo dựa trên quy trình chế biến thủ công, truyền thống của các hộ sản xuất hủ tiếu.
Ba là: Công suất hệ thống chế biến hủ tiếu là 1tấn/ngày (chỉ tính 1 ca 5 giờ), nếu tính 3
ca thì công suất là 3 tấn/ngày. Bốn là: Về giá thành hủ tiếu, so với giá thủ công thì có
thể ngang hoặc cao hơn, tuy nhiên vấn đề an toàn vệ sinh thực thẩm được đảm bảo,
đồng thời chủ động được thời tiết và sản phẩm có thể đưa vào bán được ở các siêu
thị…Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, chế tạo thành công hệ thống chế biến hủ tiếu sẽ
giới thiệu phổ biến đến các hộ sản xuất trong làng nghề chế biến hủ tiếu để nâng cao
chất lượng của sản phẩm hủ tiếu Mỹ Tho,mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong
thời gian tới.[11]
* Các nghiên cứu về hệ thống sản xuất ở vùng gò đồi
Vùng gò đồi là vùng mà địa bàn có tiềm năng về đất đai và nguồn lao động
thuận lợi cho phát triển kinh tế, nhất là phát triển lâm nghiệp, kinh tế trang trại (trồng
trọt và chăn nuôi). Các ngành nghề chưa phát triển, kết cấu hạ tầng còn thấp kém, trình
độ canh tác của người lao động còn hạn chế, mô hình lúa – cá, sen – cá đang được
nhân dân triển khai nhân rộng, lượng và chất lượng, đặc biệt chương trình Zebu hóa
đàn bò, nạc hóa đàn lợn [12] Về cải tạo vườn tạp: Đã đưa một số cây trồng có giá trị
kinh tế vào trồng tại vườn nhà và vườn đồi như xoài ghép Trung Quốc, bưởi Bimilo
Trung Quốc , cam, chanh.[12]
Về chăn nuôi cùng với việc khai thác thế mạnh vùng gò đồi các xã đã tích cực
phát triển đàn gia súc, gia cầm cả về số
10
Về kinh tế trang trại các trang trại với quy mô vừa và nhỏ, hầu hết các trang trại ở đây
phát triển theo hướng nông lâm kết hợp như VAC, VẢC, vườn rừng, ao rừng, [12]

Bộ Khoa học công nghệ và môi trường (cũ) đã đầu tư cho Thanh Hóa Dự án xây dựng
mô hình kinh tế lâm nông kết hợp trên vùng gò đồi nghèo khó xã Cẩm Châu, huyện
Cẩm Thủy. Sau 5 năm thực hiện, Dự án đã tạo được các mô hình trình diễn về kinh tế
tổng hợp vùng gò đồi gồm cây lâm nghiệp, cây ăn quả, cây nông lâm kết hợp và chăn
nuôi để phát huy tối đa tiềm năng đất đai. Khi thực hiện dự án Cẩm Châu, chúng ta đã
trồng được 230ha cây ăn quả tập trung. Người dân đã tự bỏ vốn trồng thêm hàng trăm
hécta cây ăn quả phân tán trong vườn rừng, tạo ra một vùng cây ăn quả lớn, trù phú,
nhưng do không có đầu ra ổn định, giá cả bấp bênh, có năm giá nhãn rớt xuống chỉ còn
1.500đồng/kg. Nhà nước chưa đầu tư xây dựng hoặc liên kết xây dựng nhà máy chế
biến nên năm 2006, 2007 dân Cẩm Châu đã chặt gần 2.000 gốc nhãn, vải để trồng
luồng và quay lại sản xuất lương thực vì ngô sắn đang có giá cao. Những cây nhãn còn
lại trên đồi cũng bị tỉa thưa cành nhánh sát đến ngọn. Họ không quan tâm đến năng
suất cây ăn quả mà nghĩ làm sao rút đất ra cho sản xuất lương thực càng nhiều càng tốt.
Rõ ràng bài toán cây ăn quả vùng đồi vẫn loanh quanh chưa có định hướng phát triển
bền vững, cũng như trong nông nghiệp với cây mía, cây dứa, cà phê hoặc bò sữa
người dân dễ mất phương hướng chạy theo thị trường ngắn hạn, nhưng chính họ cũng
không biết là thị trường không[13]
* Các nghiên cứu về hệ thống sản xuất ở vùng đồng bằng
Kết quả nghiên cứu của Học Viện Nông nghiệp Quốc gia Paris – Grignon, Pháp
[14] là : Các hệ thống sản xuất chính là, hệ thống sản xuất đa canh – chăn nuôi và nuôi
cá quy mô hàng hoá, hệ thống sản xuất đa canh – chăn nuôi và chăn nuôi động vật dạ
dày đơn quy mô hàng hoá, hệ thống sản xuất đa canh - chăn nuôi và canh tác cây ăn
quả hoặc làm vườn quy mô hàng hoá, hệ thống sản xuất đa canh – chăn nuôi và thu
nhập từ các công việc ngoài nông nghiệp và hệ thống sản xuất đa canh – chăn nuôi và
bán một phần các sản phẩm ở quy mô sản xuất nhỏ.
* Các nghiên cứu về hệ thống sản xuất ở vùng ven đô
Hiện nay do tiến trình công nghiệp hóa nông nghiệp và đô thị hóa nông thôn
ngày càng mở rộng, nên diện tích đất nông nghiệp nói chung, diện tích đất trồng lúa
nói riêng ngày càng bị thu hẹp. Tuy nhiên, diện tích đất vùng ven các đô thị ngày càng
11

được mở rộng, giá đất được nâng cao; nếu vẫn nuôi, trồng những giống vật nuôi và cây
trồng như cũ thì hiệu quả thấp và rất lãng phí, lại gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng
đến cảnh quan vùng ven đô.
Mục đích của phát triển kinh tế vùng ven đô là tạo vành đai xanh cho đô thị, gắn
với dịch vụ, du lịch sinh thái, cung cấp những nông sản có chất lượng cao trực tiếp cho
vùng nội ô, sau đó là cung cấp cho thị trường địa phương, khu vực hay xuất khẩu;
nhưng không làm ô nhiễm môi trường, không làm ảnh hưởng đến cảnh quan vùng ven
đô. Trong lĩnh vực nông nghiệp đối tượng được quan tâm nhất và có hiệu quả nhất là
sinh vật cảnh bao gồm các loại hoa, các loại cây cảnh (trong đó quan trọng là Bonsai),
cá cảnh, chim cảnh, chó cảnh và làm hòn non bộ, hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và
đồ lưu niệm nói riêng [15]
12
PHẦN 3 : Đối Tượng, Phạm vi, nội dung Và Phương Pháp Nghiên Cứu
3.1. Điểm nghiên cứu
Điểm nghiên cứu là cả 8 thôn của xã Phú Mậu
3.2. Đối Tượng Nghiên Cứu
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống sản xuất tại xã Phú Mậu
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu về hệ thống sản xuất của xã Phú
Mậu
- Phạm vi về mặt không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu tai xã Phú Mậu.
- Phạm vi về mặt thời gian: Đề tài được nghiên cứu trong khoảng thời gian từ ngày
5/1/2009 đến ngày 9/5/2009
3.4. Nội dung nghiên cứu
 Tìm hiểu đặc điểm điểm nguồn lực của nông hộ:
+ Số nhân khẩu, cơ cấu nhân khẩu, trình độ văn hóa của các nhân khẩu
+ Tổng diện tích đất, cơ cấu sử dụng các loại đất
+ Khả năng về tài chính của nông hộ: các nguồn thu tiền mặt, vốn dự trữ, các loại tài
sản, khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay, vốn tự có…
+ Cơ hội và khả năng tiếp cận tới tiến bộ khoa học kĩ thuật như tham gia vào các lớp

tập huấn…
 Nghiên cứu các hệ thống sản xuất ở cấp nông hộ: TT, CN, NTTS, chế biến.
+ Trồng trọt:
- Diện tích đất trồng trọt
- Các loại cây trồng, cơ cấu diện tích các loại cây trồng
- Mùa vụ gieo trồng và thu hoạch của các loại cây trồng
- Các yếu tố ảnh hưởng ( tích cực và tiêu cực) tới việc trồng các loại cây này
Điều kiện tự nhiên: nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, tình hình sâu bệnh, đất đai…
Điều kiện kinh tế xã hội: cơ sở hạ tầng, thu nhập, mức sống của các khách hàng,
phong tục tập quán,
Các chính sách, thể chế: những chính sách của địa phương
13
Thông tin thị trường: khả năng tiếp cận các thông tin, tiếp cận như thế nào và các hình
thức tiếp cận
- Chi phí của hệ thống ( nghìn đồng/sào/vụ)
- Thu nhập từ trồng trọt
+ Chăn nuôi
- Các loại vật nuôi, số lượng các loại vật nuôi, các loại thức ăn và nguồn cung cấp thức
ăn cho các loại vật nuôi
- Chi phí từ chăn nuôi ( nghìn đồng/năm)
- Thu nhập từ chăn nuôi
- Các yếu tố ảnh hưởng ( tích cực và tiêu cực) đến việc chăn nuôi
+ Nuôi trồng thuỷ sản
- Chi phí từ nuôi trồng thuỷ sản (nghìn đồng/năm)
- Thu nhập từ nuôi trồng thuỷ sản
- Các yếu tố ảnh hưởng tới nuôi trồng thuỷ sản
Điều kiện tự nhiên: nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, tình hình sâu bệnh, đất đai…
Điều kiện kinh tế xã hội: cơ sở hạ tầng, thu nhập, mức sống của các khách hàng,
phong tục tập quán
Các chính sách, thể chế: những chính sách của địa phương

thông tin thị trường: khả năng tiếp cận các thông tin, tiếp cận như thế nào và các hình
thức tiếp cận
+ Hệ thống chế biến
- Chi phí chế biến: tiền điện, công lao động, máy móc
- Lợi nhuận thu được từ chế biến
- Các yếu tố ảnh hưởng tới việc chế biến
thông tin thị truờng: khả năng tiếp cận các thông tin, tiếp cận như thế nào và các hình
thức tiếp cận
 Nghiên cứu hệ thống cung ứng về đầu vào và đầu ra của các sản phẩm của hệ thống
- Các nguồn cung ứng đầu vào: HTX, tư nhân, các tổ chức…
- Khả năng cung ứng đầu vào: số lượng, chất lượng, thời điểm, giá cả, thời gian…
- Hình thức cung ứng đầu vào của các nguồn
- Khả năng tiếp cận các dịch vụ khuyến nông, thú y…
14
- Các nguồn tiêu thụ sản phẩm của các hệ thống,
- Khả năng tiêu thụ: số lưọng, chất lượng, giá mua, thời gian, thời điểm…của các
nguồn
- Hình thức tiêu thụ của các nguồn
 Nghiên cứu hệ thống sản xuất ở cấp độ cộng đồng:
- Quy mô các hệ thống của thôn, xã
- Tỉ lệ hộ trong thôn, xã có các hệ thống
- Hình thức tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các hệ thống ở thôn, xã
- Chi phí trung bình của các hệ thống ( nếu trồng trọt thì nghìn đồng/ sào/vụ, nếu chăn
nuôi và nuôi trồng thuỷ sản thì nghìn đồng/năm, nếu chế biến thì nghìn đồng/ năm)
- Thu nhập trung bình từ các hệ thống sản xuất của thôn, xã ( nghìn đồng/năm/ sào đối
với trồng trọt, còn lại là nghìn đông/năm)
- Các yếu tố ảnh hưởng tới việc sản xuất ở thôn, xã
Thông tin thị truờng: khả năng tiếp cận các thông tin, tiếp cận như thế nào và các hình
thức tiếp cận
3.5. Phương Pháp Nghiên Cứu

- Thu thập thông tin thứ cấp
+ Lấy thông tin từ cục thống kê
+ Từ UBND xã
+ Thu thập thông tin từ sách báo, internet…
- Thu thập thông tin sơ cấp
 Chọn mẫu điều tra
+ Chọn mẫu ngẫu nhiên 30 hộ thuộc 8 thôn của xã Phú Mậu
+ Ngoài ra tiến hành phỏng vấn cán bộ khuyến nông xã
phương pháp phỏng vấn hộ bằng bảng câu hỏi có cấu trúc
+ Đi thực địa, khảo sát tình hình các hệ thống sản xuất ở xã
3.6. Xử lí số liệu
- Dùng các hàm trên phần mềm Excel như hàm average, max, min, sum…
15
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Tình hình cơ bản của xã Phú Mậu
4.1.1. Điều kiện tự nhiên của xã Phú Mậu
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Trong nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hóa hiện nay vị trí địa lý của địa bàn sản
xuất đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất
cũng như trong vận chuyển tiêu thụ sản phẩm đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp. Cụ thể là: nếu một địa phương nào đó có vị trí địa lí là một nơi trung tâm được
nhiều người biết đến, đồng thời là nơi dễ dàng để giao lưu được với các địa phương
khác thì chắc chắn địa phương đó sẽ có nhiều cơ hội để phát triển nền kinh tế của
mình.
Phú Mậu là một trong những xã của huyện Phú Vang. Nếu tính theo đường
chim bay thì xã Phú Mậu cách trung tâm thành phố Huế 3km, cách huyện lị Phú Vang
22km đi về phía tây. Nhưng do địa hình bị cách trở bởi các con sông suối, do đó mà
khoảng cách từ trung tâm thành phố Huế đến địa bàn xã lên tới 6Km. Đây là một khó
khăn lớn đối với người dân Phú Mậu và cần có biện pháp khắc phục.
Vị trí địa lý của xã được xác định như sau:

Phía Bắc giáp với xã Phú Thanh huyện Phú Vang
Phía Nam giáp với phừơng Phú Hậu thành phố Huế
Phía Đông giáp xã Phú Dương, Phú Thượng huyện Phú Vang
Phía Tây giáp xã Hương Vinh, Hương Phong huyện Hương Trà.
Đây là xã mà có hai phía giáp đất liền và 2 phía giáp sông suối. cụ thể là:Về phía
nam và phía tây có sông hương bao bọc. Còn phía bắc và phía đông giáp đất liền.
Xã có 7 thôn (Vọng Trì, Tiên Nộn, Thanh Tiên, Thế Vinh, Mậu Tài, Lệ Ân, Triêm
Ân) chia thành 9 địa bàn sinh hoạt theo cụm dân cư cách nhau khá xa, chạy dọc theo
tuyến Sông Hương dài 7Km và sông Phổ Lợi 7Km. Toàn xã có 2 HTX điều hành sản
xuất các thôn. Thôn Tiên Nộn, thôn Thế Vinh, thôn Vọng Trì và thôn Thanh Tiên do
HTX nông nghiệp Phú Mậu 2 điều hành sản xuất. Thôn Lại Ân, thôn Triêm Ân, thôn
Mậu Tài thì HTX nông nghiệp Phú Mậu 1 điều hành sản xuất. Trong các thôn này thì
thôn Mậu Tài là rộng lớn nhất, do đó mà thôn này chia thành 3 cụm và một đội sản
16
xuất, trong khi đó các thôn khác chỉ có một cụm sản xuất. Thường thì cụm trưởng cụm
sản xuất đồng thời là thôn trưởng. Còn thôn có diện tích và dân số ít nhất là thôn Thế
Vinh.
Hiện nay toàn xã có một trạm y tế, một trừơng trung học cơ sở, hai trường tiểu
học, một trường mẫu giáo, có lớp học bán trú. Đồng thời ở trên địa bàn xã còn có bốn
nhà thờ thiên chúa giáo, có ba bến đò ngang, có nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Chí
Diễu tại thôn Thanh Tiên. Hàng năm có lễ hội vật truyền thống làng Sình. Ở thôn Tiên
Nộn còn có phủ Ninh Thuận và điểm bưu điện văn hóa xã.
Với vị trí địa lý như trên xã Phú Mậu có nhiều điều kiện thuận lợi để giao lưu kinh
tế - văn hóa - xã hội với các địa phương khác.
4.1.1.2. Địa hình
Xã Phú Mậu là vùng đồng bằng thấp trũng, địa hình tương đối bằng phẳng với
độ dốc < 1%. Do đó mà hàng năm thường diễn ra nhiều trật lụt và cướp đi biết bao mùa
vụ của bà con. Diện tích đất chủ yếu là dất thịt và thịt nhẹ. Hàng năm được lũ bồi đắp
một lượng phù sa lớn có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nhất là lúa và
các loại rau màu.

Do địa hình được bao bọc bởi hai mặt sông và thấp trũng nên khi mùa lũ về gây nên
tình trạng xói lở xâm thực bờ sông ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của người dân.
4.1.1.3. Điều kiện thời tiết khí hậu
Thời tiết khí hậu là điều kiện tiên quyết, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản
xuất nông nghiệp. Nếu gặp thời tiết thuận lợi như mưa thuận gió hòa thì vụ mùa của bà
con nông dân sẽ bội thu, đời sống của họ sẽ được cải thiện. Ngược lại nếu thời tiết mà
hết sức khắc nghiệt thì bà con nông dân sẽ bị mất trắng tay, khi đó cuộc sống của họ sẽ
gặp không ít những khó khăn. Để giảm thiểu rủi ro trong sản xuất nông nghiệp thì cần
phải có nhiều biện pháp để né tránh thiên tai vào các giai đoạn đỉnh điểm của cây trồng
như trổ, sắp thu hoạch. Để làm được điều này thì đòi hỏi chúng ta phải nắm được diễn
biến thời tiết, khí hậu của địa phương trong những năm gần đây. Do đó chúng ta cần
phải tiến hành nghiên cứu tình hình thời tiết, khí hậu của vùng. Sau khi chúng ta nắm
vững về tình hình thời tiết, khí hậu của một vùng nào đó thì bắt đầu đưa về cho vùng
một lịch thời vụ hợp lí và khuyến cáo cho bà con nên trồng các loại giống gì? Thời
điểm trồng của các loại giống đó, làm tăng hiệu quả sản xuất ngành nông nghiệp. Bên
17
cạnh đó còn góp phần xây dựng kế hoạch phòng chống bão lũ, hạn hán nhằm giảm nhẹ
thiên tai và đảm bảo nguồn nước vào mùa khô.
Xã Phú Mậu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong năm có 2 mùa rõ
rệt. Đó là mùa mưa và mùa khô, mùa mưa kéo dài hơn mùa nắng, mùa mưa thì bắt đầu
từ tháng 9 năm trước và kéo dài cho đến tháng 3 năm sau. Mùa nắng thì chỉ bắt đầu từ
tháng 4 và kết thúc trong tháng 8. Đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp hoạt động của
hai loại gió mùa chính, đó là gió mùa Đông Bắc và gió Tây Nam. Gió Đông Bắc bắt
đầu hoạt động từ tháng 10 năm trước và kết thúc vào tháng 3 năm sau thường gây mưa
lụt vào tháng 10 và tháng 11. Gió Tây Nam hoạt động từ tháng 4 và kết thúc vào tháng
8, thường gây nóng và khô hạn.
Mặt khác xã Phú Mậu còn chịu ảnh hưởng của gió Lục Địa và gió Đại Dương,
thường xuyên hoạt động làm thay đổi đến chế độ nhiệt ẩm trong các mùa.
Chế độ nhiệt, lượng mưa, độ ẩm trung bình của các tháng được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Số liệu thời tiết khí hậu trung bình trong 10 năm của xã

Phú Mậu (1998 - 2008)
Tháng Nhiệt độ (
0
C) ẩm độ (%) Mưa (mm)
TB Max Min TB Min SN R
1 20,3 30,7 15,8 91,2 57,8 12,1 120,6 108,0
2 20,7 31,9 16,5 90,4 55,4 12,3 75,0 96,70
3 23,2 35,6 18,1 89,7 51,2 10,1 59,5 141,4
4 26,0 37,1 20,8 86,2 51,2 9,8 67,5 161,0
5 27,9 37,4 23,0 82,7 46,3 13,7 142,3 214,8
6 28,9 37,4 24,2 78,8 43,8 8,8 92,1 234,1
7 28,9 38,1 24,0 77,3 41,8 9,4 64,6 234,5
8 28,6 38,0 24,5 78,7 40,5 9,7 158,3 205,0
9 26,6 35,6 23,2 87,5 49,8 17,7 462,2 134,6
10 25,2 32,8 21,3 90,4 55,9 19,8 756,8 125,5
11 23,8 31,6 19,4 91,9 57,20 20,1 854,4 97,8
12 20,3 28,5 16,3 92,6 58,80 21,1 472,2 58,7
( Nguồn trung tâm khí tượng thủy văn Thừa Thiên Huế )
18
Qua bảng 1: ta thấy rằng:
 Nhiệt độ
Nhiệt độ ở phú mậu có sự thay đổi lớn theo từng mùa. Nhiệt độ bình quân giữa
các tháng giao động từ 20,3
0
C - 28,9
0
C. Tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 7 (38,1
0
C).
tháng có nhiệt độ thấp nhất là tháng 1(15,8

0
C). Với điều kiện nhiệt độ này đa số các
loại hoa cúc, rau các loại, màu, dưa chỉ thích hợp trong vụ Đông Xuân, còn vụ Hè
Thu thì chỉ rất ích giống là thích hợp. Nhưng lúa là loại cây trồng khá thích hợp với
điều kiện nhiệt độ này trong cả hai vụ. Tuy nhiên để có năng suất lúa vụ Hè Thu cao
thì cần phải thu hoạch khẩn trương trước ngày mồng 2/9. Nếu không thì sẽ gặp nhiều
rủi ro và có thể mất trắng vụ Hè Thu.
 Ẩm độ
Ẩm độ trung bình của các tháng giao động từ 77,3% - 92,6%. Từ tháng 10 năm
trước đến tháng 2 năm sau độ ẩm đạt cao nhất 90,4% - 92,6%. Độ ẩm cao đây là điều
kiện hết sức thuận lợi cho sâu bệnh phát sinh gây hại, ảnh hưởng xấu tới quá trình sinh
trưởng và phát triển của các loại cây trồng. Vào các tháng có độ ẩm cao này thì không
thuận lợi để thu hoạch các sản phẩm có hạt ( lúa, đậu các loại, bắp) và các loại bông.
Nếu thu hoạch về thì tỉ lệ sản phẩm bị hỏng cao, đồng thời sẽ không bảo quản được
trong thời gian dài. Nhưng đây lại là điều kiện hết sức thuận lợi cho các giai đoạn như
làm bông và phơi màu của cây lúa, và các giai đoạn sinh trưởng phát triển của các loại
cây trồng khác. Các tháng 6,7,8 có độ ẩm thấp nhất trong năm là 77,3% - 78,8% thuận
lợi cho giai đoạn phân hóa mầm hoa và ra hoa.
 Lượng mưa
Mưa tập trung nhiều vào các tháng 9, 10, 11 (462,2mm - 854,4mm). Trong đó
lượng mưa đo được cao nhất vào tháng 11 đạt 854,4mm. Hầu hết các loại cây trồng
khi đã vào mùa thu hoạch thì đều cần có thời tiết nắng ráo, do đó cần phải bố trí thời vụ
cho các loại cây trồng để thời điểm thu hoạch không rơi vào các tháng này.
Lượng mưa trung bình thấp vào các tháng 2, 3, 4, 6, 7 (59,5mm - 92,1mm). Tháng 3 có
lượng mưa thấp nhất là 59,5mm. Với điều kiện thủy lợi hạn chế, các tháng này thường
xảy ra tình trạng khô hạn do thiếu nước tưới. Vào các tháng có lượng mưa thấp này thì
không thích hợp để trồng các loại cây. Đặc biệt nếu thời kì trổ bông của cây lúa mà rơi
19
vào thời điểm này thì tỉ lệ bông lép và hạt lép sẽ cao. Nếu trồng các loại cây vào các
tháng này thì phải chủ động được nguồn nước tưới.

Số giờ nắng trung bình thấp nhất vào tháng 12 (158,7 giờ) và cao nhất vào tháng
7(234,5 giờ)
Ngoài ra địa phương còn chịu ảnh hưởng của các đợt bão và áp thấp nhiệt đới có
cường độ mạnh kèm theo mưa lớn vào các tháng 9, 10. Đặc biệt lũ tiểu mạn xảy ra
hàng năm vào tháng 4, 5 gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp
Với điều kiện tự nhiên này thì việc sản xuất nông nghiệp của xã là gặp không ít những
khó khăn. Đầu năm gió mùa Đông Bắc rét kéo dài đến tháng 2, tiếp đến là lụt Tiểu
Mãn thường xảy ra vào khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 5, mùa mưa lại bắt đầu
từ tháng 9 và kéo dài từ tháng 3 - 4 năm sau. Bên cạnh đó còn thiếu nước tưới vào mùa
hè và mưa lũ vào mùa đông là hạn chế lớn đối với các loại cây trồng như lúa, hoa,
rau
4.1.1.4 . Tình hình sử dụng đất đai của xã
Đối với sản xuất nông nghiệp thì đất là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng và
không có cái gì có thể thay thế được. Nó vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu sản
xuất và có tính chất giới hạn theo bề mặt không gian. Quy mô và trình độ sử dụng
nguồn lực này có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập từ sản xuất nông nghiệp. Cụ thể: Nếu
một cá nhân, một hộ gia đình hay một tổ chức nào mà có trình độ sử dụng đất cao đó là
biết cải tạo đất trong quá trình sử dụng như: Biết cung cấp chất dinh dưỡng cho đất,
biết luân canh các loại cây trồng, biết bố trí các loại cây trồng có tính chất cải tạo đất
(các cây họ đậu)…thì tài nguyên đất sẽ không bị suy thoái đồng thời còn mang lại hiệu
quả kinh tế cao. Vì vậy việc tìm hiểu tình hình sử dụng đất đai là vô cùng cần thiết, nó
giúp chúng ta sử dụng hợp lí và có hiệu quả loại nguồn lực này. Cụ thể là nó giúp
chúng ta bố trí được cơ cấu cây trồng cho hợp lí từ đó mà nâng cao hiệu quả sản xuất
nông nghiệp.
20
Bảng 2: Kết quả điều tra về tình hình sử dụng đất của xã
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2007 Năm 2008
Số lượng Tỉ lệ(%) Số lượng Tỉ lệ(%)
Tổng diện tích đất tự nhiên Ha 827,46 100 827,46 100
Tổng diện tích đất thổ cư và

chuyên dùng
Ha 166,82 20,16 166,82 20,16
Diện tích đất chưa sử dụng
( đất sông suối và mặt nước)
Ha 98,26 11,87 98,26 11,87
Diện tích đất NTTS Ha 0,91 0,11 0,91 0,11
Đất trụ sở cơ quan công trình
sự nghiệp
Ha 0,75 0,09 0,75 0,09
Đất có mục đích công cộng Ha 59,96 7,25 59,96 7,25
Đất tôn giáo Ha 9,51 1,150 9,51 1,150
Đất nghĩa trang, nghĩa địa Ha 32,95 3,98 32,95 3,98
Đất sản xuất nông nghiệp Ha 426,83 51,58 426,83 51,58
( Nguồn: báo cáo tình hình sử dụng đất đai của xã năm 2007 - 2008 )
Qua bảng 2 ta thấy tổng diện tích đất tự nhiên của toàn xã là 827,46 ha. Đất đai
của xã sử dụng với nhiều mục đích khác nhau như: Đất dùng để sản xuất nông nghiệp,
đất có mục đích công cộng, đất chuyên dùng và thổ cư, đất tôn giáo, đất nghĩa trang,
nghĩa địa, đất trụ sở cơ quan công trình sự nghiệp, đất sông suối và mặt nước. Trong
đó đất sản xuất nông nghiệp là 395,26 ha, chiếm một tỉ lệ tương đối cao ( 49,67%). Đất
thổ cư và đất chuyên dùng của xã cũng chiếm một tỉ lệ lớn ( 20,96% ), đất này có xu
hướng tăng lên theo thời gian, bởi vì nhu cầu về nhà ở ngày càng cao. Một diện tích đất
tương đối lớn của xã chưa sử dụng 98,26 ha chiếm 12,35% tổng diện tích đất tự nhiên
của xã, đó là đất sông suối và mặt nước, đất này có thể nuôi trồng thủy sản. Đất trụ sở
cơ quan công trình sự nghiệp chỉ 0,75ha chiếm 0,09%. Đất nghĩa trang, nghĩa địa
chiếm 3,98%. Đất tôn giáo chiếm 9,51%. Đất nuôi trồng thủy sản chiếm một tỉ lệ rất
nhỏ là 0,1% tổng diện tích đất tự nhiên Tất cả các loại đất này không có sự biến
động trong hai năm 2007, 2008.
21
4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
4.1.2.1. Tình hình dân số và lao động

Dân số và lao động đây là loại tài sản vô cùng quý giá và quan trọng, nó quyết
định đến việc phát triển kinh tế của địa phương. Nó có thể làm cho nền kinh tế của địa
phương phát triển mạnh nhưng ngược lại thì nó có thể làm cản trở sự phát triển nền
kinh tế của địa phương. Khi mà việc làm và đời sống của nhân dân được đảm bảo thì
khi đó nó thể hiện mặt tích cực của nó. Ngược lại khi mà nhân dân thiếu việc làm,
không có thu nhập, đời sống không đảm bảo thì khi đó sẽ thể hiện mặt tiêu cực của nó
như thường xảy ra các tệ nạn xã hội như trộm cắp, nghiện ngập Do đó mà muốn có
một nền kinh tế phát triển thì trước hết phải quan tâm đến việc làm và đời sống của
nhân dân, nếu không thì sẽ không bao giờ có sự phát triển. Với ý nghĩa này tôi đã tìm
hiểu cơ cấu dân số và lao động của xã.
Bảng 3: Tình hình dân số và lao động của xã
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2007 Năm 2008
Số lượng Tỉ lệ
( %)
Số lựơng Tỉ lệ
( %)
I. Tổng số hộ Hộ 1779 100 1871 100
1. hộ NN Hộ 1079 60,65 1079 60,65
2. Hộ phi NN Hộ 700 39,35 792 42,33
II. Tổng nhân khẩu Người 8323 100 8417 100
1. Nam Người 5349 64,27 5380 63,90
2. Nữ Người 2974 35,73 3037 36,10
III. Tổng lđ Lao động 4400 100 4395 100
Theo giới tính
1. Nam Lao động 1804 49 1802 49
2. Nữ Lao động 2596 51 2593 51
Theo thành phần kinh tế
1. Lao động NN Lao động 2573 58,48 2569 58,45
2. Lao động phi NN Lao động 1827 41,22 1826 41,55
IV. Bình quân

1. Bình quân nhân khẩu/hộ Khẩu 4,60 4,50
2. Bình quân lao động/hộ Lao động 2,47 2,35
Bình quân lao động nông
nghiệp/hộ
Lao động NN 1,45 1,37
( Nguồn: báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của xã năm 2007 – 2008 )
22
Qua bảng 3 trên ta thấy rằng: Hiện nay toàn xã có 1871 hộ tăng 92 hộ so với
năm 2007. Trong đó có 1079 hộ là tham gia sản xuất nông nghiệp, 700 hộ là hộ sản
xuất phi nông nghiệp. Trong khoảng thời gian hai năm 2007 đến 2008 thì số hộ sản
xuất nông nghiệp không thay đổi, còn số hộ phi sản xuất nông nghiệp tăng lên 92 hộ.
Số nhân khẩu của xã năm 2008 là 8417 người tăng 94 người so với năm 2007. Số nhân
khẩu nam chiếm 63,9%, còn số nhân khẩu nữ chỉ chiếm 36,1%. Số nhân khẩu nam có
xu hướng giảm dần, còn số nhân khẩu nữ có xu hướng tăng dần từ 35,73% - 36,1%.
Tổng số lao động cũng có xu hướng giảm dần từ 4400 lao động giảm xuống 4395 lao
động. Lao động nữ chiếm 51%, còn lao động nam chiếm 49%, đây là một khó khăn
trong sản xuất nhất là trong sản xuất nông nghiệp cần những lao động khỏe mạnh. Lao
động nông nghiệp chiếm tỉ lệ lớn hơn lao động phi nông nghiệp và lao động nông
nghiệp có xu hướng giảm dần, ngược lại thì lao động phi sản xuất nông nghiệp có xu
hướng tăng dần. Lao động sản xuất nông nghiệp từ 58,48% xuống còn 58,45%. Lao
động phi sản xuất nông nghiệp từ 41,22% lên tới 41,55%. Bình quân mỗi hộ gia đình
có 4,5 người, có 2,35 lao động trong đó có 1,37 là lao động nông nghiệp. Số nhân
khẩu/hộ, số lao động/hộ và số lao động nông nghiệp/hộ đều có xu hướng giảm dần
trong hai năm 2007,2008. Cụ thể: Năm 2007 trung bình mỗi hộ gia đình có 4,6 người
nhưng đến năm 2008 thì giảm xuống còn 5,5 người. Bình quân lao động/ hộ năm 2008
là 2,35 người trong khi năm 2007 là 2,47 người. Lao động nông nghiệp năm 2007 là
1,45 lao động, còn năm 2008 là 1,37 lao động, bởi vì nhiều lí do như: xã hội ngày càng
phát triển thì mỗi con người được học hành đầy đủ hơn do đó mà tỉ lệ công dân đi học
nghành, học nghề là lớn, hai nữa do có nhiều khu công nghiệp ra đời, nó đã thu hút rất
nhiều lao động, nhất là lao động từ sản xuất nông nghiệp.

4.1.2.2 . Tình hình cơ bản về giao thông và thủy lợi
Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả của quá trình sản xuất. Nó biểu hiện sự phát triển hay kém phát triển của một
quốc gia, một vùng, một địa phương hay một đơn vị Điều này được minh chứng ở ví
dụ sau: ở vùng nông thôn và thành thị thì có sự khác biệt rất lớn về đường giao thông,
trường học, các thiết bị phục vụ học tập, chợ, bưu điện
Trong sản xuất nông nghiệp thì giao thông và thủy lợi là 2 yếu tố quyết định đến
hiệu quả của quá trình sản xuất. Thật vậy nếu giao thông đi lại được thuận tiện thì quá
23
trình lưu thông hàng hóa được diễn ra nhanh chóng và giảm thiểu tỉ lệ hàng hóa bị hư
hỏng trong quá trình vận chuyển, đặc biệt là đối với các loại hàng dễ vỡ, dễ dập
nát Ngược lại nếu giao thông đi lại còn khó khăn thì quá trình lưu thông hàng hóa
diển ra chậm chạp và tỉ lệ hàng hóa bị hư hỏng trong quá trình vận chuyển là cao.
Đối với sản xuất nông nghiệp thì nước đóng vai trò hết sức quan trọng, người ta có câu
"nhất nước nhì phân tam cần tứ giống". Nếu trong một giai đoạn sinh trưởng nào đó
của cây trồng mà bị thiếu nước thì năng suất thấp và chất lượng của cây trồng sẽ rất
kém. Ngược laị trong các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng nếu
tiêu và thoát nước tốt thì năng suất cao và chất lượng tốt. Ví dụ nếu vào giai đoạn trổ
bông của cây lúa mà bị thiếu nước thì tỉ lệ hạt lép trên bông cao và tỉ lệ bông trên cây
rất thấp.
 Giao thông
Thực hiện phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm thì nhiều tuyến đường
mới được mở rộng với chất lượng cao. Trên địa bàn xã có tuyến tỉnh lộ chạy qua với
chiều dài là 2,5Km. Tuyến WB2 đã thâm nhập nhựa được 2Km và bê tông được
1,5Km. Đồng thời đã bê tông đường nông thôn liên thôn liên xóm được 16Km và địa
phương đang có chủ trương bê tông thêm 2Km vào năm 2009. Đây là một thuận lợi rất
lớn trong sản xuất nông nghiệp.
 Thủy lợi
+ Trạm bơm
Hiện nay trên địa bàn xã đã có 3 trạm bơm điện do HTX liên doanh xây dựng

với công ti quản lí kĩ thuật công trình thủy lợi tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong đó HTX
nông nghiệp phú mậu 2 chỉ có một trạm bơm điện Vọng Trì. Trạm này có 2 máy công
suất 2000m
3
/giờ đảm trách diện tích 100ha 2 vụ. Trong vụ hè thu nếu bị hạn nặng có
khả năng bơm chuyền qua hói Mậu Tài của HTX nông nghiệp Phú Mậu 1. HTX nông
nghiệp Phú Mậu 1 thì có 2 trạm bơm điện. Ngoài ra xã còn hợp đồng với các tư nhân
có máy bơm dầu để phục vụ tưới tiêu cho vùng sản xuất.
+ Kênh tưới
Hệ thống thủy lợi phục vụ tưới và tiêu nước của xã là đã khá hoàn thiện. Từ
năm 2000 tới nay cùng với sự đầu tư kinh phí của huyện và của công ti quản lí kĩ thuật
công trình thủy lợi tỉnh Thừa Thiên Huế thì xã Phú Mậu đã kiên cố hóa được 12,3 Km
24
kênh mương. Trong đó 9km là nguồn ngân sách của huyện và nhân dân đóng góp. Còn
3,3 km là nguồn ngân sách của công ti quản lí kĩ thuật công trình thủy lợi. Thật vậy
trong khoảng thời gian từ năm 2000- 2008 với nguồn ngân sách mà huyện bỏ ra là gần
1,8 tỉ đồng cùng với 672 triệu đồng do các hộ gia đình đóng góp thì trên địa bàn xã đã
kiên cố hóa kênh mương đựơc 9,0025Km. Trong đó thì 4,7135Km là của địa bàn HTX
nông nghiệp phú mậu 2. Còn 4,289Km là của địa bàn HTX nông nghiệp Phú Mậu 1.
Cũng trong khoảng thời gian này với nguồn kinh phí của công ti quản lí kĩ thuật công
trình thủy lợi tỉnh Thừa Thiên Huế thì năm 2000 xây dựng trạm bơm Phú Mậu 1 với hệ
thống kênh mưong dài là 0,57Km. Trạm bơm Phú Mậu 3 được xây dựng năm 2004 có
hệ thống kênh mương dài là 1,737Km. Đồng thời năm 2000 kiên cố hóa được 0,6Km
và đến năm 2001 kiên cố được 0,4Km ở trên địa bàn HTX Phú Mậu 2
4.2. Đặc điểm nguồn lực của nông hộ
4.2.1. Đất đai
Phú Mậu là xã ven đô thành phố, đây là xã đã áp dụng chính sách dồn điền đổi
thừa từ năm 2005. Hiện nay đất canh tác giảm so với trước đây do trích 5% diện tích
đất tự nhiên của xã làm quỹ đất công ích ( đất dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng, cấp đất
nhà ở và đất nghĩa trang ). Do đó mà hiện nay bình quân mỗi nhân khẩu có 530m

2
đất,
bao gồm các loại đất: đất thổ cư, đất vườn và đất ruộng. Sau nghị định 64 thì đất vườn
được quy vào đất màu. Hộ gia đình nào có đất màu lớn thì đất ruộng ít, thậm chí là
không có. Ngược lại hộ gia đình nào có đất ruộng lớn thì đất màu ít, thậm chí là không
có, miễn sao là có đủ 530m
2
đất cho một khẩu. Riêng thôn Triêm Ân thì mỗi hộ có 1
sào đất màu khoán ở ngoài đồng do đất vườn và đất ruộng của họ ít. Về đất ruộng
khoán thì mỗi hộ gia đình chỉ có hai mảnh ruộng ở hai vùng cách xa nhau và có điều
kiện tương đối khác nhau. Gia đình nào mà có đấu thầu thêm thì có nhiều mảnh hơn.
Ngoài phần đất mà nhà nước khoán cho các hộ thì hộ nào có điều kiện như có lao
động, có vốn Thì họ có thể đấu thầu thêm đất công ích chưa sử dụng mà UBND xã
quản lí để giải quyết việc làm và tăng nguồn thu cho gia đình. Hình thức đấu thầu thì
đấu thầu hàng năm có nghĩa là một năm tổ chức đấu thầu một lần. hộ gia đình nào có
nhu cầu cũng đều được tham gia đấu thầu, không giới hạn diện tích đất đấu thầu. Ai ưa
vùng đất nào thì đấu thầu vùng đất đó. Mức đấu thầu thì rất khác nhau giữa các vùng
đất. Nhưng nhìn chung thì bình quân là 400000/sào/năm. Sau khi đấu thầu xong thì
25

×